THS. BÙI ĐỨC GIANG – Cong ty Luật Audier and Partners Vietnam LLC
Trong hệ thống pháp
luật Việt Nam tồn tại một số khái niệm có nội hàm tương tự nhau và có
thể ít nhiều khó phân biệt như quyền yêu cầu, quyền tài sản phát sinh từ
hợp đồng, quyền đòi nợ, khoản phải thu. Việc nhận diện các quyền tài
sản (tài sản vô hình) này có ý naghĩa quan trọng khi thực hiện giao dịch
có đối tượng là các tài sản này. Bài viết sẽ phân tích quyền đòi nợ
dưới góc nhìn của pháp luật dân sự trong tương quan với các quyền tài
sản nói trên cũng như các giao dịch về quyền đòi nợ được pháp luật thừa
nhận, trong đó có một số giao dịch còn chưa được khai thác thường xuyên
trong hoạt động thương mại, nhất là trong việc cấp tín dụng.
1. Bản chất của quyền đòi nợ
Tính chất hỗn hợp
Quyền đòi nợ (debt claim, money
claim, debt) có tính chất khá đặc biệt vì nó phản ánh việc một nghĩa vụ
vừa là một mối quan hệ về mặt pháp luật, đồng thời lại là một loại tài
sản.
Dưới góc độ của pháp luật về
nghĩa vụ dân sự, quyền đòi nợ (khoản nợ, quyền yêu cầu thanh toán) là
quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện một công việc1 quy định tại
Ðiều 291 của Bộ luật dân sự (BLDS), cụ thể là phải thanh toán một khoản
tiền cho bên có quyền tại một thời điểm do các bên thỏa thuận trong hợp
đồng. Thời điểm thỏa thuận này có thể là một thời điểm nhất định trong
tương lai, nhưng quyền đòi nợ có thể được thanh toán khi bên có quyền
yêu cầu hay khi phát sinh một sự kiện tương lai nhất định mà các bên đã
thỏa thuận. Bên có quyền chỉ có thể yêu cầu việc thanh toán này từ phía
bên có nghĩa vụ chứ không thể yêu cầu một bên thứ ba làm việc này bởi
quyền đòi nợ chỉ thiết lập các mối quan hệ giữa bên có quyền và bên có
nghĩa vụ mà thôi. Ðiều này minh họa cho tính chất tương đối của quyền
đòi nợ.
Dưới góc độ của pháp luật về
tài sản, quyền đòi nợ là một loại quyền tài sản (khoản 1 Ðiều 322, BLDS)
và quyền tài sản lại là một trong bốn loại tài sản theo quy định hiện
hành (Ðiều 163, BLDS). Như vậy, có thể hiểu quyền đòi nợ tự thân nó là
một tài sản. Ðối tượng của quyền đòi nợ chính là khoản tiền sẽ được
thanh toán vào một thời điểm nhất định.
Phân biệt quyền đòi nợ với quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng
Trong khuôn khổ pháp luật giao
dịch bảo đảm, Ðiều 322 của BLDS phân biệt quyền đòi nợ với quyền tài sản
phát sinh từ hợp đồng (rights under a contract) theo hướng đây là hai
loại quyền tài sản độc lập với nhau. BLDS công nhận một khái niệm pháp
lý khác là quyền yêu cầu (các Ðiều từ 309 đến Ðiều 314). Khoản 4 và 5,
Ðiều 22, Nghị định 163/2006/NÐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao
dịch bảo đảm được bổ sung, sửa đổi năm 2012 (Nghị định 163) coi quyền
đòi nợ là một loại quyền yêu cầu. Trước đây, khoản 1.1, điểm d, Thông tư
số 04/2007/TT-BTP ngày 17/5/2007 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về thẩm
quyền, trình tự và thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về hợp đồng mua
trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng cho thuê tài chính và
hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ đã định nghĩa quyền đòi nợ theo hướng
liệt kê gồm quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng vay, hợp đồng mua bán,
hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng dịch vụ hoặc phát sinh từ các căn cứ hợp
pháp khác. Song, danh sách này đã bị hủy bỏ bởi Thông tư số
05/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số vấn đề về
đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo
việc kê biên tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện,
fax, thư điện tử tại Trung tâm Ðăng ký giao dịch, tài sản của Cục Ðăng
ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp. Thay vào đó, Ðiều 2,
khoản 2, điểm 2.4 Thông tư 05/2011/TT-BTP quy định “Hợp đồng chuyển giao
quyền đòi nợ bao gồm quyền đòi nợ hiện có hoặc quyền đòi nợ hình thành
trong tương lai”. Dường như các nhà làm luật muốn mở rộng hơn căn cứ
phát sinh quyền đòi nợ khi không giới hạn ở các hợp đồng nhất định nữa.
Tuy nhiên, không có quy định nào của BLDS giải thích nội hàm của các
quyền phát sinh từ hợp đồng. Có thể hiểu quyền đòi nợ là một quyền yêu
cầu mang tính chắc chắn có thể được thực thi trong khi quyền phát sinh
từ hợp đồng là quyền yêu cầu ít chắc chắn hơn, có tính chất ngẫu nhiên
hơn, tức là phụ thuộc vào các tình huống nhất định để chuyển một quyền
tiềm năng thành một quyền có thể thực thi được. Quyền phát sinh từ hợp
đồng bao gồm rất nhiều loại quyền, chẳng hạn như quyền chọn (options),
quyền phát sinh từ một hợp đồng cho thuê tàu biển, quyền phát sinh từ
vận đơn, quyền phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, quyền phát sinh
từ hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp2 hay quyền thuê phát
sinh từ hợp đồng thuê: Quyền đòi nợ và quyền phát sinh từ hợp đồng là
hai loại quyền yêu cầu tiêu biểu.
Quyền đòi nợ tương lai – Các
quy định về chuyển giao quyền yêu cầu (Ðiều 309 đến Ðiều 314) không chỉ
rõ liệu các quyền đòi nợ tương lai có thể trở thành đối tượng của việc
chuyển giao hay không. Khó khăn đặt ra đối với việc chuyển giao một
quyền yêu cầu tương lai là bên chuyển giao không thể thực hiện việc
thông báo về việc chuyển giao cho bên có nghĩa vụ quy định tại khoản 2,
Ðiều 309, BLDS trong khi đây lại là điều kiện để đảm bảo tính đối kháng
của giao dịch chuyển giao đối với bên có nghĩa vụ. Tương tự, theo khoản
1, Ðiều 22 của Nghị định 163, có thể thế chấp các quyền đòi nợ hình
thành trong tương lai, tuy nhiên, quy định hiện hành về loại tài sản này
còn bộc lộ khá nhiều hạn chế. Tài sản tương lai (future assets) là các
tài sản chưa tồn tại vào thời điểm xác lập giao dịch có liên quan. Pháp
luật Việt Nam sử dụng khái niệm tài sản hình thành trong tương lai là
một thuật ngữ khá dài và khó hiểu đối với các luật gia nước ngoài lần
đầu tiên tiếp cận với pháp luật Việt Nam.
Theo quy định tại khoản 2 Ðiều
4, Nghị định 163, tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền
sử dụng đất và bao gồm 3 loại sau đây:
(i) Tài sản được hình thành từ
vốn vay (tài sản có được từ việc sử dụng vốn vay để đầu tư); (ii) Tài
sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc đang được tạo lập hợp pháp tại
thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm (gồm các tài sản mà việc hình thành
hay tạo lập về mặt vật chất đang diễn ra tại thời điểm giao kết giao
dịch bảo đảm, ví dụ các công trình xây dựng đang được thi công); (iii)
Tài sản đã hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu,
nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được
đăng ký theo quy định của pháp luật.
Rất dễ nhận thấy danh sách các
tài sản hình thành trong tương lai này có vẻ chỉ hướng đến các tài sản
hữu hình (cụ thể hơn là nhà ở và các công trình xây dựng), có vẻ khá
trùng lặp và chưa bao quát hết các loại tài sản có thể coi là tài sản
tương lai, đặc biệt là các quyền tài sản. Rất khó có thể xác định một
quyền đòi nợ nào đó có phải là quyền đòi nợ tương lai nếu dựa vào danh
sách này.
Thực ra, quyền đòi nợ tương lai
là quyền đòi nợ chưa trở thành tài sản của bên thực hiện giao dịch. Nó
có thể còn chưa phát sinh do giao dịch hay sự kiện pháp lý có thể làm
phát sinh quyền đòi nợ này còn chưa diễn ra. Chẳng hạn đối với một công
ty hàng không, thu nhập từ việc bán các vé máy bay hiện còn chưa được
bán nhưng sắp được bán là các quyền đòi nợ hình thành trong tương lai vì
giao dịch bán chưa diễn ra. Các khoản phải thu tương lai (future
account receivables) là các khoản phải thu phát sinh từ các hợp đồng với
khách hàng của doanh nghiệp mà các hợp đồng này còn chưa được ký kết.
Tiền phạt vi phạm hợp đồng khi một cầu thủ vi phạm nghĩa vụ với một câu
lạc bộ bóng đá cũng là một quyền đòi nợ tương lai vì sự kiện pháp lý
(việc cầu thủ vi phạm nghĩa vụ quy định trong hợp đồng) chưa diễn ra.
Tương tự, trong trường hợp một doanh nghiệp thế chấp tài khoản giao dịch
của mình để vay vốn ngân hàng, quyền đòi nợ của doanh nghiệp đối với
ngân hàng nơi mở tài khoản là một quyền đòi nợ tương lai vì việc xử lý
tài sản bảo đảm là sự kiện pháp lý cho phép ấn định số dư tài khoản thế
chấp (giá trị của quyền đòi nợ) chưa diễn ra vào thời điểm xác lập giao
dịch bảo đảm. Cần lưu ý một khoản nợ sẽ được thanh toán trong tương lai
theo quy định tại một hợp đồng đã được ký kết là một quyền đòi nợ hiện
tại chứ không phải là một quyền đòi nợ tương lai. Tuy vậy, một quyền đòi
nợ tương lai có thể đã tồn tại nhưng chưa thuộc khối tài sản của bên
thực hiện giao dịch. Chẳng hạn, một hợp đồng mua bán tài sản đã được ký
kết và việc thanh toán được thực hiện theo nhiều đợt. Bên bán có quyền
đòi nợ đối với bên mua và có thể chuyển giao quyền đòi nợ này. Bên thực
hiện giao dịch có thể là bên sẽ nhận chuyển giao quyền đòi nợ từ bên bán
này. Trong cả hai giả thiết phát sinh quyền đòi nợ tương lai vừa nêu,
bên thực hiện giao dịch vẫn chưa có quyền định đoạt quyền đòi nợ tương
lai.
Mô tả quyền đòi nợ tương lai
Theo khoản 2 Ðiều 282 của BLDS,
“đối tượng của nghĩa vụ dân sự phải được xác định cụ thể”. Nói cách
khác, để trở thành đối tượng của các giao dịch, quyền đòi nợ phải được
xác định cụ thể. Về lý thuyết, yêu cầu này có thể gây cản trở cho việc
thực hiện giao dịch đối với quyền đòi nợ tương lai vì quyền đòi nợ tương
lai có thể còn chưa được xác định rõ tại thời điểm xác lập giao dịch.
Về quy định riêng, nếu chiểu
theo khoản 2, Ðiều 309, có thể hiểu BLDS đặt ra yêu cầu, theo đó, bên
chuyển giao quyền đòi nợ phải báo cho bên có nghĩa vụ biết bằng văn bản
về việc chuyển giao quyền đòi nợ. Tuy vậy, như đã nêu ở trên, trong
trường hợp chuyển giao quyền đòi nợ tương lai, do không thể nhận diện
được bên có nghĩa vụ tại thời điểm xác lập giao dịch nên không thể thực
hiện việc thông báo này cũng như không thể thực hiện được việc chuyển
giao quyền sở hữu đối với khoản nợ cho tới khi khoản nợ tồn tại.
Ðối với việc thế chấp quyền đòi
nợ, khoản 2, Ðiều 10, Nghị định 163 cũng đặt ra nguyên tắc “việc mô tả
chung về tài sản bảo đảm không ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch bảo
đảm”.Nguyên tắc này từ nay không còn được áp dụng (khoản 20, Ðiều 1,
Nghị định 11/2012/NÐ-CP ngày 22/02/2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định 163). Có thể suy luận là tài sản bảo đảm phải được xác
định cụ thể, nếu không, hợp đồng có nguy cơ bị tuyên vô hiệu. Thực ra,
nếu suy luận theo cách này thì sẽ dễ dàng nhận thấy có sự mâu thuẫn
trong chính quy định của Nghị định 163 khi khoản 1, Ðiều 22 của Nghị
định này quy định có thể thế chấp cả quyền đòi nợ hình thành trong tương
lai. Hơn nữa, khoản 1, Ðiều 33, Nghị định số 83/2010/NÐ-CP ngày 23
tháng 7 năm 2010, được bổ sung sửa đổi năm 2012 vẫn giữ quy định, theo
đó “việc mô tả chung về tài sản không ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của
đăng ký giao dịch bảo đảm”. Cho nên, có thể diễn giải theo hướng tinh
thần của quy định pháp luật là cho phép có một cách tiếp cận linh hoạt
đối với việc mô tả quyền đòi nợ hình thành trong tương lai được thế
chấp, chẳng hạn như chỉ yêu cầu hợp đồng thế chấp nêu một vài trong số
các yếu tố cho phép xác định khoản nợ như nêu bên có nghĩa vụ trả nợ,
nơi thanh toán, số nợ hay việc định giá khoản nợ và thời hạn thanh toán
khoản nợ (nếu có).
Quyền đòi nợ có kỳ hạn
Nếu áp dụng các giả thiết phát
sinh quyền đòi nợ tương lai nêu trên có thể thấy quyền đòi nợ có kỳ hạn
(nghĩa vụ dân sự theo định kỳ, Ðiều 292, BLDS) không phải là một quyền
đòi nợ tương lai mà đơn thuần chỉ là một quyền đòi nợ hiện tại. Chẳng
hạn, tiền thuê tài sản mà bên thuê phải trả cho bên cho thuê (rental
receivables) không phải là quyền đòi nợ tương lai khi mà hợp đồng thuê
tài sản ghi nhận các cam kết của bên thuê tài sản đã được ký kết vì
trong trường hợp này, quyền đòi nợ đã phát sinh từ một hợp đồng đã được
xác lập, duy chỉ việc quyền đòi nợ đến hạn là diễn ra trong tương lai mà
thôi.
Quyền đòi nợ có điều kiện
Ðối với nghĩa vụ dân sự có điều
kiện (Ðiều 294, BLDS), sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ chính là
điều kiện mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Do điều kiện này chưa
phát sinh tại thời điểm xác lập giao dịch (và có thể không bao giờ phát
sinh!) nên về nguyên tắc, có thể xem quyền đòi nợ có điều kiện là một
quyền đòi nợ tương lai. Chẳng hạn, quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ vừa là một quyền đòi nợ có kỳ hạn (trong trường hợp
người được bảo hiểm còn sống khi hết thời quy định trong hợp đồng) vừa
là một quyền đòi nợ có điều kiện (trong trường hợp người được bảo hiểm
chết trong thời hạn quy định trong hợp đồng). Do việc người được bảo
hiểm chết vốn là sự kiện pháp lý có khả năng làm phát sinh quyền đòi nợ
bảo hiểm còn chưa diễn ra vào thời điểm sử dụng hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ làm tài sản thế chấp để bảo đảm khoản vay chẳng hạn, nên quyền đòi
nợ có điều kiện này là một quyền đòi nợ tương lai.
2. Giao dịch có đối tượng là quyền đòi nợ
Việc hiểu đúng bản chất pháp lý
của quyền đòi nợ có vai trò hết sức quan trọng trong việc xác định đối
tượng của các giao dịch thương mại đối với quyền đòi nợ. Các giao dịch
này là cácgiao dịch ba bên và do đó, tương đối phức tạp. Nhìn chung, các
quy định hiện hành của BLDS mới chỉ dừng ở việc đưa ra nguyên tắc chứ
chưa đề cập một cách thỏa đáng các khía cạnh pháp lý khác nhau của các
giao dịch này.
Chuyển giao quyền đòi nợ (Ðiều
309 đến Ðiều 314, BLDS) – Ðây chính là việc mua bán quyền đòi nợ (Ðiều
449, BLDS)3. Nhìn chung, các quy định của BLDS đã giải quyết được về cơ
bản các vấn đề pháp lý đặt ra đối với giao dịch này. Tuy vậy, các nhà
làm luật chưa đề cập tới tính đối kháng của các phương tiện phòng vệ
(hủy hợp đồng, bù trừ nghĩa vụ,…) mà bên có nghĩa vụ trả nợ có thể viện
ra để từ chối thanh toán hay chỉ thanh toán một phần quyền đòi nợ đã
được chuyển giao.
Tòa án nhân dân tối cao đã
không công nhận hiệu lực của việc chuyển quyền sở hữu bất động sản để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng cách (i) coi các hợp đồng này là
các hợp đồng thế chấp (Quyết định số 290/2008/DS-GÐT ngày 25 tháng 9 năm
2008 của Tòa dân sự, Tòa án nhân dân tối cao) hoặc (ii) cho rằng đây là
các hợp đồng giả tạo (Quyết định số 325/2011/DS-GÐT ngày 29 tháng 4 năm
2011của Tòa dân sự, Tòa án nhân dân tối cao). Dù tài sản bảo đảm trong
các giao dịch này là bất động sản, cần hiểu rằng Tòa án nhân tối cao đã
xác lập nguyên tắc, theo đó, không thể chuyển quyền sở hữu để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ dân sự. Cho nên, không thể xác lập hợp đồng chuyển
giao quyền đòi nợ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hoàn trả khoản vay dù
trong thực tế, đây không phải là một trường hợp hiếm gặp.
Thế chấp quyền đòi nợ
Thế chấp quyền đòi nợ là giao dịch bảo đảm duy nhất đối với quyền đòi nợ được pháp luật thừa nhận.
Thế chấp quyền đòi nợ chịu sự
điều chỉnh của quy định chung về thế chấp tài sản và một số quy định
chuyên biệt (đặc biệt các Ðiều 22, Ðiều 59 và Ðiều 66 của Nghị định
163). Nhìn chung, chế độ pháp lý của thế chấp quyền đòi nợ còn khá sơ
lược. Chẳng hạn về tính đối kháng của giao dịch thế chấp quyền đòi nợ
với bên có nghĩa vụ trả nợ, điểm b, khoản 2 Ðiều 22 và điểm b, khoản 3
Ðiều 22, Nghị định 163 quy định “bên nhận thế chấp quyền đòi nợ có nghĩa
vụ cung cấp thông tin về việc thế chấp quyền đòi nợ, nếu bên có nghĩa
vụ trả nợ yêu cầu” và “bên có nghĩa vụ trả nợ có quyền yêu cầu bên nhận
thế chấp cung cấp thông tin về việc thế chấp quyền đòi nợ; nếu không
cung cấp thông tin thì có quyền từ chối thanh toán cho bên nhận thế
chấp”. Các quy định này chưa rõ, bởi vì không chỉ ra được thông tin được
bên nhận thế chấp cung cấp cho bên có nghĩa vụ trả nợ là về việc xác
lập giao dịch thế chấp quyền đòi nợ hay về diễn biến của giao dịch thế
chấp quyền đòi nợ. Vấn đề tính đối kháng đối với bên nhận thế chấp của
các phương tiện phòng vệ mà bên có nghĩa vụ trả nợ có thể đưa ra để từ
chối thanh toán hay chỉ thanh toán một phần khoản nợ cho bên nhận thế
chấp cũng còn đang bỏ ngỏ. Hơn nữa, các nhà làm luật chưa đưa ra được
giải pháp về xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp quyền đòi nợ đến
hạn trước hay sau nghĩa vụ được bảo đảm.
Thực hiện nghĩa vụ dân sự thông
qua người thứ ba (Ðiều 293, BLDS) – Theo quy định tại Ðiều 293, BLDS,
khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền cho người
thứ ba thay mình thực hiện nghĩa vụ. Ðiều 293 chỉ dừng lại ở việc đặt ra
nguyên tắc cho phép thực hiện giao dịch này và trách nhiệm liên đới của
bên ủy quyền với bên có quyền trong trường hợp người thứ ba không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các nhà làm luật chỉ coi việc
thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba là một trong các phương
thức chấm dứt nghĩa vụ dân sự, theo đó, thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ
thông qua người thứ ba dẫn tới việc thay thế nghĩa vụ bằng cách thay đổi
bên có nghĩa vụ. Thực ra, thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ dân sự thông
qua người thứ ba còn có thể đảm nhận chức năng của một giao dịch bảo
đảm, bởi vì, thay vì chỉ có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ ban đầu thực
hiện nghĩa vụ, bên có quyền có thể yêu cầu cả bên có nghĩa vụ ban đầu và
người thứ ba thực hiện nghĩa vụ. Chẳng hạn, khi ký hợp đồng vay vốn để
mua một công trình xây dựng sử dụng vào mục đích cho thuê, bên đi vay
(chủ sở hữu của công trình xây dựng này) có thể đảm bảo việc hoàn trả
khoản vay cho ngân hàng bằng cách ủy quyền cho người thuê công trình xây
dựng thay mình trả nợ bằng tiền thuê (rentals). Việc sử dụng chức năng
giao dịch bảo đảm của thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua
người thứ ba được sử dụng khá phổ biến trong tài trợ dự án quốc tế. Nó
giúp tài trợ việc xây dựng một nhà máy trong một nước đang phát triển
bằng nguồn vốn nước ngoài. Theo đó, các nhà đầu tư muốn có bảm đảm đối
với việc hoàn trả các khoản cho vay của mình sẽ sử dụng đến cơ chế thực
hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba thông qua việc thỏa thuận rằng các
khách hàng chính của nhà máy sẽ thanh toán trực tiếp các khoản tiền
tương ứng với giá mua sản phẩm của nhà máy cho các nhà đầu tư4. Về mặt
thủ tục, ưu điểm dễ thấy của việc khai thác chức năng giao dịch bảo đảm
của thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba nằm ở
chỗ không làm phát sinh chi phí khi xác lập (do không phải đăng ký hay
công chứng). Tuy vậy, quy định của BLDS còn quá sơ lược. Chẳng hạn như
chưa có quy định về việc liệu bên thứ ba có thể viện ra các phương tiện
phòng vệ (hợp đồng giao dịch liên quan đến quyền đòi nợ bị thay đổi,
chấm dứt hay hủy bỏ, bù trừ nghĩa vụ,…), để từ chối thanh toán cho bên
có quyền hay không5. Tương tự, Ðiều 293 BLDS không đề cập đến sự đồng ý
của bên thứ ba trong khi đây là điều kiện không thể thiếu được cho việc
xác lập giao dịch này6. Có thể do sự thiếu hụt cơ sở pháp lý, giao dịch
này còn ít được sử dụng trong thực tế tại Việt Nam.
Hợp đồng vì lợi ích của người
thứ ba (khoản 5 Ðiều 406, Ðiều 419 đến Ðiều 421, BLDS) – Quy định của
BLDS đã đề cập được một số khía cạnh chính của chế định này như việc
đồng ý hay từ chối hưởng lợi ích của người thứ ba (Ðiều 420 và Ðiều
421), quyền trực tiếp yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ
đối với mình của bên thứ ba này (Ðiều 419). Tuy nhiên, các nhà lập pháp
vẫn chưa quy định quyền rút lại thỏa thuận vì lợi ích của người thứ ba
của bên có quyền7 trong khi đây là một yếu tố then chốt của cơ chế này.
Hơn nữa bản thân cách gọi “hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba” vẫn
chưa phản ảnh chính xác bản chất pháp lý của chế định này. Thông thường,
đây chỉ là một điều khoản hay một quy định trong một hợp đồng chính mà
thôi chứ không phải là một hợp đồng riêng rẽ. Chẳng hạn, trong một hợp
đồng bảo hiểm tử kỳ, có thể có quy định, theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm
phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng nếu người được bảo hiểm chết
trong thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Cũng chính vì
cách gọi tên này gây khó khăn cho việc diễn giải, Ðiều 421 quy định
không được sửa đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba,
theo đó “khi người thứ ba đã đồng ý hưởng lợi ích thì dù hợp đồng chưa
được thực hiện, các bên giao kết hợp đồng cũng không được sửa đổi hoặc
hủy bỏ hợp đồng, trừ trường hợp được người thứ ba đồng ý”. Thực vậy, nếu
hiểu quy định này theo hướng các bên không được sửa đổi hoặc hủy bỏ hợp
đồng chính phát sinh lợi ích liên quan (hợp đồng mua bán, hợp đồng cho
thuê, hợp đồng bảo hiểm,…) thì nó can thiệp quá sâu vào quan hệ hợp đồng
giữa các bên giao kết, tác động nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của
các bên này và dẫn đến hệ quả về mặt thực tế là bên kia của hợp đồng
chính sẽ do dự, thậm chí không chấp nhận ký kết điều khoản vì lợi ích
của người thứ ba. Chỉ có thể hiểu quy định tại Ðiều 421 theo hướng một
khi bên thứ ba đã đồng ý hưởng lợi thì các bên không thể tự ý sửa đổi
hay hủy bỏ điều khoản quy định người thứ ba được hưởng lợi ích từ hợp
đồng chính. Cần lưu ý là thỏa thuận vì lợi ích của người thứ ba rất có
tiềm năng trong tài trợ các dự án hợp tác công tư (public-private
partnership). Trong một hợp đồng đối tác công tư thường có quy định việc
Nhà nước cam kết bồi thường cho công ty dự án một số loại thiệt hại mà
công ty này phải chịu trong quá trình xây dựng và khai thác công trình
là đối tượng của dự án. Các ngân hàng hay bên mua trái phiếu dự án có
thể trở thành bên thụ hưởng các quyền đòi nợ tiềm năng là các khoản bồi
thường này : Nhà nước không cam kết trực tiếp với các ngân hàng hay bên
mua trái phiếu dự án mà chỉ có thỏa thuận vì lợi ích của bên thứ ba ký
giữa Công ty dự án và Nhà nước làm phát sinh hệ quả đối với các ngân
hàng hay bên mua trái phiếu dự án. Thiết nghĩ, việc hoàn thiện cơ sở
pháp lý của chế định này rất cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi sự
phát triển của các dự án đối tác công tư tại Việt Nam.
Thay thế quyền đòi nợ (khoản 1,
Ðiều 379, BLDS) – Thay thế quyền đòi nợ được xem là một trong các biện
pháp chấm dứt nghĩa vụ. BLDS chỉ dừng lại ở việc đặt ra nguyên tắc được
thực hiện giao dịch này theo đó “trong trường hợp các bên thỏa thuận
thay thế nghĩa vụ dân sự ban đầu bằng nghĩa vụ dân sự khác thì nghĩa vụ
dân sự ban đầu chấm dứt”. Các nhà làm luật không chỉ rõ liệu nghĩa vụ
mới có nhất thiết là nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ ban đầu hay có thể là
nghĩa vụ của một bên thứ ba. Hơn nữa, BLDS chỉ quy định hệ quả duy nhất
của việc thay thế quyền đòi nợ là nghĩa vụ dân sự ban đầu chấm dứt chứ
chưa đề cập đến một số khía cạnh khác cũng không kém phần quan trọng như
việc các bên viện ra các phương tiện phòng vệ liên quan đến nghĩa vụ
ban đầu để từ chối thực hiện nghĩa vụ mới, việc giải phóng các bên có
nghĩa vụ liên đới trong trường hợp nghĩa vụ ban đầu là một nghĩa vụ liên
đới cũng như việc chuyển giao các biện pháp bảo đảm việc thực hiện
nghĩa vụ ban đầu.
Chú thích:
1. Nghĩa vụ trả tiền (nghĩa
vụ thanh toán) là một trong các loại nghĩa vụ thực hiện một công việc
được ghi nhận tại Ðiều 280 và 290 của BLDS. Xét từ góc độ của bên có
quyền, nghĩa vụ trả tiền của bên có nghĩa vụ chính là quyền đòi nợ của
bên có quyền.
2. Marcus Smith, The Law of
assignment, the creation and transfer of choses in action, Oxford
University Press, 2007, trang 41-45.
3. Trong lĩnh vực ngân
hàng, bao thanh toán (factoring) cũng là một hình thức chuyển giao quyền
đòi nợ cho phép huy động trước giá trị của khoản phải thu. Nghiệp vụ
ngân hàng này được điều chỉnh bởi Quyết định 1096/2004/QÐ-NHNN của Ngân
hàng Nhà nước ngày 6 tháng 9 năm 2004 ban hành quy chế hoạt động bao
thanh toán của các tổ chức tín dụng được bổ sung, sửa đổi năm 2008 và
năm 2011.
4. Dominique Legeais, S-retés et garanties du crédit, LGDJ, 8e éd., 2011, no 328.
5. Có thể lập luận rằng, do
có một mối quan hệ nghĩa vụ mới đã được xác lập giữa bên thứ ba và bên
có quyền nên về nguyên tắc bên thứ ba không thể viện dẫn ra các phương
tiện phòng vệ này.
6. Về lý thuyết thỏa thuận
thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba là một thỏa thuận ba bên (bên
có nghĩa vụ ban đầu, bên có quyền và người thứ ba). Tuy vậy, một thỏa
thuận ba bên như thế không thực sự phù hợp với tài trợ dự án. Thông
thường thỏa thuận thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba được bên có
nghĩa vụ ban đầu và bên có quyền ký kết và có nêu kèm trong phần phụ lục
một mẫu thư mà sau đó sẽ được sử dụng để gửi cho các bên thứ ba (chẳng
hạn các bên đi thuê công trình xây dựng) nhằm có được sự chấp thuận của
các bên này. Nội dung chính của mẫu thư này như sau: – Bên thứ ba (bên
được ủy quyền) xác nhận hiểu rõ thỏa thuận được ký giữa bên ủy quyền
(bên có nghĩa vụ ban đầu); bên có quyền và chấp nhận thực hiện cam kết
với bên có quyền.
7. Theo đó, bên có quyền rút lại thỏa thuận và chuyển quyền hưởng lợi ích liên quan cho một chủ thể khác hay cho chính mình.
SOURCE: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 19/2013 (CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM)
CÁC BÀI VIẾT CÙNG TÁC GIẢ
0 comments:
Post a Comment