Lâu nay trong xã hội
ta, nhất là trong đời sống ở các đô thị, đề tài về sự ứng phó với giới
nhà giáo không còn chỉ là chuyện của học sinh sinh viên mà đã thành mối
bận tâm thường trực của các bậc cha mẹ, của toàn xã hội. Những gương
giáo viên tận tụy với nghề thì vẫn có, song, những lời kêu ca từ cha mẹ
học sinh về những khoản đóng góp có tên và không tên cho nhà trường và
thầy cô, những tin tức về mua điểm, về chạy lớp chạy trường, v.v…lại nổi
trội hơn. Lương giáo viên nhìn chung vẫn thấp nhưng không ít thầy cô đã
giàu hẳn lên, nhờ những nguồn thu ngoài lương như luyện thi hoặc tham
gia các vụ chạy điểm chạy trường chạy lớp…
Trong mắt người dân, nhất là dân đô thị, nghề giáo
viên từ chỗ là nghề “ốm đói”, “lương ba cọc ba đồng”, trở nên nghề dễ
kiếm tiền, và do đó trở nên nghề cao giá hơn trước, nhưng trong cư dân
cũng thấy giảm dần niềm tin vào tính mô phạm, vào đức độ của giới nhà
giáo; khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” thường gặp nơi khuôn viên các
trường học, đang lộ ra những nét mỉa mai…
Vậy thì nên nghĩ thế nào về người thầy, về nghề giáo viên? về quan hệ thầy trò trong đời sống hiện tại?
Tôi muốn nêu lại một sự lý giải − mà theo tôi rất đặc
sắc tuy không dễ nghe − về sự học và về điều vẫn được gọi là “tình thầy
trò” trong xã hội.
Sự lý giải này là của Phan Khôi (1887-1959), một tác gia vốn nổi tiếng về sự thẳng thắn, “thiết diện vô tư” trong ngôn luận.
Quan hệ thầy trò nảy sinh là do ở xã hội con người
nảy sinh sự học, − tức là hoạt động tiếp nhận, đào luyện tri thức và
kỹ năng; “sự học” trong ý niệm của các lớp người trước còn mang nghĩa
rộng hơn, trỏ hoạt động học thuật, tức là hoạt động nghiên cứu, phát
minh, sáng chế, bổ sung và làm giàu các nguồn tri thức và kỹ năng.
Ở nước ta, sự học xuất hiện từ việc tiếp nhận chữ
Hán và Khổng giáo, − hai thứ ban đầu không tách rời nhau. Sự kiện Sĩ
Nhiếp, một viên Thái thú do triều đình phương Bắc cử đến trị nhậm đất
này, được hậu nho người Việt tôn xưng “Nam Giao học tổ”, là minh chứng
về nguồn gốc nêu trên của sự học ở nước ta. Nền học thứ nhất hiện hữu
trên đất Việt suốt gần hai ngàn năm chính là Hán học (chữ Hán, Khổng
giáo, văn hoá Hán); chỉ từ cuối thế kỷ XIX mới xuất hiện nền học thứ
hai, được gọi là “Tây học” (ngày nay hẳn có những người muốn gọi khác đi
tuy chưa thấy ai quyết liệt lên tiếng).
Trong một bài viết đăng báo năm 1931, Phan Khôi lưu ý
rằng cái mà ở ta gọi là “Hán học” hoặc “Nho học” đó vốn có hai phương
diện khác nhau:
“Một là cái học về nghĩa lý, tức là cái học của thánh hiền; một nữa là cái học về từ chương khoa cử,
cũng kêu là tục học. Hồi Khổng Mạnh bắt đầu đề xướng ra, nguyên chỉ có
cái học nghĩa lý mà thôi; đến sau lần lần một ngày một sai đi, mới thành
ra cái học từ chương khoa cử”. (1)
Theo Phan Khôi, “cái học nghĩa lý” bao gồm: một phần
lớn là cái mà ngày nay gọi là triết học, “xét về bản thể của vũ trụ,
cùng tính mạng đạo đức là cái cần thiết cho sự sống của loài người”, (1) bên cạnh đó có một phần là cái học tu thân, “dạy về sự làm người cho đúng đắn”, (1) và một phần nữa là cái học kinh tế, “dạy về chánh trị kinh tế, cái cách để trị nước và an thiên hạ”; (1)
ngoài ra, tất cả những lĩnh vực tri thức mà người xưa gọi là “kinh
học”, “sử học”, “lý học”, “đạo học”, v.v…, theo Phan Khôi, đều thuộc
“cái học nghĩa lý”.
Từ triều Hán trở đi, các vua Trung Quốc dùng khoa cử để chọn người cho bộ máy cai trị.
“Ban đầu cũng do theo cái học nghĩa lý của thánh hiền
làm tiêu chuẩn, hễ ai tinh thông nghĩa lý thì được trúng cách, tức là
thi đậu; nhưng sau rồi mỗi ngày mỗi sai đi, mà cái học khoa cử đi một
đường, còn nghĩa lý đi một đường. Khi họ bỏ quên nghĩa lý rồi, chỉ
chuyên trọng về mặt từ chương. Từ chương tức là làm từ phú văn chương
cho hay cho đẹp, lấy đó làm tiêu chuẩn cho sự thi cử. Vì vậy nói luôn là
từ chương khoa cử”. (1)
Ở Trung Quốc suốt thời trung đại, − Phan Khôi nhận
xét, − thời nào số đông sĩ phu cũng chuộng cái học khoa cử nhưng thời
nào cũng vẫn có không ít người theo đuổi cái học nghiã lý. Có những
người vẫn theo đuổi mục tiêu thi đậu làm quan đồng thời “còn muốn cái
thân của mình có quan hệ đến xã hội đời sau, muốn vậy thì duy có gieo
mình vào cõi học mới được; cho nên có nhiều người đã làm đến bậc đại
thần, công danh rực rỡ, mà cũng còn chen chân vào đám học giả mới nghe”.(1)Lại
có “những người cả đời theo học vấn mà nhất định không thèm thi cử,
không thèm tranh cái danh tầm thường với đời, chỉ chăm một đường khảo
cứu trước thuật, hiến thân cho sự học”.(1) Tóm lại, “sĩ phu
dầu bị cái học khoa cử làm hư đi cũng nhiều, song cái học nghĩa lý của
thánh hiền đời xưa vẫn không đến nỗi mờ tối” (1) – đó là nhận xét của Phan Khôi về Nho học hay là cái học cổ truyền ở Trung Quốc thời cổ và trung đại.
Chính Hán học là nền học thứ nhất đã từ Trung Quốc
truyền vào nước ta. Hán học ở Việt Nam thời Bắc thuộc, theo Phan Khôi,
tựu trung mới chỉ là lối giáo dục “chấm câu”(tức là lối dạy lối học qua
loa, giống như bài văn chỉ chấm câu mà không khuyên điểm),
“cái học nghĩa lý của thánh hiền thật chửa thấm khắp trong óc người mình chút nào”.
“Học “chấm câu” như vậy non ngàn năm, đến lúc nước
mình độc lập, lại vội vàng lập ra ngay phép khoa cử. Từ đó Hán học ở
nước ta chỉ biết có từ chương khoa cử mà thôi, không hề biết đến cái học
nghĩa lý.
Theo lịch sử Việt Nam thì có hai thời kỳ mà người ta
cho là Nho học rất thịnh, là hồi triều Lê và triều Nguyễn […] Nhưng
thịnh đó là chỉ thịnh về đằng từ chương khoa cử; nếu bảo rằng Nho học
thịnh thì oan cho Nho học lắm, vì Nho học tức là cái học nghĩa lý, mà ở
nước ta nó hầu như không có” (1)
Nguyên nhân tình trạng lệch lạc này trong sự học ở nước ta, theo Phan Khôi, là quan niệm của người nước ta về sự học.
“Người mình coi sự học cũng như cục gạch để gõ cửa,
khi cửa mở ra rồi thì cục gạch ném đi. Cái học của ta là để gõ cửa giàu
sang, khi giàu sang rồi thôi không nói đến học nữa”.(1)
Quan niệm này, theo Phan Khôi, vẫn còn được người nước mình duy trì trong nền học mới, tức Tây học:
“Hiện ngày nay Tây học cũng chia làm hai như vậy; một
cũng là cái học nghĩa lý; một nữa lại là cái học “kiếm cơm”. Nếu ngày
nay ta chỉ chuyên theo cái học kiếm cơm thì nó cũng sẽ di họa cho ta như
cái học từ chương khoa cử ngày xưa vậy”.(1)
Nhận định như trên về nguồn gốc và đặc tính sự học ở
nước ta của Phan Khôi là nhất quán với (và là cơ sở cho) nhận định về
quan hệ thầy trò, − điều mà ông đề cập trong một bài khác, cũng đăng báo
năm 1931.
Không chiếm riêng một “luân” nào trong “ngũ luân” của
Khổng Mạnh (quân thần; phụ tử; phu phụ; huynh đệ; bằng hữu), quan hệ
thầy trò chỉ thuộc về luân “bằng hữu”, nhưng từ xưa vẫn được xem trọng.
Ba đấng “quân, sư, phụ” (vua, cha, thầy) được người ta thờ kính như
nhau. Cái nghĩa của quan hệ này được gói trong sự “thi” và “báo”:
thầy thi ân, ban ơn tác thành (về học vấn, về năng lực, phẩm cách…) cho
trò, trò báo đáp cái ơn tác thành ấy của thầy; hai hành vi của hai phía
là tương ứng, tuỳ thuộc lẫn nhau.
Ở ngọn nguồn của Nho học, thầy dạy trò không chỉ bằng sách vở, tư tưởng, mà còn bằng chính con người mình.
“Ông thầy nào có hoài bão cao, đạo đức lớn mà được
người học trò hiểu cho mình, làm theo mình, thì sự quan hệ với nhau lại
còn đặc biệt hơn những trò khác”.(2)
“Sự tương tri tương đắc của thầy trò nó cũng thân
thiết như là vợ chồng bậu bạn. Nhiều khi cha con không hiểu nhau mà thầy
trò lại hiểu nhau. Giữa cha con thường có một cái gì mà như bức tường
để ngăn trở sự hiểu nhau; chớ còn thầy với trò mà đã vừa ý nhau rồi thì
không còn bức tường ấy nữa, tương tri tương đắc thì thật là tương tri
tương đắc. Thầy trò mà đến bậc ấy thì khi một người chết đi, trong lòng
người kia mang một cái vết thương trọn đời, chớ không những tâm tang ba
năm mà thôi” (2)
Những quan hệ như giữa thầy Khổng Tử với trò Nhan
Uyên thời cổ đại, giữa trò Phí Mật (1625-1701) với thầy Tôn Kỳ Phùng
(1585-1675) thời trung đại mà nét đặc trưng là sự tương tri tương đắc
với nhau về học thuật và đạo lý, được Phan Khôi nêu ra như hai ví dụ về
tình thầy trò trong “cái học nghĩa lý”, “cái học của thánh hiền”.
Ở thế giới hiện đại, có lẽ chỉ có quan hệ giữa người
phát kiến, đề xướng một xu hướng, một trường phái, một lý thuyết, một
phương pháp, v.v…với những môn đồ kế thừa và phát triển chúng, − mới có
sự tương ứng phần nào với quan hệ “sư đệ” trong cái học nghĩa lý xưa
kia, như Phan Khôi hình dung.
Tuy nhiên, theo Phan Khôi, cũng ngay từ xa xưa,
“Sau đức Khổng, trong cõi học bị văn chương khoa cử
choán mất rồi thì đạo thầy trò cũng kém xưa. Lúc bấy giờ chỉ là mấy anh
thợ làm văn truyền nghề cho những thợ bạn của mình, chớ không còn phải
là thầy trò. Không có cái hoài bão cao, đạo đức lớn nêu ra, thì lấy đâu
có được sự tương tri tương đắc? Anh thợ làm văn ấy chết thì còn thiếu
chi anh thợ làm văn khác; có điều đã theo Nho giáo thì cũng làm ra bộ
tâm tang cho có, chớ thiệt tình, trong lòng họ chẳng có cái gì là cái
vết thương. Hồi nhà Đường, Hàn Dũ than thở mà nói đời nay không còn sư
đạo nữa, thật không phải là quá đáng vậy”.(2)
Quan hệ thầy trò trong lối học khoa cử, theo Phan Khôi, là khác hẳn quan hệ ấy trong cái học nghĩa lý,
“Vì trong cái học nầy, thầy chỉ dạy cho trò làm văn
hay để thi đậu làm quan mà thôi; so với bên kia vì nghĩa, bên nầy vì
lợi, không thể đồng nhau”. (2)
Nhận định về sự học ở nước ta từ khi du nhập Hán học, Phan Khôi cho rằng:
“Nói đến sự thầy trò nước ta thì phải thú thật rằng
chưa hề có thứ thầy trò như Khổng Tử với Nhan Uyên, Tôn Kỳ Phùng với Phí
Mật, mà đều là hạng thầy trò trong cái học khoa cử cả”. (2)
Thời kỳ khoa cử Hán học còn thịnh tại Việt Nam, ở các
trường cuả các thầy đồ, học trò thường lập những hội “đồng môn”: các
hội này có vốn, có hoạt động làm cho vốn sinh lợi, trước để cung cấp nhu
cầu đời sống cho thầy, sau cũng chi phí cho sự vãng lai thù tạc trong
đám trò với nhau. Nhiều hội đồng môn làm nhà cho thầy, đặt đất hương hoả
cho thầy, và sau khi thầy mất thì giữ ngày cúng giỗ như giỗ cha mình
vậy. Tục lệ này được xem là một cái tục rất hậu.
“Người ta cho là tục hậu; hậu thật. Nhưng tôi xin
hỏi: cái tục ấy có ích gì cho đời không? Có ảnh hưởng gì đến học giới
không? Hỏi sao từ xưa đến nay, mấy ông thầy nước ta không tác thành ra
thánh hiền mà chỉ tác thành ra ròng những quan lớn? Thầy tác thành ra
một đống quan lớn nên người được tác thành đền đáp như vậy cũng phải;
song xét kỹ thì chỉ là lấy lợi ban ra, lấy lợi trả lại đó thôi, chớ có
gì đâu mà khen ngợi trầm trồ!” (2)
Rất có thể có không ít người trong hoặc ngoài giới
nhà giáo, cả trong thời Hán học xưa kia lẫn trong học chế ngày nay,
không tán đồng sự phân tích nêu trên của Phan Khôi. Tuy nhiên, bình tĩnh
lại, ta sẽ thấy sự phân tích ấy khá phù hợp với lẽ phải.
Hãy tạm gác lại chuyện “học” trong các nhóm phái văn hoá hay khoa học thời hiện đại.
Ta hãy chỉ nói đến sự học ngày nay ở hai hệ thống:
phổ thông và chuyên nghiệp (đại học, cao đẳng, trung học, dạy nghề); sự
học ở đây rất hợp với chữ “tục học” mà Phan Khôi đã gọi tên. Ở hai hệ
thống này, cả hai thành phần là người học và người dạy đều tham gia hoạt động giáo dục theonguyên tắc lợi ích.
Người học (học sinh, sinh viên, học viên…) tham gia
hoạt động giáo dục để được trang bị những tri thức và kỹ năng nhất định;
chính vì lợi ích ấy, người học phải đóng góp tài chính để góp phần tạo
nguồn kinh phí trả lương cho người thầy, trang trải phí tổn và duy
trì cơ sở đào tạo, v.v.
Người dạy tham gia hoạt động giáo dục với tư cách
người hành nghề. Dạy học là một nghề trong các loại nghề. Những phẩm
chất như trình độ tri thức (về lĩnh vực mình giảng dạy), nhân cách đạo
đức, v.v…, cần được xem như những điều kiện cần có để được phép hành
nghề.
Nguyên tắc lợi ích vừa nói ở trên chính là cơ sở của
các hoạt động giáo dục đào tạo trong đời sống hiện đại; nguyên tắc ấy
hoàn toàn tương ứng với nguyên tắc “lấy lợi ban ra, lấy lợi trả lại” mà
Phan Khôi rút ra từ thực chất của cái học khoa cử thời xưa. Nhưng sự
“thi”(ban ơn) và “báo” (đền ơn) song phương ở quy mô cá nhân hoặc nhóm
nhỏ xưa kia (một ông thầy với nhóm “hội đồng môn” gồm các thế hệ học trò
từng thụ giáo ông ta), trong hoạt động dạy và học ngày nay, đã được thể
chế hoá ở quy mô toàn xã hội; người dạy thực thi việc truyền thụ kiến
thức và kỹ năng là ở quy mô xã hội, tuy người ấy dạy cho những người học
cụ thể; người học trả công cho người dạy thông qua lệ phí, học phí đóng
cho nhà trường hoặc cơ sở đào tạo, tức là thông qua những “đại lý” của
ngành giáo dục và đào tạo; những dạng thức “báo đền” trực tiếp (quà
biếu, tiền bạc…) đều là dấu hiệu “có vấn đề”.
Sự học trong đời sống hiện đại đã vận hành theo
nguyên tắc lợi ích, đã được thể chế hoá ở quy mô toàn xã hội như vậy,
thiết tưởng ta cũng nên hiện đại hoá quan niệm về quan hệ thầy trò. Đó
chỉ nên xem là quan hệ chuyển giao tri thức và kỹ năng giữa con người
với nhau, một sự chuyển giao đã được tổ chức thành những thiết chế xã
hội. Những tri thức hoặc kỹ năng được chuyển giao đó không phải là vốn
riêng, sở hữu riêng của người “giao” (= người dạy) mà là vốn chung, sở
hữu chung của cộng đồng (nhân loại, dân tộc). Quan hệ tình cảm giữa lớp
người “giao” và lớp người “nhận” là có, có một cách tự nhiên, nhưng
không nên thần thánh hoá vai “thầy” và chế định ra những bổn phận quá
đáng cho vai “trò”. Những quan niệm thông tục cũ, từng được đúc vào
những mệnh đề như “nhất tự vi sư bán tự vi sư” (= người dạy cho mình một
chữ hay nửa chữ, mình cũng phải xem là thầy), cần được coi như những
định kiến hạn hẹp. Ngay khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn”, vốn là châm
ngôn của Nho học, cũng không diễn đạt đúng tinh thần “vừa dạy kiến thức
vừa làm hình thành nhân cách” của nhà trường hiện đại.
Trong đời sống hôm nay, học tập là một phần việc mà
mỗi người phải theo đuổi suốt đời; ai cũng phải học và ai cũng có thể
truyền thụ cho người khác được ít ra là một vài hiểu biết hay kỹ năng
nào đó. Vậy mà, mỗi người chuyên làm nghề dạy học chỉ có thể “làm thầy” ở
một môn học nào đó, trong một thời điểm nào đó, và cũng phải thường
xuyên cập nhật những cái mới trong chuyên môn của mình thì mới duy trì
được vai trò nghề nghiệp của mình; tức là trong thực chất, khả năng “làm
thầy” thiên hạ bao giờ cũng rất hạn hẹp.
Ở đời sống hiện đại có rất ít bậc thầy đúng nghĩa, ở đời sống hiện đại không tồn tại thánh hiền.
Quan hệ thầy trò thời nay, thiết nghĩ, nên đặt trên một quan niệm thoáng như thế.
Chú thích:
(1) Phan Khôi (1931), Hán học ở bên Pháp (Cảm tưởng sau khi đọc bức thư luận học của người bạn ở Paris) // Đông tây, Hà Nội, s. 74 (23.5.1931), s. 75 (27.5.1931), s. 76 (30.5.1931). Xem: Phan Khôi , Tác phẩm đăng báo 1931
// Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, Nxb. Hội Nhà Văn và Trung tâm
Văn hoá & Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2006 (sách đang in).
(2) Phan Khôi (1931), Thầy trò đời nay với thầy trò đời xưa // Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.98 (3.9.1931). Xem: Phan Khôi,Tác phẩm đăng báo 1931 // Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, Nxb. Hội Nhà Văn và Trung tâm VH&NN Đông Tây, Hà Nội, 2006 (sách đang in).
SOURCE: PHEBINHVANHOC.COM.VN
Trích dẫn từ: http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=6512
0 comments:
Post a Comment