TS. TRẦN THỊ HUỆ – Khoa Pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội
Pháp luật luôn tôn
trọng và bảo vệ quyền sở hữu tài sản và quyền được hưởng lợi từ tài sản
của các chủ sở hữu, nhưng đồng thời cũng đặt ra cho chủ sở hữu những
nghĩa vụ khi thực hiện các quyền nãng pháp lý của họ. Ngay tại tại Điều 1
Sắc lệnh 97/SL ngày 22.5.1950, đã qui điịnh :"Những quyền dân sự đều
được luật bảo vệ khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân
dân".
Điều này được hiểu là mọi quyền dân sự ( quyên nhân
thân hay quyên tài sản) thì luôn được pháp luật của Nhà Nước ghi nhận và
bảo vệ nhưng chỉ khi con người thực hiện những hành vi năm trong giới
hạn mà pháp luật cho phép, Điều 12 của Sắc lệnh này tiếp tục qui định cụ
thể về một quyền dân sự, đó là quyền được khai thác và hưởng lợi từ tài
sản và đồng thời cũng qui định ràng việc khai thác và hưởng lợi đó
không được làm phương hại đến lợi ích của các chủ thể khac." Người ta
chỉ được hưởng dụng và sử dụng các vât thuộc quyền sở hữu của mình một
cách hợp pháp và không thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân". Điều này
dã xác định rất rõ về quyền của chủ sở hữu trong việc sử dụng, khai
thác, hưởng lợi ích ích theo ý chí của mình một cách vô tận nhưng phải
biết và phải dừng lại khi bắt đầu đụng đến quyên lợi của người khác.Đây
là những qui định mang tính nguên tắc xuyên suốt trong quá trình lập
pháp của Nhà nước ta Trong Hiến Pháp 1992 cũng định rõ: "Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Cụ thể hoá quyền
của chủ sở hữu, tại Điều 183 BLDS năm 2005 qui định" Trong trường hợp
chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thì chủ
sở hữu được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo
ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác". Như vậy pháp luật qui định, khi tài sản của bất kỳ chủ sở
hữu nào mà gây thiệt hại trái pháp luật cho chủ thể khác thì Nhà nước sẽ
áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhất định nhằm mục đích khắc phục
những hậu quả xấu về tài sản và tinh thần, khôi phục lại tình trạng vốn
có ban đầu cho người bị thiệt hại.
Pháp luật dân sự qui định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường do tài sản gây
thiệt hại dã trải qua chặng đường dài phát triển cùng với lịch sử phát
triển của đất nước. pháp luật Việt Nam đã đạt được những thành tựu qua
các thời kỳ lịch sử, pháp luật cũng mang tính kế thừa tinh hoa, tiến bộ
của pháp luật thời kỳ trước, mặc dù ở mỗi thời kỳ, pháp luật có nội
dung, đối tượng, phạm vi và phương pháp điều chỉnh khác nhau và ở mức độ
cao, thấp khác nhau. Nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh loại quan hệ
này ( các văn bản pháp luật về môi trường, về xây dựng, vê giao thông,
..) nhưng chủ yếu và tập trung nhất là BLDS và các văn bản pháp luật
hướng dẫn thi hành những qui định của BLDS về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. BLDS là kết quả của trí tuệ và kỹ thuật lập
pháp của các nhà lập pháp Việt nam. Trong đó đã qui định cụ thể hơn, rõ
ràng hơn và cũng toàn diện hơn so với các vãn bản qui định về loại trách
nhiệm này trước đó. Điều này đã góp phần làm minh thị hơn những qui
định của pháp luật, đề cao ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân và cac tổ
chưc trước Nhà nước, trước xã hội về những thiệt hại trái pháp luật và
cũng là cãn cứ chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên bị xâm phạm
một cách co hiệu quả nhất. Bên cạnh nhũng thành công này, Pháp luật dân
sự hiện hành vẫn còn những thiếu khuyết và hạn chế nhất định: Đặc biệt
là những qui định liên quan đến tài sản gây thiệt hại, trong khi đó khoa
học kỹ thuật phát triển không ngừng , những thành tựu mới của công
nghiệp hóa, cơ giới hóa đã làm thế giới ngày càng văn minh, với những
trang thiêt bị hiện đại Tuy nhiên, mặt trái của nó là kéo theo sự gia
tăng các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối,
điều khiển của con người, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe,
tài sản…của con người trong xã hội. Có những sự vật như máy móc, phương
tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy… bản thân hoạt
động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho con người. Kể cả
những tài sản tưởng chừng như chúng chỉ có giá trị mang lại cho con
người lợi ích nhất định, như: xe cộ, nhà cửa, công trình xây dựng, cây
cối, gia súc và các đồ vật khác , nhưng cũng là những nguồn gây thiệt
hại đáng kể cho những người xung quanh. Những vấn đề liên quan như khái
niệm, các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường, chủ thể phải chịu
trách nhiệm bồi thường, người được bồi thưuờng, mức và phương thức bồi
thường…là những vấn đề pháp lý cần phải được xem xét và nghiên cứu một
cách đầy đủ và toàn diện trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện
hành. Từ việc tìm hiểu những quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra, đối chiếu với việc áp dụng thực tiễn, tác giả
mong muốn tìm ra những điểm còn bất cập và đề xuất kiến nghị nhằm hoàn
thiện những quy định của pháp luật về loại trách nhiệm này
· Một là, Về khái
niệm trách nhiệm bồi thường do tài sản gây thiệt hại làm bình diên chung
cho nghiên cứu và thực và áp dụng pháp luật
Hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật dân sự
từ năm 1950 (từ khi ban hành Sắc lệnh số 97/SL) cho đến nay chưa có bất
kỳ văn bản qui phạm nào qui định về khái niệm trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
tài sản gây ra. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu cơ sở khoa học để
nghiên cứu và xem xét mọi vấn đề liên quan đến loại trách nhiệm này. Nằm
trong những yêu cầu của nghiên cứu cơ bản, bước đầu tiên của quá trình
nghiên cứu, phải xác định được vấn đề nghiên cứu là gì? Sau đó mới rút
ra được những đặc điểm, phân loại, xem xét quá trình vận động, phát
triển và dự đoán vấn đề nghiên cứu trong tương lai… Muốn xác định được ,
nhận dạng được đặc điểm, phân loại và xác định các yếu tố trong quan hệ
bồi thường thiệt hại..Trước hết, phải nhận dạng và hiểu trách nhiệm bồi
tường thiệt hại là gì? với những điều kiện nào sẽ làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại?… Từ những căn cứ nào sẽ phát
sinh trách nhiêm bồi thường do tài sản gây thiệt hại?…Để xem xét và giải
quyết các vấn đề về bồi thường thiệt hại phải dựa trên bình diện chung
nhất thể hiện bản chất pháp lý của loại trách nhiệm này từ khái niệm
chung nhất của nó. Xây dựng khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại phải hàm chứa được các yếu tố pháp lý:
- Thứ nhất: việc gây thiệt hại trái pháp luật
- Thứ hai: chủ thể gây thiệt hại
- Thứ ba: Chủ thể được quyền yêu cầu bồi thường.
- Thứ tư: Trách nhiệm phải thực hiện việc bồi thường
- Thứ năm, Xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng là một quan hệ pháp luật dân sự, theo đó người gây
ra thiệt hại trong những điều kiện mà pháp luật quy định phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại do hành vi trái pháp luật của họ gây ra. Trong quan
hệ nghĩa vụ này bên bị thiệt hại được coi là người có quyền và có quyền
yêu cầu bên gây thiệt hại là người có nghĩa vụ phải bồi thường những
thiệt hại đã xảy ra.
Từ những yếu tố chung này, có thể xây dựng khái niệm
về trách nhiệm bồi thường thiệt do tài sản gây ra ; trách nhiệm bồi
thường thịêt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Hai là, Điều kiện phát
sinh trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại(nên qui định các điều
kiên đặc thù của trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại)
Pháp luật dân sự hiện hành chỉ mới qui định về 4 điều kiện phát sinh trách nhiêm bồi thương thiệt hại
ngoài hợp đông mà chưa chưa có quy định nào về loại trách nhiêm bồi
thường do tài sản gây thiệt hại, cũng chưa có phân định cụ thể để khi
nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người và
khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra dẫn
đến có những cách hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế, đặc
biệt là cho cơ quan xét xử Thực tiễn cho thấy khi xét xử, nhiều trường
hợp cứ thấy thiệt hại có liên quan đến tài sản là áp dụng quy định riêng
về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Cách hiểu và vận dụng pháp
luật như vậy hoàn toàn không chính xác, dẫn đến sai lầm khi xác định
người có trách nhiệm bồi thường. Các cơ quan áp dụng pháp luật cũng vô
cùng lúng túng khi cùng là thiệt hại do tài sản, nhưng có trường hợp có
sự tác động của hành vi con người, có trường hợp thiệt hại hoàn toàn độc
lập với hành vi con người Vì vậy, chúng tôi cho rằng, trong pháp luật
dân sự cần phân nhóm các trường hợp thiệt hại do tài sản gây ra và có
những quy định riêng về điều kiện phát sinh đối với loại trách nhiệm
này, cụ thể cần bổ sung một số quy định sau:
+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra chỉ được áp dụng khi thiệt hại do tự thân tài sản tác động gây ra.
+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản được
đặt ra khi chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, quản lý tài sản có lỗi
vô ý trong việc quản lý, trông giữ, dẫn đến tài sản thuộc quyền quản lý
của họ gây thiệt hại
+ Cần qui định rõ các điều kiên làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
· Ba là, Xác định rõ
trách nhiệm bồi thường của các cơ quan quản lý công trình công cộng, tài
sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước ( công trình xây
dựng, cây xanh, cầu đường, đường dây điện thoại, đường dây tải điện, hố
ga, tường bao, rào chắn, gia súc, thú dữ…).
Tình trạng cột dây diện đổ, dây điện đứt trên các
trục đường giao thông gây thiệt hại cho người tham gia giao thông; các
công trình công cộng, cây cổ thụ đổ gẫy hoặc các công trình xây dựng của
Nhà nước không đảm bảo chất lượng; ngưa, hổ, báo, voi, sư tử ở rừng gây
thiệt hại cho nhân dân về tài sản, sức khoẻ, tính mạng…Hiện nay. pháp
luật chưa dự liệu được trách nhiệm bồi thường trong các trường hợp trên
thuộc về chủ thể nào phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường. Đây là "điểm
trống" cần phải được " khoả lấp" kịp thời. Một mặt nâng cao tinh thần
trách nhiệm của "người" quản lý, mặt khác, bảo đảm quyền lợi chính đáng
của người bị thiệt hại một cách kịp thời, khắc phục nhanh hậu quả bị
thiệt hại. Tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, thâm chí không xác định
được chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường như hiện nay, như vụ đổ cột
điện ở Quận Ba đình Thành phố hà Nội; sập cầu ở tỉnh Cần thơ; sập trần
thượng của khách sạn Hoàng Hà ở thành phố Đà nẵng; Đàn voi ở Bản Knông
Đắc lắc làm hổng nhà, phá hoa màu; vụ sập cao ốc Pacific tại thành phố
Hồ Chí Minh là nguyên nhân dẫn đến sập Viện khoa học xã hội vùng Nam bộ,
gây lún nứt các toà cao ốc như Sở ngoại vụ, cao ốc Yoko, là những vụ
điển hình liên quan đến tài sản của Nhà nước gây thiệt hại lớn cho nhân
dân nhưng không được bồi thường hoặc được bồi thường nhưng không kịp
thời và không thoả đáng. Thiết nghĩ, về nguyên tắc ai được xác định là
chủ sở hữu và đang khai thác, sử dụng để hưởng lợi từ tài sản đó phải
trực tiếp chịu trách nhiệm bồi thường, song Nhà nước đã giao quyền quản
lý và khai thác tài sản cho các cơ quan của Nhà nước. Chẳng hạn như cơ
quan quản lý cây xanh ở TW thuộc Sở Giao thông cống chính thống nhất
quản lý trên địa bàn, công ty công viên cây xanh trực tiếp chịu trách
nhiệm quản lý cây xanh (theo Chỉ thị 20/2005/TT-BXD) hoặc Cơ quan quản
lý động vật hoang dã thuộc về cơ quan kiểm lâm, Chi cục kiểm lâm tại các
tỉnh, thành phố trực thuộc TW trực tiếp quản lý lâm sản trên địa bàn
(căn cứ vào Nghị định 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/03/2006, Quyết
định 22/2008/QĐ-BNN của Bộ Nông nghệp và phát triển nông thôn quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan kiểm
lâm,…)Vì thế, cơ quan phải bồi thường với tư cách là trách nhiệm của Nhà
nước. (Nhà nước chịu trách nhiệm bồi thường một cách gián tiếp thông
qua cơ quan quản lý).Vì vậy cần phải xác định đây là trách nhiệm thuộc
về cơ quan trực tiếp quản lý công trình công cộng, quản lý cây xanh,
quản lý những tài sản khác thuộc quyền sở hữu của Nhà Nước. Pháp luật
hiện hành không có quy định cụ thể về trách nhiệm BTTH của tổ chức quản
lý động vật hoang dã khi thành viên của các tổ chức này có lỗi để động
vật hoang dã gây thiệt hại cũng như không quy định trách nhiệm của cơ
quan quản lý cây xanh mà chỉ hướng tới việc bảo vệ và cách thức phòng
ngừa.
Bốn là, về tiêu chí để xác định trách nhiệm liên đới:
Hiện nay, pháp luật dân sự (BLDS, NQ03, Luật HN &
GĐ) quy định trách nhiệm liên đới phát sinh trong một số trường hợp tại
các Điều: 110, 117, 616, 623, 625 – BLDS, Điều 25 Luật HN & GĐ năm
2000 và phần III của Nghị quyết 03. Đây là một loại trách nhiệm BTTH đa
dạng và phức tạp. Nhưng các điều luật trước đây mới chỉ quy định một
cách rất chung chung, mang tính nguyên tắc mà chưa xác định được các
tiêu chí làm cơ sở cho việc xác định loại trách nhiệm này. Hiện nay, nếu
xảy ra các trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì cơ quan áp
dụng pháp luật xác định theo quy định của Thông tư 173 (đã hết hiệu lực
pháp luật). Theo đó, nhiều người cùng gây thiệt hại thì họ chỉ phải liên
đới chịu trách nhiệm bồi thường khi giữa họ cùng thống nhất ý chí về:
Ÿ Hành vi
· Hậu quả
· Về cả hành vi lẫn hậu quả
Đây là những tiêu chí mà trong nhiều năm qua đã được
áp dụng trong thực tiễn xét xử của các cấp Toà án, quy định này cần phải
được tiếp tục quy định trong văn bản luật. Song, cần phải quy định rõ
thế nào là nhiều người cùng gây thiệt hại, thời điểm thực hiện hành vi
của họ có nhất thiết xảy ra trong cùng một thời điểm hay không. Pháp
luật dân sự hiện hành đa phần quy định về trách nhiệm liên đới do hành
vi trái pháp luật của người gây thiệt hại mà việc tài sản gây thiệt được
dự liệu rất hạn chế (chỉ do súc vật, nguồn nguy hiểm cao độ). Trong khi
đó, các tài sản khác gây thiệt hại trong thực tế ngày một phổ biến hơn
(nhà cửa, cây xanh, công trình xây dựng, trang thiết bị, máy móc, tư
liệu sản xuất,…). Thực tế này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp
luật khi có thiệt hại trái pháp luật và hình thành quan hệ pháp luật dân
sự bồi thường thiệt hại do các loại tài sản gây thiệt hại. Liên quan
đến nội dung này, một số trường hợp cần bàn, đó là tài sản gây thiệt
hại:
o Tài sản thuộc sở hữu chung theo phần
o Tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng
o Tài sản thuộc sở hữu chung cộng đồng
Nếu các đồng chủ sở hữu cùng sử dụng tài sản mà gây thiệt hại cho người xung quanh thì liên đới chịu trách nhiệm BTTH.
Nếu các tài sản thuộc sở hữu chung cộng đồng (thánh
thất, tôn giáo, cổng làng, đền chùa, miếu mạo gây thiệt hại thì xác định
trách nhiệm BTTH thuộc về ai khi mà tài sản này thuộc sở hữu chung của
cộng đồng và đem lại lợi ích cho cộng đồng ấy.
Đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng gây thiệt hại, đây là vấn đề vừa mang tính kinh tế vừa có tính
pháp lý và tính xã hội truyền thống và được xác định là một loại trách
nhiệm BTTH có tính đặc thù riêng. Bởi căn cứ xác lập, bởi quan hệ hôn
nhân, bởi việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng
được pháp luật quy định khá đặc biệt. Vì thế, khi xác định trách nhiệm
BTTH do tài sản của vợ chồng gây ra cần lưu ý đến các trường hợp:
-Tài sản gây thiệt hại là tài sản chung của vợ chồng hay sản riêng của mỗi người
-Việc sử dụng tài sản gây thiệt hại nhằm phục vụ lợi ích chung hay lợi ích riêng của mỗi bên vợ, chồng.
-Việc sử dụng tài sản là do cả vợ và chồng hay chỉ
một bên vợ hoặc chồng sử dụng trong mối liên hệ với mục đích sử dụng tài
sản đó.
Với những lý do trên đây, pháp luật dân sự cần có
những quy định cụ thể để xác định trách nhiệm BTTH do tài sản của vợ,
chồng gây ra, tạo cơ sở pháp lý để xác định chủ thể phải BTTH liên quan
đến tài sản của vợ, chồng.
Năm là, liên quan đến việc chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ,
hiện nay, pháp luật dân sự mới chỉ dự liệu những nguồn nguy hiểm cao độ
được chuyển giao thông qua các giao dịch dân sự như thuê, mượn, cầm cố,
thế chấp mà chưa dự liệu trường hợp khi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao
độ giao kết hợp đồng mua bán nhưng người mua chưa hoàn tất thủ tục sang
tên nhưng đã sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, gây thiệt hại cho những
người xung quanh thì trách nhiệm lúc này thuộc về người bán hay người
mua. Chúng tôi cho rằng, trong trường hợp này phải xem xét đến lỗi của
người bán hay người mua trong việc thực hiện thủ tục pháp lý chuyển
quyền sở hữu đối với tài sản mua hay là lỗi của cả hai bên. Pháp luật
dân sự nên quy định cụ thể về vấn đề này để xác định ai là người phải
chịu trách nhiệm BTTH trong từng trường hợp cụ thể
Sáu là, Tài sản của người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người bị mất năng lực hành vi gây thiệt hại..
Pháp luật hiện hành mới chỉ qui định về người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật mà chưa qui định trách nhiệm của
những người này khi tài sản thuộc quyền sở hữu của họ gây thiệt hại cho
chủ thể khác, Theo quy định tại Điều 606 BLDS năm 2005 thì người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại nếu còn cha,
mẹ thì cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hai, hoặc
người giám hộ có thể phải chịu trách nhiệm BTTH. Tuy nhiên, Điều 606 chỉ
có thể áp dụng đối với trường hợp thiệt hại là do hành vi của con người
gây ra còn nếu thiệt hại là do tài sản của họ gây ra thì qui định này
đưa ra áp dụng là không phù hợp áp dụng. Vì, cha mẹ không thể bị coi là
có lỗi trong việc tài sản của con gây thiệt hại ở mọi trường hợp, trừ
khi tài sản của con đang nằm trong sự quản lý của cha, mẹ thì có thể bị
suy đoán là có lỗi trong việc quản lý và sử dụng tài sản, lúc này cha,
mẹ mới phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người người bị
thiệt hại. Theo qui định tại Điều 12." Người ta chỉ được hưởng dụng và
sử dụng các vât thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không
thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân" và Điều 183 BLDS năm 2005 qui
định" Trong trường hợp chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản thuộc
sở hữu của mình thì chủ sở hữu được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi,
lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại
hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác". Như vây, người có tài sản được quyền
hưởng lợi từ tài sản thì có trách nhiệm bồi thường khi tài sản của mình
gây thiệt hại .Nếu tài sản gây ra thiệt hại đang do người khác quản lý
thì chủ sở hữu của tài sản là người chưa thành niên hoặc người mất năng
lực hành vi dân sự cũng như cha mẹ hay người giám hộ của họ không bị coi
là có lỗi nên trách nhiệm trong trường hơp này không thuộc về họ . Bên
cạnh việc xác định ai là người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường
hợp trên thì, thì việc xác định tư cách đương sự nếu vụ việc giải quyết
tại Toà án nhân dân sẽ được xác định và nếu tài sản của người chưa thành
niên dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự không đủ hoặc
không có để thực hiện việc bồi thường thì cha, mẹ, người giám hộ không
phải lấy tài sản của họ để thực hiện việc bồi thường.
Bảy là, Chủ xe cho thuê hoặc cho mượn xe không kèm theo người lái – Xe bị trưng dụng theo mệnh lệnh của cơ quan có thẩm quyền.
Vấn đề này cần được phân thành hai trường hợp:
+ Trong những trường hợp nói trên, người thuê xe,
mượn xe hoặc cơ quan đã trưng dụng xe phải bồi thường thiệt hại do hoạt
đọng của xe gây thiệt hại. Vì cần hiểu rằng, đây là trường hợp nguồn
nguy hiểm cao độ đã được chuyển giao sang cho người chiếm hữu thông qua
hợp đồng dân sự hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
+ Nếu xe vận tải bị huy động phục vụ những yêu cầu
đột xuất của Nhà nước như: chống bão lụt, dịch bệnh, tập trung vận tải
những hàng hoá hoặc vận tải cho quốc phòng… thì cũng cần xác định nguồn
nguy hiẻm cao độ đã được chuyển giao mặc dù được Nhà nước được Nhà nước
cung cấp cho kinh phí, nhiên liệu v.v không nên qui định theo tinh thân
của Thông tư số 03-TANDTC ngày 05/04/1983 chủ phương tiện vẫn được coi
là thực hiện kế hoạch Nhà nước, được Nhà nước cung cấp cho kinh phí,
nhiên liệu v.v… cho nên họ vẫn là người chiếm hữu phương tiện và phải
bồi thường thiệt hại nếu xe gây ra thiệt hại. Vì Nhà nước cung cáp kinh
phí hay nhiên liêu chính là để phục vụ cho lợi ích chung cho xã hội, cho
cộng đồng chứ không phải hỗ trợ hay cấp cho bản thân chủ sở hữu xe, mặt
khác trong trường hợp này là họ bắt buộc chuyển giao quyền chiếm hữu,
sử dụng tài sản theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tám là, Vấn đề giải thích luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường do tài sản gây thiệt hại
Hiện tại Điều 623 BLDS năm 2005 được được hướng dân
áp dụng tại NQ03/2006/NQ – HĐTP ngày 8/7/2006, Trong đó có qui định” Chủ
sở hữư, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi
trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp
luật ( không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các qui định về bảo
quản, trông dữ, vân chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo qui định
của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái
pháp luật bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”. Như
vậy sụ hướng dẫn ( giải thích) cũng chỉ dùng lại ở múc độ rất chung .
Thế nào là không tuân thủ, tuân thủ không đầy đủ các qui định về bảo
quản, trông dữ…Trong khi đó tại Thông tư số 03-TANDTC ngày 05/04/1983
hướng dẫn giải quyết một số vấn đề bồi thường thiệt hại trong tai nạn ô
tô hướng dẫ khá cụ thể: không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các
qui định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo
qui định của pháp luật được thể hiện: không khoá xe, không tắt máy trước
khi rời xe, khoá xe mà vẫn để chìa khoá ở trên xe hoặc không có biện
pháp bảo vệ cần thiết. Có thể nói đây là sự giải thích khá cụ thể mặc dù
chưa đầy đủ. Để pháp luật phá huy được vai trò điều chỉnh và thực sự đi
vào cuộc sống thì qui định chung của pháp luật cần phải được cụ thể hoá
bằng các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành.
SOURCE: ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI “TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO TÀI SẢN GÂY THIỆT HẠI – VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”, MÃ SỐ: LH-08-05/ĐHL. HÀ NỘI NĂM 2009
CÁM ƠN TS. TRẦN THỊ HUỆ – CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI ĐÃ CHIA SẺ BÀI VIẾT
VIỆC SỬ DỤNG LẠI BÀI VIẾT PHẢI NHẬN ĐƯỢC SỰ ĐỒNG Ý CỦA TÁC GIẢ
CÁC CHUYÊN ĐỀ THUỘC ĐỀ TÀI
0 comments:
Post a Comment