THS. PHAN THỊ VÂN HƯƠNG – Tòa Dân sự TANDTC
Điều 11 Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2000 (Luật HN & GĐ) và hướng dẫn tại Mục 2 Nghị
quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2000 đã quy định trường hợp nam nữ chung sống với nhau như
vợ chồng nhưng không được pháp luật thừa nhận là hôn nhân hợp pháp. Tại
mục 5.4.1.4, khoản 5, điểm C, phần thứ 3 của “Sổ tay Thẩm phán” cũng nêu
rất rõ văn bản án dụng và các trường hợp không được công nhận là vợ
chồng. Luật HN & GĐ có chương III quy định về quan hệ giữa vợ và
chồng (trong đó có quy định về chế độ tài sản chung vợ chồng, việc đại
diện cho nhau, trách nhiệm liên đới của một bên đối với giao dịch do bên
kia thực hiện, tài sản riêng…) và chương X quy định về giải quyết các
vấn đề về ly hôn (con cái, tài sản…).
Tuy nhiên, giải quyết các vấn đề về tài sản đối với
trường hợp hôn nhân không hợp pháp (hủy hôn nhân trái pháp luật, không
công nhận là vợ chồng) thì lại chỉ được quy định tại điểm c mục 3 Nghị
quyết số 35/2000/QH ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật
hôn nhân và gia đình (Nghị Quyết 35/2000/QH10): “Kể từ ngày 01 tháng
1 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3
của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu
cóyêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ
vợ chồng;nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và
khoản 3 Điều 17của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết”. Điều 17 Luật HN & GĐ quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật như sau: “…3.
Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn
thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận
của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết,
có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi
chính đáng của phụ nữ và con”.
Thông qua công tác Giám đốc thẩm các vụ án dân sự,
chúng tôi thấy rằng các Tòa án địa phương đã vận dụng pháp luật tương
đối tốt để xác định hôn nhân hợp pháp (công nhận thuận tình ly hôn hoặc
cho ly hôn) hay hủy hôn nhân trái pháp luật, không công nhận là vợ
chồng; việc áp dụng các quy định của Luật HN & GĐ khi giải quyết các
vụ án ly hôn (xác định tài sản chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ
riêng…) là tương đối tốt. Tuy nhiên, đối với các vụ án hủy hôn nhân trái
pháp luật, không công nhận hôn nhân hợp pháp lại rất lúng túng khi phải
giải quyết các vấn đề tranh chấp về tài sản chung, tài sản riêng, nợ
chung, nợ riêng. Nhiều bản án phần xét thấy có lập luận không công nhận
là vợ chồng, nhưng vẫn sử dụng cụm từ vợ chồng, ly hôn, thời kỳ hôn nhân
khi phân tích các sự kiện; vẫn trích dẫn điều luật quy định giải quyết
về tài sản chung vợ chồng trong Luật HN & GĐ để giải quyết, hoặc
không nắm rõ được các quy định của Bộ luật dân sự để xác định tài sản
chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ riêng và cách phân chia để bảo đảm
quy định tại Điều 17 Luật HN & GĐ.
Ví dụ: Năm 1990 bà Phấn và ông Cầu được gia đình
hai bên tổ chức lễ cưới nhưng hai bên không đăng ký kết hôn và sau đó
cũng không thực hiện việc đăng ký kết hôn theo Nghị Quyết 35/2000/QH10.
Quá trình chung sống hai bên đã có 2 con chung. Năm 1992 gia đình ông
Cầu cho ông bà ra ở riêng trên một mảnh đất của gia đình và ông bà dựng
nhà lá để ở, quá trình chung sống có cải tạo nhà, trồng cây ăn trái, mua
sắm vật dụng gia đình. Năm 2009, do mâu thuẫn trầm trọng, ông bà có đơn xin ly hôn
nhưng không thống nhất được việc phân chia tài sản là nhà, đất nêu trên
(ông Cầu cho rằng là tài sản riêng của ông vì cha mẹ cho riêng và Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 2004 đứng tên ông, không có tên bà
Phấn; còn bà Phấn xác định là được cha mẹ ông Cầu cho chung nên là tài
sản chung và yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bản án sơ thẩm quyết định không công nhận là vợ chồng, nhưng phần xét thấy của bản án lại vẫn sử dụng cụm từ vợ chồng, ly hôn như: “Về phần nợ: trong thời gian chung sống vợ chồng…” ;“Xét thấy khi ly hôn đất vườn anh Cầu được quản lý sử dụng”; vẫn vận dụng các quy định giải quyết về tài sản chung, tài sản riêng của trường hợp ly hôn trong Luật HN & GĐ như “…Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000
quy định tài sản riêng của vợ chồng bao gồm tài sản mà mỗi người có
trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc tặng cho riêng trong
thời kỳ hôn nhân…”. Bản án nhận xét vì không được công nhận là vợ
chồng nên đất là cha mẹ ông Cầu cho riêng ông Cầu, không phải tài sản
chung của vợ chồng nên ông được sở hữu nhà (do 2 bên xây, nên là tài sản
chung và mỗi bên được ½) và thanh toán cho bà Phấn ½ giá trị nhà.
Bản án phúc thẩm phần trích yếu vẫn ghi “V/v xin ly hôn”; phần xét thấy nhận xét “Tòa án cấp sơ thẩm không công nhận là vợ chồng là có căn cứ”, nhưng lại ghi “…Xét thấy đây là tài sản chung được cha mẹ ông Cầu cho vợ chồng ông trong thời kỳ hôn nhân nên được xem là tài sản của vợ chồng. Ông Cầu cho rằng đây là tài sản được cha mẹ cho riêng nhưng ông không chứng minh được việc cho riêng trong thời kỳ hôn nhân
nên không có cơ sở chấp nhận vì theo quy đinh tại khoản 1 Điều 32 Luật
HN&GĐ…Ông Cầu cũng không chứng minh được phần đất trong GCNQSD đất
cho ông là tài sản riêng nên căn cứ và Điều 27 Luật HN & GĐ thì
quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
vợ chồng…”.
Trong vụ án trên, theo chúng tôi, khi đã xác định
quan hệ của họ không được công nhận là vợ chồng, thì bản án không nên sử
dụng từ vợ chồng, thời kỳ hôn nhân… nữa, mà có thể sử dụng cách viết khác như ông bà, thời gian cùng chung sống, tài sản tạo lập trong thời gian sống chung,…Về
tài sản chung, không phải trường hợp áp dụng Điều 27 Luật HN & GĐ
xác định tài sản tranh chấp có phải tài sản chung của vợ chồng hay không
cũng như các Điều luật khác để xác định tài sản chung, tài sản riêng…;
mà chỉ có căn cứ theo các quy định tại Bộ luật dân sự về sở hữu chung
(căn cứ xác lập tài sản chung như được tặng cho chung, cùng đóng góp
công sức để tạo lập… Điều 214, 215, 216 Bộ luật dân sự năm 2005) và phân
chia tài sản chung theo các quy định của Bộ luật dân sự (Điều 224) và
Điều 17 Luật HN &GĐ mà thôi. Trong vụ án trên, bản án phúc thẩm viện
dẫn không chính xác Điều luật áp dụng, như hồ sơ thể hiện đã thu thập
chứng cứ về việc cho chung là lời khai của mẹ ông Cầu thừa nhận khi tổ
chức lễ cưới có tuyên bố cho ông Cầu, bà Phấn mảnh đất này và đã không
có ý kiến gì phản đối khi ông Cầu kê khai, làm thủ tục tách thửa và được
cấp GCNQSD đất. Tòa án cấp phúc thẩm cũng thu thập chứng cứ về hồ sơ ông Cầu kê khai xin cấp GCN, trong đó ông có ghi cả
tên ông và tên bà Phấn là đồng sử dụng; việc GCN chỉ ghi tên ông Cầu là
thiếu sót của UBND. Vì vậy, có căn cứ xác định thửa đất là tài sản do
ông Cầu, bà Phấn được cha, mẹ ông Cầu tặng cho chung và việc tặng cho đã
hoàn thành (đã nhận tài sản sử dụng, đã đứng tên trên giấy tờ) nên cấp
phúc thẩm xác định là tài sản chung và chia cho 2 bên sử dụng, là phù
hợp.
Mặc dù để thực hiện Nghị quyết 35/2000/QH, ngày
22/10/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 77/2001/NĐ-CP quy định chi
tiết về đăng ký kết hôn có quy định chi tiết về đăng ký kết hôn đối với
các trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng nhưng chưa đăng ký kết
hôn, tuy nhiên trên thực tế, số cặp nam nữ đến thực hiện việc đăng ký
kết hôn lại không nhiều. Do đó, từ sau ngày 01/1/2003 mà họ không đăng
ký kết hôn thì cho dù họ có thừa nhận là vợ chồng đi nữa, khi thụ lý
giải quyết Tòa án vẫn phải tuyên bố không công nhận là vợ chồng và theo
thống kê thì loại án này ngày càng tăng và chiếm khoảng 10% số vụ án về
hôn nhân và gia đình. Không ít vụ đương sự có tranh chấp về tài sản
chung, tài sản riêng, nợ chung, nợ riêng…như tranh chấp trong các vụ án
ly hôn, thì Tòa án vẫn phải giải quyết và gặp rất nhiều khó khăn vướng
mắc khi áp dụng pháp luật, đánh giá chứng cứ. Nhiều bản án vẫn viện dẫn
các quy định của Luật HN & GĐ để giải quyết các quan hệ này và về cơ
bản, chúng tôi thấy trong nhiều vụ án việc áp dụng Luật HN & GĐ
giải quyết cũng đã bảo đảm được quyền lợi của người phụ nữ hơn là áp
dụng các quy định của Bộ luật dân sự.
Luật HN & GĐ năm 2000 đang trong quá trình nghiên
cứu toàn diện để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp thực tiễn. Để bảo đảm áp
dụng đúng và thống nhất pháp luật, đồng thời bổ sung hoàn thiện các quy
định của Luật HN & GĐ, chúng tôi đề nghị ngành Tòa án cần có nghiên
cứu tổng kết thực tiễn giải quyết các vụ án không công nhận là vợ chồng
và việc giải quyết về tài sản chung-riêng, nợ chung-riêng…và những vấn
đề liên quan đến Điều 17 Luật HN & GĐ.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment