Luật Cán bộ, công chức đã xác định lại những người
làm việc trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập là
công chức. Như vậy, đối với những người làm trong đơn vị sự nghiệp công
lập mà không phải là cán bộ, công chức theo quy định mới vẫn tiếp tục
áp dụng các quy định hiện hành để tiếp tục thực hiện cho đến khi ban
hành Luật Viên chức.
Được thành lập công ty, doanh nghiệp, bệnh viện tư nhân
Luật
Viên chức (10 Chương 92 Điều) hiện nay đang trong quá trình lấy ý kiến
và dự kiến sẽ có hiệu lực từ 01/01/2011. Đối tượng điều chỉnh của Luật
là những người làm trong đơn vị sự nghiệp công
lập mà không phải là cán bộ, công chức theo quy định mới của Luật
CB-CC. Vì thế, Điều 2 của Luật Viên chức định nghĩa, viên chức “là
người được tuyển dụng, bổ nhiệm một chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản
lý trong đơn vị sự nghiệp công lập theo vị trí việc làm và hưởng lương
từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
Viên
chức được phân loại theo hai căn cứ trình độ đào tạo và vị trí. Theo
đó, viên chức loại A là viên chức có trình độ đào tạo giáo dục đại học
và sau đại học, viên chức loại B là viên chức có trình độ đào tạo giáo
dục nghề nghiệp và viên chức loại C là viên chức có trình độ dưới có
trình độ đào tạo giáo dục nghề nghiệp. Phân loại theo vị trí có viên
chức quản lý và viên chức thừa hành. Khác với viên chức thừa hành (được
cấp thẩm quyền giao nhiệm vụ hoặc chấp hành các nhiệm vụ gắn liền với
chuyên môn, nhiệm vụ), viên chức quản lý là viên chức được bổ nhiệm giữ
một chức vụ quản lý có thời hạn, chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều hành và
tổ chức thực hiện một hoặc một số công việc trong đơn vị sự nghiệp công
lập và được hưởng phụ cấp quản lý. Làm việc trong sự nghiệp công lập nên
tiền lương của viên chức được trả theo vị trí việc làm, chức danh nghề
nghiệp, chức vụ quản lý và gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ theo cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập. Còn các
khoản khác như tiền làm thêm giờ, làm đêm, công tác phí thì theo quy
định của pháp luật.
Khác
với công chức, bên cạnh công việc chính (việc trong giờ hành chính),
viên chức có nhiều quyền tham gia các hoạt động kinh doanh và làm việc
ngoài giờ hơn. Cụ thể, viên chức được thành lập, tham gia thành lập hoặc
tham gia quản lý, điều hành các DNTN, công ty TNHH, công ty cổ phần,
HTX, bệnh viện tư...; được làm tư vấn cho các DN, tổ chức kinh doanh,
dịch vụ về các công việc có liên quan đến nghề nghiệp; được ký hợp đồng
vụ, việc với cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, DN
và đơn vị sự nghiệp khác.
Xung đột, hay khó hiểu?
Khi
xem xét hai dự thảo Luật Viên chức và Nghị định quy định những người là
công chức trong mối tương quan chung với Luật CB-CC, có một vấn đề mà
ai cũng nhận ra là những quy định nhằm xác định công chức, viên chức
trong đơn vị sự nghiệp công lập ở cả 2 dự thảo dường như có sự xung đột
pháp luật, nếu không thì cũng rất khó hiểu ở kỹ thuật lập pháp. Cụ thể,
dự thảo Nghị định quy định những người là công chức quy định các đơn vị
sự nghiệp công lập có công chức nhưng chỉ giới hạn ở các vị trí lãnh đạo
(Khoản 1, 2 Điều 6) và cùng với đó cũng định nghĩa luôn đơn vị sự nghiệp công lập “là
các tổ chức được cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, cơ
quan Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội thành lập và quản lý theo
quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản, hoạt
động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học,
văn hóa, thể dục thể thao, lao động - thương binh và xã hội, thông tin
truyền thông và các lĩnh vực sự nghiệp khác được pháp luật quy định”
(Khoản 3 Điều 6). Nhưng nếu đem so với dự thảo Luật Viên chức thì ngoài
y hệt như định nghĩa trên (Điều 10), Luật còn phân các đơn vị này ra
thành 3 loại căn cứ theo nguồn thu: tự đảm bảo chi phí hoạt động; tự đảm
bảo một phần chi phí hoạt động; và hoàn toàn do ngân sách Nhà nước chịu
trách nhiệm (Khoản 1 Điều 8).
Và đi cùng với các quy định đó là các khái niệm về viên chức hoặc liên quan đến viên chức như: là
người được tuyển dụng, bổ nhiệm một chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản
lý trong đơn vị sự nghiệp công lập theo vị trí việc làm; phân loại theo
vị trí có viên chức quản lý và viên chức thừa hành; tiền lương của viên
chức được trả theo vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản
lý và gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ theo cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập...
Như
vậy, khi xâu chuỗi các quy định của cả hai dự thảo này lại, rất nhiều
người đã và đang nhận thấy rằng dường như đang tồn tại sự xung đột pháp
luật, nếu không thì cũng rất khó hiểu ở kỹ thuật lập pháp. Bởi nếu hiểu
theo dự thảo Nghị định, đơn vị sự nghiệp công lập có công chức (tuy
nhiên chỉ giới hạn ở vị trí lãnh đạo), còn nếu hiểu theo dự thảo Luật
Viên chức thì đơn vị sự nghiệp công lập dù căn cứ theo nguồn thu nào
cũng chỉ có viên chức (lãnh đạo và thừa hành) mà không có công chức.
Được biết, một trong những khó khăn mấu chốt nhất của tiến trình đưa
Luật Cán bộ, công chức vào đời sống là việc xác định ai là công chức.
Bởi hiện nay có rất nhiều chức danh khác nhau trong các cơ cấu tổ chức,
cơ quan khác nhau, thậm chí có một số chức danh tồn tại trong các cơ
quan có thu nhưng vẫn thực thi quyền lực Nhà nước.... Phải chăng đây
cũng là hệ quả của việc thiếu sự lượng hóa khi tiến hành xây dựng luật?
Xuân Hoa
0 comments:
Post a Comment