TS. NGUYỄN MINH TUẤN – Khoa Pháp luật Dân sự
Bồi thường thiệt hại là
một chế định dân sự tồn tại song hành với chế định sở hữu, vì thế hai
chế định này phát triển rất sớm trong hệ thống các qui định của pháp
luật mỗi quốc gia. Khi ra đời, để củng cố và bảo vệ địa vị thống trị của
giai cấp bóc lột, nhà nước ban hành pháp luật, qui định những tài sản
nào là của nhà nước, tài sản nào thuộc về cá nhân và đặc biệt qui định
các chế tài có tính nghiêm khắc áp dụng đối với những ai có hành vi trái
luật xâm phạm tài sản của người khác.
Ở nước ta, các bộ luật của nhà nước phong kiến như
Luật Hồng Đức, Luật Gia Long có qui định về trách nhiệm dân sự. Tuy
nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử do tình hình chính trị – kinh tế – xã hội
khác nhau nên mỗi bộ luật qui định không giống nhau về nội dung các chế
định đó.
Trong Luật Hồng Đức, tại chương tạp luật có các qui
định về bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra, như: trộm
cắp, đánh người và các qui định về trách nhiệm bồi thường do tài sản gây
ra. Điều 568 Luật Hồng Đức qui định:
“Khi có việc xây dựng hoặc phá huỷ gì mà phòng bị
không cẩn thận để đến nỗi xảy ra chết người thì bị xử biếm một tư và
chịu tiền mai táng 5 quan, còn thợ thuyền, chủ ty thì hình quan sẽ xem
xét lỗi vì ai xảy ra mà định tội.”
Khi xây dựng nhà ở, công trình xây dựng, chủ sở hữu
phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết đảm bảo an toàn trong xây dựng và
có biện pháp đề phòng các trường hợp có thể gây thiệt hại cho tài sản,
tính mạng sức khoẻ của người khác. Tuy nhiên, nếu xây dựng hoặc phá huỷ
công trình xây dựng mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường.
Trường hợp này có hai khả năng xảy ra: Thứ nhất là khi xây dựng hoặc phá
huỷ công trình mà người trực tiếp làm công việc đó có lỗi để gây ra
thiệt hại. Thứ hai, do người chủ không cẩn thận trong việc ngăn ngừa
thiệt hại để cho công trình xây dựng gây thiệt hại đẫn đến chết người,
trường hợp này lỗi của chủ sở hữu là gián tiếp cho nên chủ sở hữu phải
bồi thường thiệt hại, đây là trách nhiệm do tài sản gây ra.
Cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp trên là lỗi vô ý của chủ sở hữu hoặc lỗi của người trực tiếp
xây dựng, của người nhận thầu công trình và hậu quả là chết người. Mặc
dù lỗi của ai nữa thì suy đoán cũng là lỗi của chủ sở hữu vì người xây
dựng là người làm thuê hoặc làm giúp cho chủ sở hữu, cho nên công việc
xây dựng hoặc phá dỡ là của chủ sở hữu. Vì vậy, chủ sở hữu công trình và
phải bồi thường. Nếu chủ sở hữu có lỗi vô ý vì cẩu thả “không cẩn thận”
sẽ bị xử tội biếm và phải bồi thường tiền mai táng cho nạn nhân là 5
quan tiền.
Khi xây dựng, phá dỡ cồng trình, việc gây thiệt hại
có thể do thợ xây hoặc người tháo dỡ công trình xây dựng bất cẩn để xảy
ra thiệt hại, trước hết chủ sở hữu phải bồi thường. Nếu những người trực
tiếp thực hiện việc xây dựng, phá dỡ có lỗi, thì tuỳ theo mức độ vi
phạm sẽ bị hình phạt tương xứng.
Ngoài các công trình xây dựng gây thiệt hại, pháp
luật còn qui định các trường hợp do súc vật gây ra thiệt hại. Điều 581
Luật Hồng Đức qui định: “Người thả trâu ngựa cho dày xéo, ăn lúa, dâu
của người ta thì xử phạt 80 trượng và đền sự thiệt hại. Nếu cố ý thả
cho dày xéo thì biếm một tư và đền gấp đôi sự thiệt hại. Nếu trâu ngựa
lồng lên không kìm hãm được thì được miễn tội trượng”.
Theo qui định trên, người trực tiếp quản lý trâu,
ngựa mà vô ý như chăn dắt trâu ngựa trông coi không cẩn thận để trâu,
ngựa phá hoại hoa mầu, mùa màng thì bị phạt 80 trượng và phải đền bù
toàn bộ thiệt hại. Trường hợp cố ý cho trâu, ngựa phá hoại mùa màng, hoa
mầu thường là những hành vi mang tính trả thù. Trường hợp này, việc phá
hoại mùa màng không những vi phạm trật tự an ninh xã hội mà còn làm ảnh
hưởng đến vấn đề an ninh lương thực của chủ sở hữu, cho nên pháp luật
áp dụng các chế tài nghiêm khắc đối với người vi phạm.
Nếu do bản tính hung dữ, trâu, ngựa lồng lên mà người
chăn dắt không kìm hãm được việc phá hoại của trâu, ngựa thì chủ sở hữu
không có lỗi trong việc trông coi, cho nên không phải chịu trách nhiêm
hình sự, tuy nhiên về trách nhiệm dân sự vẫn phải bồi thường thiệt hại.
Trâu, ngựa là loại súc vật to lớn giúp con người
trong sản xuất kinh doanh, vì vậy người nông dân thường phải lựa chọn
những con súc vật này có tính hiến lành, không hung dữ, như thế mới có
thể điều khiển được chúng. Tuy nhiên, có những trường hợp trâu, ngựa phá
hoại mùa màng là do hành vi bất cẩn của con người hoặc do hành vi cố ý
sử dụng trâu, ngựa làm phương tiện, công cụ để phá hoại mùa màng của
người khác, cho nên chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm hình sự và trách
nhiệm dân sự.
Trong thực tiễn phát triển chăn nuôi gia súc, gia
cầm, có trường hợp những con sức vật có tính hung dữ luôn đe doạ gây
thiệt hại, vì vậy, chủ sở hữu phải có các biện pháp ngăn chặn không cho
súc vật gây thiệt hại tới tài sản, tính mạng, sức khoẻ của người khác.
Điều 582 Luật Hông Đức qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
súc vật hung dữ gây ra như sau:
“ Súc vật và chó có tính hay húc, đã và cắn người
mà làm hiệu buộc ròng không đúng phép (đúng phép là con vật hay húc
người thì phải cắt hai sừng, đá người thì buộc hai chân, cắn người thì
phải cắt hai tai) hay chó dại mà không giết thì đều xử phạt 60 trượng”.
Đối với súc vật có tính hung dữ, chủ sở hữu phải có
các biện pháp trông giữ theo qui định của pháp luật như trâu, bò hay húc
thì phải cắt hai sừng, vì sừng là “vũ khí” nguy hiểm để tấn công con
người hay súc vật khác, nếu cắt bỏ thì khả năng gây thiệt hại không còn.
Nếu ngựa hay đá người thì phải buộc rằng hai chân trước và sau sao cho
có thể đi lại được bình thường nhưng không thể co chân đá người khác và
có nghĩa là nếu co hai chân sau lên cùng đá thì con ngựa sẽ bị ngã, cho
nên không thể gây ra thiệt hại.
Đối với chó hay cắn người thì cắt hai tai, đây là
biện pháp trừng phạt theo cách thức dân gian có hiệu quả. Chó phát hiện
ra con người từ hướng nào và chuẩn bị tấn công người hướng đó là do
thính giác, vì thế chó bị cắt hai tai sẽ không phát hiện ra tiếng động
từ phía nào, cho nên nó không chủ động tấn công con người.
Đối với chó dại là nguồn nguy hiểm cho bất cứ ai, nếu
không giết ngay sẽ gây nguy hiểm về tính mạng cho người khác, vì thế
chủ sở hữu phải giết chó dại ngăn ngừa chó căn người, nhưng chủ sở hữu
không thực hiên việc phòng ngừa đó, cho nên phải chịu hình phạt là 60
trượng.
Súc vật không những gây thiệt hại về tài sản, tính
mạng sức khoẻ cho con người, mà còn gây thiệt hại cho những con sức vật
cùng loại khác như trâu bò đánh nhau. Đặc biệt trâu mộng là con vật luôn
thể hiện mình có sức mạnh nhất mà con khác phải coi chừng và phải
nhường lãnh địa kiếm ăn, vì thế, do bản tính kình địch thủ, chúng hay
đánh nhau đến chết. Do vậy, nếu xảy ra hai trâu đánh nhau dẫn đến hậu
quả một con chết thì được xử lý theo qui định tại Điều 586 LHĐ: “Trâu của hai nhà đánh nhau, con nào chết thì hai nhà cùng ăn thịt, con sống hai nhà cùng cầy. Trái luật xử phát 80 trượng”.
Con trâu là đầu cơ nghiệp của một gia đình
nông dân, điều này vẫn còn phù hợp đến ngày nay ở nông thôn, vùng sâu,
vùng xa. Nếu không có trâu cày, kéo thì kinh tế của gia đình người nông
dân bị ảnh hưởng, vì vậy, Luật Hồng Đức qui định là nếu hai con trâu
đánh nhau mà một con chết thì con chết chia đôi cho mỗi chủ sở hữu một
nửa và con còn sống thuộc sở hữu chung của hai nhà. Qui định này nhằm
đảm bảo cho hai gia đình đều có trâu để cầy, kéo phục vụ sản xuất nông
nghiệp.
Qua những điều luật trên, Luật Hồng Đức đã qui định
tương đối đầy đủ trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu khi các loại tài sản
của mình gây thiệt hại cho người khác. Điều này chứng tỏ các nhà làm
luật đã dự liệu được các trường hợp tài sản có thể gây ra thiệt hại và
thể hiện cái nhìn tương đối toàn diện về trách nhiệm dân sự ngoài hợp
đồng phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội đương thời.
Luật Hồng Đức là một bộ luật hoàn chỉnh đầu tiên của
ông cha ta, là di sản lập pháp đỉnh cao của nhà Lê để lại cho hậu thế.
Ngày nay chúng ta cần phải tiếp tục kế thừa và phát triển truyền thống
lập pháp đó. Tuy nhiên, những thành quả đó không được kế thừa trong luật
của nhà Nguyễn. Vấn đề này do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
chính là do nhà Nguyễn bị ảnh hưởng, phụ thuộc nhiều vào
chế độ phong kiến phương Bắc. Cho nên, trong Hoàng Việt Luật lệ (Luật
Gia Long), cấu trúc của Luật Gia Long hoàn toàn khác so với Luật Hồng
Đức. Trong chế định bồi thường thiệt hại, các qui định về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không qui định cụ thể mà chủ yếu
qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi con người gây ra
(quyển 6 – Hộ luật). Quyển 6 chủ yếu qui định các hành vi gây thiệt hại
về tài sản của Vua hoặc quan lại triều đình mà không có qui định về bồi
thường thiệt hại tài sản của công dân. Điều này có thể được giải thích
là trong xã hội nhà Nguyễn, pháp luật bảo vệ tuyệt đối quyền lợi của
giai cấp thống trị nhằm củng cố địa vị của giai cấp thống trị đối với
nhân dân lao động.
Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, quốc mẫu
Pháp đã thi hành chế độ bảo hộ đối với Việt Nam và các nước Đông Dưong,
vì vậy các bộ luật dân sự của nước ta thời kỳ Pháp thuộc do nhà nước
Pháp ban hành bằng tiếng Pháp và được dịch ra tiếng Việt. Các bộ luật
này dựa theo Bộ luật dân sự của NAPOLEON nhưng có điều chỉnh phù hợp với
điều kiện chính trị – kinh tế – xã hội ở Việt Nam.
Chế định bồi thường thiệt hại trong Bộ Dân luật Bắc
Kỳ (DLBK) và Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật (DLTK) được chia thành trách
nhiệm dân sự theo hợp đồng và ngoài hợp đồng. Đối với trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng, nguyên tắc chung để xác định trách nhiệm dân sự được
qui định tại Điều 711(DLBK) và Điều 763 (DLTK):
“Người ta phải chịu trách nhiệm không những tổn
hại tự mình làm ra mà cả về sự tổn hại do những người mà mình phải bảo
lãnh hay do những vật mình phải trông coi nữa.
Phàm vật vô hồn mà làm nên tổn hại. thì người
trông coi vật ấy cho là có lỗi vào đó, không phân biệt vật đó có tay
người động đến hay không, muốn phá sự phỏng đoán đó thì phải có bằng
chứng trái lại mới được.
Bấy nhiêu trường hợp như trên đều có trách nhiệm
cả, trừ khi người chịu trách nhiệm đó có bằng chứng rằng cái việc sinh
ra trách nhiệm ấy mình không thể ngăn cấm được”.
Đoạn một của điều luật trên qui định về nguyên tắc
chịu trách nhiệm dân sự là người nào gây thiệt hại thì người đó phải bồi
thường. Mặt khác, nếu một người giám hộ (bảo lĩnh) người khác mà để
người được giám hộ gây thiệt hại thì người giám hộ phải bồi thường thiệt
hại vì người giám hộ không thực hiện tốt nghĩa vụ giám hộ của mình,
phải chịu thay người được giám hộ. Ngoài ra, đoạn một của điều luật còn
qui định trách nhiệm của người trông coi tài sản mà để tài sản gây thiệt
hại thì phải bồi thường thiệt hại. Người trông coi tài sản có thể là
chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu chuyển tài sản thông qua hợp đồng
như gửi giữ,… Người trông giữ không bảo quản, coi giữ cẩn thận để tài
sản gây thiệt hại là do lỗi của người trông gữi, cho nên họ phải bồi
thường thiệt hại.
Đoạn hai của điều luật qui định vật vô hồn là các vật
như nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản vô tri, vô giác khác gây
thiệt hại trong hai trường hợp: Thứ nhất, do người quản lý trông coi, sử
dụng tài sản mà có lỗi vô ý, quản lý, trông coi hoặc khai thác sử dụng
không cẩn thận để tài sản gây thiệt hại. Thứ hai là tài sản tự nó gây
thiệt hại mà không có hành vi tác động trực tiếp của người quản lý,
trông coi. Trường hợp này người quản lý tài sản có lỗi vô ý gián tiếp là
không thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa có khả năng cho phép, để
tài sản gây thiệt hại. Vì vậy, chủ sở hữu hoặc người quản lý trông coi
tài sản phải bồi thường thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra không phải do
lỗi của người quản lý tài sản mà do hành vi trái luật trực tiếp hoặc
gián tiếp của người thứ ba thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không phát sinh khi
người quản lý, trông coi tài sản chúng minh được việc gây thiệt hại đó
là bất khả kháng. Vì trường hợp này người quản lý không có lỗi trong
việc trông coi tài sản, thiệt hại xảy ra nằm ngoài khả năng kiểm soát
của con người nên họ không phải chịu trách nhiêm dân sự.
Trách nhiệm dân sự về thiệt hại do súc vật gây ra được qui tại Điều 715 (DLBK) và Điều 766 (DLTK):
“ Người chủ con vật hay người dùng nó, trong khi
nuôi nó mà nó làm tổn hại sự gì phải chịu trách nhiệm dù khi đó mình có
giữ nó hay nó trốn đi mặc lòng”.
Súc vật là những con gia súc nuôi trong nhà như trâu,
bò, lợn, chó… nhưng bản năng hung dữ có thể xuất hiện bất cứ khi nào.
Chủ sở hữu, người sử dụng súc vật phải có biện pháp trông coi cẩn thận,
tuy nhiên, có trường hợp chủ sở hữu đã áp dụng các biện pháp cho phép để
trông giữ mà súc vật vẫn trốn khỏi sự kiểm soát của chủ sở hữu hoặc
người sử dụng nó và gây thiệt hại cho người khác. Súc vật gây thiệt hại
có thể do hành vi bất cẩn của người quản lý nó hoặc do người quản lý đã
không lường hết được các khả năng sẽ gây thiệt hại thì những trường hợp
này được suy đoán là người quản lý có lỗi trong việc trông coi, quản lý
súc vật để nó gây thiệt hại, vì thế chủ sở hữu hoặc người quản lý sử
dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại.
Tài sản lớn có giá trị của cá nhân là nhà ở, tài sản
này có thể gây thiệt hại do hành vi vô ý của chủ nhà, thể hiện trong
Điều 716 (DLBK) và Điều 767 (DLTK) như sau:
“ Người chủ nhà mà nhà đổ nát làm thiệt hại cho
người ta vì không chịu tu bổ hay vì làm không chắc chắn phải chịu trách
nhiệm về sự tổn hại đó”.
Khi nhà ở bị đổ gây thiệt hại về tài sản, tính
mạng, sức khoẻ cho người khác cần xem xét lỗi của chủ nhà trong việc tu
bổ, sửa chữa thường xuyên những hư hỏng thông thường. Nếu chủ nhà cố ý
hoặc vô ý không tu bổ hư hỏng mà để gây thiệt hại thì đây là hành vi vô ý
của chủ nhà. Trường hợp nhà đổ do xây dựng không đảm bảo an toàn như
chất lượng vật liệu không tốt, kỹ thuật xây dựng kém hoặc làm nhà tạm bợ
vì không có khả năng kinh tế,…Những trường hợp này mà nhà ở gây thiệt
hại thì được coi là lỗi gián tiếp của chủ sở hữu, cần phải biết hoặc
buộc phải biết về khả năng nhà có thể đổ nát khi gặp mưa to, gió lớn,
cho nên chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
Các qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hai bộ Dân luật Bắc kỳ và dân luật Trung kỳ đều dựa trên căn cứ
vào lỗi trực tiếp hoặc lỗi gián tiếp của của chủ sở hữu hoặc quản lý sử
dụng tài sản. Nguyên tắc xác định trách nhiệm dân sự dựa trên yếu tố lỗi
đảm bảo được việc xác định đúng trách nhiệm dân sự của người có hành vi
trái luật, bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại trong việc khắc phục
hậu quả thiệt hại do người khác gây ra. Bộ dân luật Bắc kỳ được áp dụng
ở miền Bắc nước ta đến cuối năm 1959 và sau đó toà án áp dụng đường lối
xét xử được Toà án nhân dân tối cao tổng kết kinh nghiệm xét xử hàng
năm và các văn bản hướng dẫn xét xử của Toà án nhân dân tối cao. Trong
lĩnh vực bồi thường thiệt hại có Thông tư 173-UBTP ngày 23/3/1972 (
TT.173) của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn xét xử về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng.
Theo Thông tư 173, để xác định một chủ thể có phải chịu trách nhiệm dân sự hay không cần phải căn cứ vào 4 điều kiện sau:
- Phải có thiệt hại
Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất, cụ thể là
các thiệt hại về tài sản, các chi phí cần thiết và thu nhập bị mất do
xâm phạm đến tính mạng sức khoẻ, những thiệt hại xảy ra phải tính toán
được bằng một số tiền cụ thể.
- Phải có hành vi trái pháp luật.
Hành vi trái pháp luật có thể là hành vi phạm pháp
hình sự hoặc bất kỳ hành vi nào vi phạm pháp luật nói chung hoặc vi phạm
một qui tắc sinh hoạt xã hội.
- Phải có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Thiệt hại xảy ra phải đúng là kết quả tất yếu của của
hành vi trái luật, hành vi trái luật là nguyên nhân chủ yếu, có tính
quyết định làm phát sinh hậu quả cụ thể.
- Người gây thiệt hại có lỗi.
Người gây thiệt hại nhận thức hoặc cần phải nhận thức hành vi của mình là trái luật và có thể gây ra thiệt hại cho người khác. Lỗi của người gây thiệt hại có thể là cố ý hoặc vô ý.
Khi có thiệt hại xảy ra, cần phải xem xét thiệt hại
do hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp của con người. Hành vi trực tiếp gây
thiệt hại là hành vi của một người đã xác định được hành vi đó là trái
luật. Hành vi gián tiếp gây thiệt hại là do người đó không thực hiện các
biện pháp cần thiết để phòng ngừa việc gây thiệt hại, như: không có các
biện pháp phù hợp bảo quản tài sản dẫn đến việc tài sản gây thiệt
hại…Đối với những trường hợp hành vi trực tiếp gây thiệt hại cần xác
định ý thức chủ quan của người gây thiệt hại là biết hoặc không biết
hành vi của mình là sai để xác định người thực hiện hành vi đó có lỗi cố
ý hay vô ý. Trường hợp tài sản gây thiệt hại do nguyên nhân chủ quan
của người quản lý sử dụng tài sản, thì cần phải xác định lỗi của người
chủ sở hữu hoặc người quản lý sử dụng thể hiện như thế nào trong từng
trường hợp cụ thể.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra được hướng dẫn tại Mục B điểm 4 của Thông tư 173 như sau:
“-Đối với thiệt hại do súc vật gây ra (như chó dại
cắn chết người, trâu húc người hay súc vật bị thương) thì người sở hữu
súc vật trực tiếp phụ trách việc trông coi, chăn dắt phải chịu bồi
thường.
Nếu súc vật đã chuyển cho người khác sử dụng (như cho mượn..) mà gây thiệt hại thì người sử dụng súc vật đó phải bồi thường.
Cơ sở trách nhiệm của người chủ sở hữu hay của
người trực tiếp sử dụng súc vật là lỗi của họ trong việc trông coi, chăn
dắt súc vật không cẩn thận.”
Khi súc vật gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ cho
người khác do lỗi vô ý của chủ sở hữu hoặc người trực tiếp quản lý sử
dụng thì chủ sở hữu hoặc người trực tiếp quản lý sử dụng phải bồi thường
thiệt hại. Nếu súc vật đã chuyển giao cho người khác thông qua hợp đồng
chuyển quyền sủ dụng thì người chiếm hữu hợp pháp phải BTTH. Theo hướng
dẩn trên, lỗi của người chủ sở hữu hoặc của người trực tiếp quản lý sử
dụng là lỗi vô ý, không cẩn thận trong việc trông coi súc vật dẫn đến
việc súc vật thoát khỏi sự kiểm soảt của chủ sở hữu, người quản lý sử
dụng và gây thiệt hại. Ngược lại, do lỗi vô ý để súc vật gây thiệt hại
làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì lỗi cố ý cho súc vật
phá hoại mùa màng hoa mầu của người khác… thì tất nhiên chủ sở hữu,
người quản lý sử dụng phải BTTH.
Về nguyên tắc, khi xác định trách nhiệm dân sự của
một chủ thể thì cần phải xác định chủ thể đó có lỗi trong việc gây thiệt
hại. Tuy nhiên, một số trường hợp không cần xác định lỗi của con người,
đó là trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Nguyên tắc
của trách nhiệm này là chủ sở hữu sử dụng tài sản thì phải bồi thường
thiệt hại do tài sản gây ra, trừ trường hợp chứng minh được thiệt hại
xảy ra hoàn toàn do lỗi người bị hại hoặc do bất khả kháng. Trách nhiệm
dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hướng dẫn tại điểm 5 mục B
Thông tư 173.
“ Trường hợp thiệt hại xảy ra hoạt động của nguồn
nguy hiểm cao độ, không do lỗi của ai, thì cơ quan quản lý nguồn nguy
hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại…”
Những năm 1970, miền Bắc đã hoàn thành cải tạo XHCN,
phương tiện giao thông vận tải và các nguồn nguy hiểm cao độ khác chủ
yếu thuộc sự quản lý của các hợp tác xã, cơ quan nhà nước và các tổ chức
chính trị – xã hội. Vì vậy, TT.173 hướng dẫn là cơ quan quản lý nguồn
nguy hiểm cao độ phải BTTH. Thông tư 173 được áp dụng đến ngày Bộ luật
dân sự 1995 có hiệu lực. Thông tư 173 được ban hành trong điều kiện nền
kinh tế – xã hội còn chưa phát triển, trình độ và kỹ thuật lập pháp còn
đạt ở mức độ khiêm tốn; vì thế, những qui định trong Thông tư này chưa
thực sự toàn diện, thiếu vắng những qui định liên quan đến trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, quan hệ xã hội phát sinh ngày càng nhiều
và phong phú hơn trong đời sống dân sự, vì thế, yếu tố khách quan này
đòi hỏi cần có sự hướng dẫn cụ thể hơn. Thực trạng đó đã đưa đến cuộc
trao đổi thống nhất giữa VKSNDTC, Bộ GTVT và với TANDTC. Thông tư số
03-TANDTC ngày 05/04/1983 được ban hành, hướng dẫn một số quy định về
BTTH trong tai nạn ô tô. Vào thời điểm Thông tư 173 được ban hành thì ở
Việt Nam ô tô chỉ thuộc sở hữu nhà nước, các cá nhân không có quyền sở
hữu đối với các loại ô tô, vì thế, trong mọi trường hợp, chủ sở hữu là
nhà nước phải BTTH. Thời gian sau đó, ở Việt Nam, ô tô không chỉ thuộc
sở hữu của nhà nước mà còn thuộc sở hữu của tư nhân. Điều đo chứng tỏ
trong xã hội, khả năng kinh tế của mỗi cá nhân có độ chênh lệch, bởi
thế, các nhà lập pháp đã có cách nhìn nhận mới trong việc quy định trách
nhiệm BTTH do tai nạn ô tô. Trên cơ sở kế thừa những quy định của Thông
tư 173 về cơ sở để xác định việc bồi thường cũng dựa vào 4 điều kiện.
Tuy nhiên, trong khi quy định về trách nhiệm BTTH trong tai nạn ô tô đã
quy định khá cụ thể về lỗi của từng chủ thể (lỗi của phía ô tô, lỗi của
nạn nhân, lỗi của người thứ 3). Ngoài ra, còn có dự liệu khi ô tô va
chạm mà gây thiệt hại và chỉ có 1 bên có lỗi thì bên có lỗi phải BTTH
còn nếu cả 2 bên có lỗi thì xác định trách nhiệm liên đới. Nếu trong
trường hợp tự thân hoạt động của ô tô mà gây thiệt hại thì phía ô tô
phải bồi thường. Trong trường hợp bất khả kháng như: do cây đổ, đá lở,
sét đánh, v.v… thì phía ô tô không phải bồi thường. Người phải BTTH cũng
phải xác định tương đối cụ thể trong Thông tư 03, cụ thể là người chiếm
hữu phương tiện phải bồi thường những thiệt hại gây ra cho người xung
quanh mà không phân biệt người chiếm hữu phương tiện chỉ phải bồi thường
khi người lái xe đang làm nhiệm vụ được giao với khi không được giao
nhiệm vụ nhưng đã lợi dụng hoặc sử dụng để làm việc riêng. Qui định này
xuất phát từ việc nhanh chóng khắc phục thiệt hại cho người bị thiệt hại
và có tác dụng làm cho người chiếm hữu phương tiện phải quản lý những
người lái xe. Thông tư này còn xác định người chủ xe là người chiếm hữu
xe trừ khi xe đã được chuyển giao cho người khác thông qua hợp đồng cho
mượn, cho thuê không kèm theo người lái, xe bị trưng dụng theo mệnh lệnh
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi xe chuyển giao thì người được
chuyển giao phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nếu xe bị huy động phục vụ
các nhu cầu của nhà nước như: chống bão lụt, dịch bệnh,… thì chủ phương
tiện vẫn phải BTTH nếu xe gây thiệt hại vì chủ phương tiện vẫn được coi
là thực hiện kế hoạch Nhà nưóc, được Nhà nước cung cấp cho kinh phí,
nhiên liệu, v.v…. Có thể nói, đây là quy định hoàn toàn không phù hợp
với lợi ích của chủ xe mà cần được hiểu rằng trong trường hợp này, xe đã
được chuyển giao và Nhà nước chính là người đang chiếm hữu xe của cá
nhân để phục vụ lợi ích công cộng, không cân bằng giữa lợi ích xã hội và
lợi ích cá nhân, dẫn đến hậu quả rất khó khăn trong việc khuyến khích
chủ xe thực hiện nghĩa vụ với nhà nước…
Trong Bộ luật dân sự 1995 và được sửa đổi bổ sung năm
2005, các qui định về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không thay
đổi, bổ sung mà thay đổi số các điều luật. Qui định bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra gồm các điều luật sau đây:
Điều 627 BLDS 1995 (Đ623 BLDS 2005) – Bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Điều 628 (624) – Bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường. Điều 629 (625) – Bồi thường thiệt
hại do súc vật gây ra. Điều 630 (625) – Bồi thường thiệt hại do cây cối
gây ra. Điều 631 (626) – Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây
dựng gây ra. Những qui định về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong BLDS dựa trên cơ sở pháp lý là lỗi của chủ sở hữu hoặc của người trực tiếp
sử dụng, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó. Những người này có lỗi vô
ý hoặc cố ý để tài sản của mình gây thiệt hại. Ngoài ra, luật qui định
trường hợp không cần xác định lỗi của chủ sở hữu như trách nhiệm dân sự
do ngưồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm dân sự là yếu
tố lỗi của người gây thiệt hại hoặc của người quản lý tài sản. Tuy
nhiên, vấn đề lỗi của chủ sở hữu trong trách nhiệm dân sự do tài sản gây
ra, nhiều trường hợp mang tính chất suy luận logic mà không thể xác
định được một cách trực tiếp. Vì vậy, pháp luật nên điều chỉnh trách
nhiệm này theo hướng chủ sở hữu, người quản lý sử dụng tài sản phải bồi
thường thiệt hại khi tài sản gây thiệt hại trừ trường hợp thiệt hại xảy
ra do bất khả kháng, do lỗi của người thứ ba hoặc do lỗi cố ý cuả người
bị thiệt hại. Hướng điều chỉnh này dựa trên nguyên tắc sở hữu là ai
hưởng dụng từ tài sản phải có nghĩa vụ do tài sản gây ra.
Các qui định về bồi thường thiệt hại do tài sản gây
ra trong pháp luật dân sự Việt Nam tương đối toàn diện. Tuy nhiên, nếu
không so sánh với pháp luật nước ngoài thì không thấy hạn chế của các
qui định đó. Vì thế, việc tham khảo pháp luật nước ngoài về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra là điều cần thiết nhằm so sánh
tìm ra những hạn chế trong pháp luật dân sự của Việt Nam và để hoàn
thiện các qui định về trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại.
Pháp luật luật dân sự của Pháp ảnh hưởng mạnh đến
pháp luật dân sự của nhà nước phong kiến Việt Nam thời kỳ thuộc địa, vì
thế các qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung trong các
Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Dân luật Trung Kỳ đều giống Bộ luật dân sự Pháp.
Điều 1384 Bộ luật dân sự Pháp qui định:
“Mỗi người phải chịu trách nhiệm không những về
thiệt hại do mình gây ra mà cả về thiệt hại do những người mà mình chịu
trách nhiệm hoặc những vật mà mình coi giữ gây ra”.
Điều 1385 BLDS Pháp: “ Chủ sở hữu con vật hoặc
người sử dụng con vật ấy phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do con vật
gây ra, dù nó đang được coi giữ hoặc bị xổng ra”.
Điều 1386 BLDS Pháp: “Chủ sở hữu công trình xây
dựng phải chịu trách nhiệm vè thiệt hại gây ra do công trình bị đổ vì
thiếu bảo dưỡng hoặc vì khuyết tật trong khi xây dựng”.
Các qui định trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Dân luật Trung Kỳ đã đựợc phân tích tại phần đầu.
Trong Bộ luật dân sự Nhật Bản, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại được qui định tại Chương V- Hành vi không hợp pháp. Chương
này qui định về bồi thường thiệt hại do hành vi không hợp pháp của con
người trực tiếp hoặc gián tiếp gây thiệt hại. Người có hành vi vi phạm
pháp luật gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp tài
sản gây thiệt hại thì cần phải xác định người chủ sở hữu, người trực
tiếp quản lý, người sử dụng có lỗi hay không. Nếu thiệt hại xảy ra mà
người quản lý sử dụng hoàn toàn không có lỗi thì không phải bồi thường.
Lỗi của người quản lý tài sản thể hiện trong từng trường hợp cụ thể khác
nhau. Thiệt hại xảy ra có thể do hành vi của con người hoặc do tài sản
nhưng nguyên nhân chính là hành vi cố ý hoặc bất cẩn của con người trong
việc quản lý, sử dụng tài sản, vì thế Điều 709 BLDS Nhật Bản qui định
một nguyên tắc chung là: “Một người vi phạm do cố ý hoặc do vô ý mà vi phạm quyền của người khác thì phải bồi thường thiệt hại phát sinh từ vi phạm ấy”
Theo qui định trên quyền của người khác là các quyền
dân sự như quyền nhân thân, quyền tài sản (quyền sở hữu)…Tuỳ thuộc vào
loại thiệt hại mà người gây thiệt hại phải bồi thường theo các mức khác
nhau. Điều 709 BLDS Nhật bản qui định hai cơ sở bồi thường là người gây
thiệt hại có lỗi vô ý hoặc cố ý và thiệt hại là xâm phạm quyền dân sự
của các nhân tổ chức. Đây là một qui định mang tính tổng quát, cho nên
không cần thiết phải qui định cụ thể từng trường hợp gây thiệt hại. Tuy
nhiên, có những thiệt hại xảy ra xét về thực tế người phải bồi thường
không có lỗi hoặc lỗi của họ là bị suy đoán như công trình xây dựng gây
thiệt hại trong thời gian sử dụng. Lỗi có thể là do thiết kế, thi công
hoặc do các nguyên nhân khác mà không phải là sự kiện bất khả kháng.
Liên quan đến vấn đề này, Điều 717 BLDS Nhật Bản qui định: “ Nếu việc
xẩy ra thiệt hại đối với người khác vì nguyên nhân sai sót trong xây
dựng hoặc bảo quản cấu trúc trên đất thì người chiếm hữu cấu trúc chịu
trách nhiệm về những thiệt hại đối với bên bị thiệt hại, song nếu như
người chiếm hữu đã thể hiện sự quan tâm đúng mức nhằm ngăn chặn việc xảy
ra thiệt hại thì chủ của cấu trúc đó phải bồi thường”.
Theo qui định trên, nếu công trình đang xây dựng mà
gây thiệt hại thì phải xác định lỗi của người đang thi công. trường hợp
người thi công có lỗi như vi phạm qui trình kỹ thuật xây dựng, vô ý để
tài sản gây thiệt hại cho người khác thì bên thi công phải bồi thường
thiệt hại. Qui định này hoàn toàn phù hợp với thực tế, bởi lẽ xây dựng
là công việc thuộc chuyên môn kỹ thuật cao, người làm nghề xây dựng phải
có thẻ hành nghề và mua bảo hiểm nghề nghiệp, vì vậy nếu trong quá
trình xây dựng do lỗi của bên thi công thì bên thi công phải bồi thường
thiệt hại và bên thi công có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi
thường thay.
Trường hợp các công trình xây dựng hoặc các cấu trúc
khác như nhà khung sắt, nhà gỗ…sụp đổ gây thiệt hại, trước hết xem xét
người chiếm hữu cấu trúc đó có lỗi trong việc sử dụng hay không, nếu
người chiếm hữu không có lỗi trong việc cấu trúc gây thiệt hại thì chủ
sở hữu công trình phải bồi thường. Rõ ràng trường hợp này người chủ sở
hữu không có lỗi trong việc khai thác tài sản cho nên qui định có tính
chất suy đoán người chủ sở hữu có lỗi nên buộc phải bồi thường thiệt
hại. Tuy nhiên, xét về mặt thực tiễn qui định này có tính hợp lý, thể
hiện là công trình xây dựng là những khối bê tông cốt thép khổng lồ được
chôn sâu trong lòng đất, vì công trình xây dựng do con người tạo ra, do
vậy mọi tính toán của con người đều không thể đúng một cách tuyệt đối,
cho nên có thể dẫn đến thiếu sót trong thăm dò địa chất, thiết kế, hoặc
thi công dẫn đến gây thiệt hại cho người khác, vì vậy cần phải buộc chủ
sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại là phù hợp. Mặt khác pháp luật
qui định như vậy để buộc chủ sở hữu phải mua bảo hiểm các công trình xây
dựng, nếu xảy ra thiệt hại thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường
thay.
Đối với trách nhiệm dân sự do súc vật gây ra, cần
phải xác định lỗi của người chủ sở hữu, người quản lý súc vật theo Điều
718 BLDS Nhật Bản: “Người chiếm hữu động vật phải bồi thường thiệt
hại do nó gây ra cho người thứ ba, song điều này không áp dụng nếu người
chiếm hữu đã bảo quản nó với quan tâm đúng mức phù hợp với đặc tính và
bản chất của động vật. Người chăm sóc động vật thay cho người chiếm hữu
cũng phải gánh vác trách nhiệm nêu ở phần trên”.
Khi xảy ra thiệt hại, để xác định lỗi của chủ sở hữu,
người quản lý súc vật phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể xem xét
chủ sở hữu, người quản lý súc vật đã áp dụng các biện pháp bảo vệ, ngăn
ngừa súc vật gây thiệt hại phù hợp với đặc tính của từng loại súc vật
hay chưa, ngoài ra các biên pháp đó có phù hợp với hoàn cảnh nuôi giữ
súc vật hay không. Nếu súc vật gây thiệt hại mà người chủ sở hữu, người
quản lý súc vật không có lỗi thì không phải bồi thường thiệt hại. Qui
định này phù hợp với lý luận và thực tiễn, bởi lẽ nguyên tắc xác định
trách nhiệm dân sự là lỗi của người gây thiệt hại mà trường hợp này
người người chủ sở hữu, người quản lý súc vật đã sử dụng các biện pháp
ngăn ngừa cho phép nên đã thể hiện sự thận trọng trong việc nuôi, giữ
súc vật. Ví dụ: nuôi chó trong nhà, chủ sở hữu đã xích chó một chỗ cố
định mà trộm vào nhà bị chó cắn. Trường hợp này không thể coi chủ sở hữu
có lỗi trong việc chó gây thiệt hại cho kẻ trộm.
Những qui định về bồi thường thiệt hại trong Luật dân
sự của Pháp và đặc biệt của Luật dân sự Nhật Bản rất hợp lý và hợp tình
trong việc xác định trách nhiệm dân sự của người gây thiệt hại hoặc của
chủ sở hữu, người quản lý sử dụng tài sản. Những qui định này chỉ rõ
trường hợp nào có lỗi, trường hợp nào không có lỗi nhưng vẫn phải bồi
thường, trên cơ sở đó áp dụng pháp luật sẽ được chính xác.
SOURCE: ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI “TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO TÀI SẢN GÂY THIỆT HẠI – VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”, MÃ SỐ: LH-08-05/ĐHL. HÀ NỘI NĂM 2009
CÁM ƠN TS. TRẦN THỊ HUỆ – CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI ĐÃ CHIA SẺ BÀI VIẾT
VIỆC SỬ DỤNG LẠI BÀI VIẾT PHẢI NHẬN ĐƯỢC SỰ ĐỒNG Ý CỦA TÁC GIẢ
CÁC CHUYÊN ĐỀ THUỘC ĐỀ TÀI
0 comments:
Post a Comment