Tuesday, September 17, 2013

Nhà nước tư sản - Thời kỳ chủ nghĩa tự do cạnh tranh - ThS Lê Thị Thanh Nhàn

Bài 9
NHÀ NƯỚC TƯ SẢN

- Lịch sử nhà nước tư bản trải qua 2 thời kỳ:
+ Thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.
+ Thời kỳ chủ nghĩa tư bản lũng đoạn và chủ nghĩa tư bản hiện đại.
- Từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 17, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành và lớn mạnh trong lòng xã hội phong kiến Tây Au. Trong lịch sử phát triển, chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn mang nét đặc thù riêng trên nền tảng biến đổi ít nhiều về kinh tế, chính trị. Tuy nhiên, ở tất cả các giai đoạn, bản chất của chủ nghĩa tư bản không biến đổi, đó là áp bức, bóc lột, cạnh tranh bằng mọi thủ đoạn kể cả bằng chiến tranh bạo lực để thu lợi nhuận tới mức cao nhất:
+ Từ năm 1640 đến 1870 là giai đoạn giai cấp tư sản lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng tư sản để nắm chính quyền và xác lập chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới. Thời kỳ này được gọi là thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nghĩa là chưa có tổ chức hoặc cá nhân tư bản độc quyền, các nhà tư sản tự do buôn bán.
+ Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển sang một bước phát triển mới, đó là thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Trong đó, từ năm 1870 đến năm 1945, chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, cạnh tranh tự do chấm dứt. Từ năm 1945 đến nay, chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, tức là chủ nghĩa tư bản hiện đại.
I. THỜI KỲ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TỰ DO CẠNH TRANH
1. Quá trình hình thành nhà nước
a. Những tiền đề của chủ nghĩa tư bản và nhà nước tư bản
- Thế kỷ 15, 16 nền quân chủ chuyên chế ở các nước phong kiến Tây Au lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng trên tất cả các mặt: chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội… mà biểu hiện rõ nét nhất là trong lĩnh vực quan hệ sản xuất.
- Những tiến bộ của kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất đã làm thay đổi tốc độ và quy mô sản xuất. Đồng thời làm cho quá trình phân công giữa các ngành nghề diễn ra một cách mạnh mẽ, đặc biệt sự phân công lao động trong nông nghiệp và công nghiệp là điều kiện để nền kinh tế hàng hoá phát triển.
- Quá trình tích lũy tư bản được các nhà tư bản tiến hành bằng mọi thủ đoạn dã man và hèn hạ. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình diễn ra sự tập trung vốn vào một số ít người, là quá trình tước đoạt tư liệu sản xuất của người lao động, biến họ thành những lao động làm thuê.
b. Sự ra đời của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
- Công trường thủ công
Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa giai đoạn đầu được biểu hiện dưới hình thức công trường thủ công trong lĩnh vực công nghiệp. Công trường thủ công có 2 loại: công trường thủ công phân tán và công trường thủ công tập trung.
- Các hình thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp
Sự phát triển nhanh chóng của công trường thủ công đòi hỏi phải có nguồn nguyên liệu dồi dào. Để đáp ứng yêu cầu này, nền kinh tế tự cung tự cấp trong từng lãnh địa phong kiến bị phá bỏ, và thay vào đó là nền nông nghiệp phát triển theo hướng kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa đang dần dần hình thành, đó là:
+ Sự xuất hiện những trang trại của phú nông (một bộ phận nông dân giàu có lên, họ mở rộng quy mô sản xuất và thuê những người nông dân mất hết ruộng đất vào làm trong trang trại của mình để bóc lột sức lao động làm thuê);
+ Phương thức canh tác và bóc lột trong các nông trang địa chủ cũng có sự thay đổi (sử dụng sức lao động làm thuê thay cho những người nông dân lĩnh canh)
+ Những trại ấp, đồn điền của những nhà tư bản xuất hiện (họ là những nông dân hoặc cư dân thành thị giàu có, thuê ruộng đất của các lãnh chúa phong kiến để lập trại ấp, đồn điền và thuê mướn công nhân nông nghiệp làm việc để bóc lột giá trị thặng dư. Hình thức bóc lột này là hình thức bóc lột tô tư bản.
c. Tiến trình cách mạng tư sản và sự thiết lập nhà nước tư sản
- Phong trào phục hưng, cải cách tôn giáo và sự hoàn thiện hệ tư tưởng dân chủ tư sản (thế kỷ 15, 16)
+ Phong trào phục hưng nêu cao khẩu hiệu đòi phục hồi những tư tưởng dân chủ thời kỳ cổ đại Hy Lạp, La Mã vào việc xây dựng một hệ tư tưởng mới mang tính chất dân chủ tư sản. Nội dung cơ bản của hệ tư tưởng phục hưng: đả kích giáo hội và phê phán chế độ phong kiến; xây dựng nhân sinh quan tư sản (không thừa nhận thượng đế là nơi phát nguyên vạn vật, đề cao giá trị con người và khởi xướng tự do cá nhân). Trong thời kỳ này, có các nhà khoa học xuất sắc như; Côpecnich, Brunô, Galilê…
+ Sang thế kỷ 16, phong trào phục hưng chống phong kiến và thiên chúa giáo được thể hiện rầm rộ ở khắp mọi nơi dưới hình thức cải cách tôn giáo. Các nhà cải cách đòi hỏi xóa bỏ trật tự đẳng cấp phức tạp, lễ nghi tốn kém, lối sống xa hoa và chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến của nhà thờ. Họ không thừa nhận quyền lực nhà thờ đứng trên quyền lực nhà nước, tuy nhiên, lại kêu gọi ủng hộ giáo hội vì nó là công cụ tinh thần đểru ngủ nhân dân. Nghĩa là cải cách tôn giáo để nó thích ứng với nhu cầu của giai cấp tư sản.
+ Bên cạnh đó, giai cấp tư sản dần dần xây dựng cho mình một hệ tư tưởng mới, tiến bộ, đó là hệ tư tưởng dân chủ tư sản nhằm xây dựng chính quyền dân chủ, công bằng, bình đẳng, bảo đảm quyền thuộc về nhân dân. (Giôn Lôccơ: Học thuyết về phân chia quyền lực; Vônte: Những bức thư triết học; Môngtetxkiơ: Tinh thần pháp luật; Rut-xô: Khế ước xã hội…).
- Cách mạng tư sản thắng lợi và sự ra đời của nhà nước tư sản
Khi những tiền đề về kinh tế tư sản và tư tưởng dân chủ tư sản nêu trên chín muồi thì giai cấp tư sản sẽ phát động quần chúng nhân dân làm cuộc cách mạng chính trị giành lấy chính quyền từ tay giai cấp phong kiến. Tuy nhiên, khi cách mạng vừa thắng lợi thì giai cấp tư sản hoặc liên kết với giai cấp phong kiến hoặc tự đi ngược lại tiến trình cách mạng vì lo sợ cách mạng thành công sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của chúng.
2. Đặc điểm của nhà nước tư bản trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
- Nhà nước tư sản không can thiệp vào quá trình sản xuất và trao đổi tư bản. Nó gần như đứng ngoài đời sống kinh tế, xã hội và chỉ can thiệp khi có sự lung lay của chế độ tư hữu. Do đó, nền kinh tế trong giai đoạn này đang tự điều chỉnh bởi quy luật cạnh tranh tự do và quy luật giá trị, cho nên các cá nhân tư bản hầu như có đầy đủ quyền trong việc kinh doanh và bóc lột người lao động.
- Bộ máy nhà nước không lớn, nhiều bộ phận của nó kế thừa từ trong bộ máy nhà nước phong kiến như quân đội, cảnh sát, nhà tù. Vì mục tiêu của nhà nước không phải là thủ tiêu sự bóc lột, mang lại quyền bình đẳng cho tất cả công dân mà là đưa một nhóm bóc lột này thay thế cho một nhóm bóc lột khác nên nó không cần triệt tiêu nhà nước cũ.
- Trong thời kỳ này, hình thức nhà nước phổ biến là Quân chủ Nghị viện do trong quá trình chống phong kiến, giai cấp tư sản nhiều nước còn nhiều mối quan hệ quyền lợi với giai cấp phong kiến. Chúng tìm cách thỏa hiệp với phong kiến để đi đến thiết lập nhà nước quân chủ nghị viện. Chỉ một vài quốc gia khi thực hiện cách mạng triệt để thì xây dựng nhà nước cộng hoà nghị viện (Pháp, Hoa Kỳ, Thụy Sỹ).
- Về hình thức nhà nước thì có thể khác nhau, nhưng về bản chất của tất cả các nhà nước tư sản là giống nhau. Đó là nền chuyên chính của giai cấp tư sản. Còn nhân dân lao động - những người đã từng đứng dưới ngọn cờ cách mạng tư sản, là động lực của cách mạng tư sản – lại trở thành nạn nhân, là đối tượng đàn áp, bóc lột của chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhà nước tư sản, về bản chất vẫn là một kiểu nhà nước bóc lột.


v CÁCH MẠNG TƯ SẢN VÀ NHÀ NƯỚC TƯ SẢN ANH

- Nước Anh phong kiến cát cứ được thống nhất vào thế kỷ 15 do dòng họ Stuart nắm chính quyền. Trong chính sách cai trị, nhà vua không tôn trọng Nghị viện, tăng thuế và đặt ra nhiều thứ thuế mới. Năm 1625, Saclơ I kế vị và thực hiện chính sách bóc lột nhân dân như: phát hành công trái bắt buộc, phạt vạ, bắt nộp thuế một cách nghiêm ngặt, ngoài ra, nông dân còn phải nộp thuế 1/10 cho nhà thờ Anh giáo và chịu chế độ áp bức bóc lột của lãnh chúa một cách hà khắc. Ông ta còn đàn áp một cách tàn bạo những ai chống lại giáo hội và nhà nước. Toàn thể nhân dân Anh đều mâu thuẫn và căm thù nhà nước phong kiến thối nát, tham lam và tàn bạo.
- Vào thế kỷ 16, chủ nghĩa tư bản Anh đã ra đời và phát triển mạnh mẽ trong lòng chế độ phong kiến, nhất là ở miền nam nước Anh:
+ Nghề kéo sợi, dệt len, dạ phát triển. Công xưởng thủ công mọc lên rất nhiều.
+ Chủ nghĩa tư bản Anh phát triển ngay cả trong nông nghiệp, Quý tộc Anh ở miền nam và đông nam kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, cướp đoạt ruộng đất của nông dân để trồng cỏ nuôi cừu. Họ trở thành tầng lớp quý tộc mới (quý tộc tư sản hóa) gia nhập vào hàng ngũ quý tộc Anh. Tầng lớp này đặc biệt lớn mạnh vào thế kỷ 16. Việc sử dụng đồng cỏ chăn cừu làm cho 40 vạn nông dân bị phá sản, không có ruộng đất, phải gia nhập vào đội quân vô sản đông đảo.
Thành phố Luân Đôn lúc này đã có 70 vạn dân, là thành phố lớn nhất thế giới và là trung tâm tài chính, mậu dịch của cả Châu Au. Trước khi cách mạng tư sản bùng nổ, ngoại thương Anh tăng gấp 5 lần so với trước.
Giai cấp tư sản Anh cũng đã chuẩn bị tư tưởng cho mình dưới lá cờ tôn giáo họ nêu cao “Thanh giáo” (đạo Tin lành) chống lại Anh giáo (Thiên chúa giáo). Cuộc đấu tranh tôn giáo này thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp.
Tóm lại vào những năm đầu thế kỷ 17, mâu thuẫn giữa một bên là tư sản, nông dân, thị dân, thợ thủ công với một bên là giai cấp phong kiến chuyên chế, phản động do Saclơ I cầm đầu đã rất gay gắt.
Năm 1640, cách mạng tư sản Anh bùng nổ và phát triển qua 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: từ 1640 đến 1642, là giai đoạn chuẩn bị và bùng nổ cách mạng. Năm 1639, người Scốtlen vũ trang khởi nghĩa, tràn vào miền bắc nước Anh. Để có tiền đàn áp khởi nghĩa, năm 1640, Saclơ I triệu tập Nghị viện họp đòi tăng thuế. Thành viên chủ yếu của Nghị viện là quý tộc mới và tư sản đã chống lại đề nghị của nhà vua. Saclơ I dùng vũ lực để chống lại Nghị viện. Nhân dân Luân Đôn xuống đường bảo vệ Nghị viện. Thấy thủ đô không tuân theo lệnh mình, Sắclơ I chạy lên miền bắc tập trung lực lượng tuyên chiến với Nghị viện. Cách mạng Anh đã bùng nổ dưới hình thức một cuộc nội chiến giữa quân đội của nhà vua và quân đội của Nghị viện.
+ Giai đoạn 2:
· Nội chiến lần thứ 1 (1642 – 1646)
Tháng 8/1642, nhà vua tuyên chiến với Nghị viện. Quân Nghị viện dưới sự chỉ huy của Ôlivơ Crômoen, một lãnh tụ thuộc tầng lớp quý tộc mới , với 22.000 ngàn quân lính được mệnh danh là quân sườn sắt đã đánh bại quân của nhà vua ở Nêdơbi ngày 14/6/1645, bắt sống 5.000 tù binh của Sáclơ I. Năm 1646, Saclơ I bị bắt trên đường chạy trốn. Quân đội Crômoen tiến vào Luân Đôn nắm chính quyền.
· Nội chiến lần thứ 2: (1648)
Cuối năm 1647, Saclơ I trốn thoát và chiêu mô quân đội, gây nội chiến lần 2. tháng 8 năm 1648 Saclơ I bị thất bại và bị bắt giữ lần 2. Ngày 30/01/1649, trước áp lực của nhân dân, Nghị viện Anh đưa Saclơ I lên máy chém về tội danh phản quốc và gây chiến tranh chống lại nhân dân.
Ngày 04/01/1649, Nghị viện thông qua nghị quyết, khẳng định quyền tối cao của Hạ nghị viện trong bộ máy nhà nước (nhân dân do nhân dân bầu ra, có quyền lực tối caotrong quốc gia; những gì Hạ viện tuyên bố là pháp luật thì nó có hiệu lực, dù cho các Thượng nghị sĩ, nhà vua có phản bác)
Ngày 19/5/1649, trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng, nền cộng hoà được tuyên bố chính thức thành lập. Hạ nghị viện nắm quyền lập pháp, thượng nghị viện bị giải tán. Quyền hành pháp được giao cho nội các do nghị viện bầu ra. Như vậy, ban đầu nhà nước tư sản Anh mang hình thức chính thể Cộng hòa Nghị viện, hình thức này chỉ tồn tại được trong một khoản thời gian ngắn và đây là thành công cao nhất của cuộc cách mạng tư sản Anh.
+ Giai đoạn 3: (1649 – 1688)
Sau khi cuộc nội chiến kết thúc, quần chúng nhân dân tiếp tục đấu tranh đòi chính quyền tư sản phải thực hiện lời hứa với quần chúng cách mạng. Lo sợ trước phong trào của quần chúng, giai cấp tư sản một mặt đàn áp phong trào quần chúng, một mặt sẳn sàng thủ tiêu nền cộng hoà để xây dựng một chính quyền mới.
Trong Chính quyền mới, CrômOen mang danh nhà bảo hộ và trở thành kẻ độc tài; công dân phải có thu nhập từ 200 bảng mới có đủ tư cách cử tri bầu hạ viện; chế độ hai viện được khôi phục.
Cuối cùng, năm 1688, giai cấp tư sản Anh đã lựa chọn hình thức Quân chủ Nghị viện với việc lên ngôi của Guyôm Orănggiơ, thống đốc Hà Lan, con rể vua Anh. Lấy niên hiệu là Vinhem III.
Việc lựa chọn hình thức Quân chủ Nghị viện chứng minh cuộc cách mạng Anh là cuộc cách mạng không triệt để. Hình thức nhà nước này chỉ là sự bắt tay, liên minh với phong kiến của tư bản. Cách mạng chỉ đưa giai cấp tư sản lên nắm chính quyền, còn nó vẫn duy trì phong kiến cả ở cơ cấu chính trị, xã hội và kinh tế. Giai cấp tư sản Anh dựa vào nhân dân để bước lên vũ đài chính trị, khi đã đạt được mục đích, chúng quay lại phản bội nhân dân.(phân tích và làm rõ hơn)
- Cách mạng tư sản Anh đã đưa giai cấp tư sản lên nắm chính quyền, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, sau cuộc cách mạnh chính trị này, cuối thế kỷ 18, Anh đi tiên phong trên con đường công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa với sự áp dụng khoa học kỹ thuật vào các ngành kinh tế, kỹ thuật, quân sự. Anh trở thành cường quốc tư bản số 1 và được mệnh danh là công xưởng thế giới, thay vị trí của Hà Lan. Anh vươn lên làm bá chủ mặt biển, từ đó có điều kiện đi xâm lược khắp thế giới, do đó, Anh còn là cường quốc số 1 về thuộc địa. Cách mạng tư sản Anh không chỉ kết thúc chế độ phong kiến, mở ra một thời đại mới cho nước Anh mà cón kết thúc thời kỳ trung đại, mở đầu lịch sử cận đại trên toàn thế giới.

v CÁCH MẠNG TƯ SẢN VÀ NHÀ NƯỚC TƯ SẢN MỸ

- Cristốp Côlômbô tìm ra Châu Mỹ năm 1492. Từ đó, bọn thực dân Châu Au đặt chân tới cướp bóc vàng bạc, tàn sát người da đỏ, sau đó là xâm lược và thiết lập nền thống trị ở châu lục này.
+ Từ Mêhicô trở xuống cực nam Châu Mỹ là thuộc địa của Tây Ban Nha.
+ Braxin, nước lớn nhất Nam Mỹ trở thành thuộc địa của Bồ Đào Nha.
+ Từ Mêhicô trở lên phía bắc là thuộc địa của người Anh.
- Theo chân của bọn thực dân, hàng chục triệu người dân Châu Au vì nghèo đói, vì lý do tôn giáo, chính trị lần lượt di cư tới miền đất hứa thành nhiều đợt qua nhiều thế thế kỷ. Người da đỏ, chủ nhân châu lục bị giết hại và bị dồn vào vùng rừng sâu núi thẳm.
- Công cuộc khai thác vàng bạc ở các hầm mỏ, lao động khổ sai nặng nhọc ở các đồn điền đòi hỏi những lao động khoẻ mạnh. Do đó, từ thế kỷ 16 đến 19, bọn thực dân Châu Au đưa 60 triệu người da đen ở miền nam Châu Phi đến đây làm nô lệ.
- Năm 1752, người Anh đã thiết lập 13 bang thuộc địa với chế độ phong kiến chuyên quyền kết hợp với bóc lột kiểu nô lệ để khai thác.
- Về tổ chức chính trị, thực dân Anh chia thuộc địa thành 2 loại, một số bang tự trị và một số bang chính quyền Anh đưa thống đốc tới cai trị. Cả 13 bang đều phải áp dụng pháp luật của Anh.
- Về kinh tế, xã hội công thương nghiệp tư bản thuộc địa phát triển nhưng bị chính phủ Anh tìm cách cản trở. Chính phủ Anh không cho phép kinh tế tư bản ở bắc mỹ phát triển, mà muốn biến các thuộc địa thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của chính quốc, cung cấp nguyên vật liệu, thực phẩm cho chính quốc. Cho dù nhà nước Anh cố tình kìm hãm, chế độ kinh tế tư bản thuộc địa vẫn ra đời và phát triển ngày càng lớn mạnh. Phát triển nhất là nghề đóng tàu, khai thác mỏ, luyện gang, nghề dệt vải, len, dạ…. Cùng với sự lớn mạnh về kinh tế, giai cấp tư sản Mỹ ra đời và lớn mạnh, bao gồm tư sản công thương nghiệp ở miền bắc và tầng lớp chủ đồn điền ở miền nam. Giai cấp này ngày càng lớn mạnh về kinh tế, tư tưởng, chính trị.
- Trong nông nghiệp, tuy kinh tế tư bản phát triển nhưng trong các đồn điền còn phổ biến kiểu bóc lột nông nô và nô lệ.
- Như vậy, trong xã hội bắc mỹ xuất hiện hai mâu thuẫn: mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn giữa thuộc địa với chính quốc. Nhân dân các thuộc địa, dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sảnđã nổidậy tiến hành cuộc chiến tranh để dành độc lập. Đó cũng là cuộc cách mạng tư sản, vì nó không những dành độc lập mà còn xoá bỏ những tàn tích phong kiến, dọn đường cho tư bản bắc mỹ phát triển mạnh mẽ.
Vào những năm của thập niên 70 thế kỷ 18, toàn Bắc Mỹ sôi sục bởi tem thuế phi lý của chính quyền. Tháng 12 năm 1773, nhân dân thành phố cảng Boston đã ném 343 thùng chè của Anh xuống biển. Chính phủ Anh lập tức ra lệnh phong tỏa Boston.
Giai cấp tư sản Bắc Mỹ ở các bang cử đại diện đến họp “Đại hội lục địa” ở Philadenphia. Chính phủ Anh tuyên bố tình trạng thuộc địa nổi loạn và cử 25.000 quân tới Bắc Mỹ. Năm 1775, chiến tranh giữa Anh và thuộc địa bắt đầu.
Ngày 04/7/1776, Đại hội lục địa lần thứ 2 công bố bản tuyên ngôn độc lập do Tômát Zepphecxơn và một Ủy ban 4 người khởi thảo. Tuyên ngôn khẳng định những quyền tự do tự do dân chủ tư sản, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tuyên ngôn tuyên bố nước Mỹ độc lập khỏi nước Anh.
Trong khi đại hội đang họp thì chiến tranh đã lan rộng và rất ác liệt. Ban đầu do lực lượng chênh lệch, ưu thế thuộc về phía Anh, quân cách mạng gặp nhiều khó khăn. Tổng chỉ huy quân đội cách mạng Mỹ là Gioócgiơ Oasinhtơn đã áp dụng phương pháp tác chiến du kích để tiêu hao lực lượng địch, tạo chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho quân cách mạng. Ngày 17/10/1777, quân đội Oasinhtơn đã đánh thắng quân đội Anh một trận lớn ở Saratôga. Sau trận Saratôra, các nước Châu Au thù địch với Anh như Nga, Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan đều bắt tay với Oasinhtơn để gởi quân đội, tàu chiến sang tham gia chiến đấu bên cạnh nhân dân Mỹ.
Trong một cuộc tấn công tổng lực của cả hải quân, pháo binh của quân đội Oasinhtơn ở Yooctao, 8.000 quân Anh bị hạm đội Pháp chặn đường. Bị quân đội Oasinhtơn và quân Pháp bao vây, quân Anh buộc phải đầu hàng vào ngày 19/10/1781. Thủ tướng Anh, Rôckinhham phải đàm phán với quân Mỹ ở Vecxây. Ngày 03/9/1783, Chính phủ Anh phải ký Hiệp ước thừa nhận nền độc lập của Mỹ.
Năm 1787, Mỹ ban hành bản Hiến Pháp, trong đó ghi nhận thành lập Nhà nước Hợp chủng quốc Hoa Kỳ theo thể chế Cộng hoà Tổng thống và tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước theo thuyết tam quyền phân lập. Về cơ cấu lãnh thổ, Hoa kỳ là nhà nước liên bang.

- Cuộc cách mạng tư sản Mỹ mang tính chất là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản và cách mạng giải phóng dân tộc.
+ Lực lượng có vai trò quyết định mang đến thành công là quần chúng lao động. Còn giai cấp tư sản Mỹ đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Cuộc cách mạng sản Mỹ đã lật đổ chế độ phong kiến thuộc địa Anh, đưa giai cấp tư sản Mỹ lên nắm chính quyền, thiết lập được nhà nước tư sản.
+ Cách mạng thắng lợi đã giải phóng dân tộc Mỹ khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân Anh. Bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ với việc khẳng định những quyền cơ bản, tất yếu của con người là những tư tưởng mới và cấp tiến nhất của thời đại. Những tư tưởng của tuyên ngôn độc lập và bản thân cuộc cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc ở Mỹ đã ảnh hưởng sâu rộng đến trào lưu cách mạng ở Châu Au và Nam Mỹ, thúc đẩy, cổ vũ các dân tộc đứng dậy lật đổ chế độ phong kiến, chế độ thuộc địa, giành độc lập, tự do, dân chủ.

v CUỘC CÁCH MẠNG TƯ SẢN PHÁP

Cuối thế kỷ 18, chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến pháp đã khủng hoảng trầm trọng. Quàn chúng nhân dân nổi dậy khắp nơi. Năm 1789, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản đã đứng lên tiến hành chiến tranh lật đổ chế độ phong kiến, lập nên chính quyền tư sản. Quá trình đó có thể được chia thành 3 giai đoạn.
- cách mạng bùng nổ và nền quân chủ lập hiến đại tư sản (14/7/1789 – 10/8/1792)
ngày 5/5/1789, hội nghị đại diện đẳng cấp khai mạc, dưới sự chủ toạ của nhà vua. Do mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là là đẳng cấp thứ 3 (tư sản, thị dân, nông dân) với một bên là nhà vua và 2 đẳng cấp còn lại (quý tộc, tăng lữ), ngày 17/6, các đại biểu của đẳng cấp thứ 3 tự tuyên bố thành lập hội đồng dân tộc. Ngày 9/7, hội đồng dân tộc tự tuyên bố là quốc hội lập hiến.
Ngày 14/7, cuộc khởi nghĩa vũ trang của quần chúng cách mạng nổ ra ở Pari, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến. (ngày này trở thành ngày quốc khánh của pháp). Chính quyền mới được thiết lập, đại diện cho tầng lớp đại tư sản và quý tộc tư sản hoá.
Ngày 26/8/1789, quốc hội lập hiến thông qua bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền gồm 17 điều, khẳng định những nguyên lý cơ bản của xã hội tư bản. Tuyên ngôn xóa bỏ quyền lực của vua chúa cùng chế độ đẳng cấp phong kiến, nêu ra quyền bình đẳng của con người và chủ quyền của nhân dân
Năm 1791, quốc hội lập hiến ban hành hiến pháp, xác định:
chính thể quân chủ lập hiến tư sản. Trong đó, vua giữ quyền hành pháp, quyền lập pháp thuộc về quốc hội.
Chế độ bầu cử: hiến pháp chia công dân thành 2 loại, tuỳ theo tài sản của họ. Công dân tích cực (nam giới, từ 25 tuổi trở lên, không làm thuê cho ai, có tên trong danh sách vệ quốc quân, đóng thuế trực thu ít nhất bằng 3 ngày lương) có quyền bầu cử quốc hội.
Công dân tiêu cực không có quyền bầu cử.
Quy định này đã vi phạm những nguyên tắc tự do, bình đẳng, bác ái được ghi trong tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền. (có 4,28 triệu công dân tích cực/26 triệu dân)như vậy, chính quyền tư sản đầu tiên được thiết lập ở pháp là chính quyền của tầng lớp đại tư sản với chính thể quân chủ lập hiến
- sự thiết lập chính thể cộng hoà của tầng lớp tư sản địa phương (10/8/1792 – 02/6/1793)
tầng lớp đại tư sản ngày càng tỏ ra rằng họ không muốn giải quyết các yêu cầu của quần chúng và dần dần trở thành lực lương phản động. Ngày 10/8/1792, quần chúng cách mạng lại khởi nghĩa vũ trang, lật đổ nền thống trị của đại tư sản, đưa phái girôngđanh đại diện của tư sản địa phương lên nắm chính quyền và lãnh đạo cách mạng.
Trong giai đoạn này, một sắc lệnh của lực lượng cách mạng được ban hành quy định chế độ phổ thông đầu phiếu cho tất cả nam giời từ 21 tuổi trở lên; thành lập hiệp hội dân tộc thay thế quốc hội cũ.
Ngày 20/9/1792, sau khi đánh bại liên quân Ao – phổ, hiệp hội dân tộc khai mạc, tuyên bố bãi bỏ chính thể quân chủ lập hiến, xác lập chế độ cộng hoà nghị viện.
Sau khi nắm được chính quyền, phái girôngđanh không muốn cách mạng tiến xa hơn nữa vì sợ rằng lực lượng quần chúng sẽ xâm hại đến quyền lợi và địa vị của mình. Họ trở thành tầng lớp bảo thủ và phản động.
- chính thể cộng hoà của tầng lớp tư sản lớp dưới (02/6/1793 – 27/7/1794)
đây là giai đoạn phát triển cao nhất và cũng là giai đoạn kết thúc của cách mạng tư sản pháp.
Trước chính sách phản động của phái girôngđanh, quần chúng cách mạng lại đứng lên hkởi nghĩa vũ trang. Ngày 02/6/1793, những người thuộc phái girôngđanh trong hiệp hội dân tộc bị bắt. Chính quyền nhà nước chuyển sang tay phái giacôbanh.
Phái giacôbanh ban hành sắc lệnh bãi bỏ chế độ ruộng đất phong kiên và quan hệ bóc lột phong kiến, chia ruộng đất cho nông dân. Việc làm này đã phá hủy tận gốc chế độ phong kiến, xác lập kinh tế tiểu nông, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Để tạo cơ sở pháp lý nhằm củng cố nền cộng hoà tư sản, ngày 24/6/1793, hiệp hội dân tộc đã thông qua bản hiến pháp mới, quy định:
Hình thức chính thể: cộng hòa nghị viện
Quốc hội một viện là cơ quan lập pháp
Hội đồng hành pháp (chính phủ) do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước quốc hội
Về sau, nội bộ của phái giacôbanh mâu thuẫn và chia rẽ trầm trọng. Nhiều chính sách của họ đi ngược lại yêu cầu của quần chúng cách mạng. Chính quyền giacôbanh ngày càng suy yếu. Ngày 277/1794, tầng lớp tư sản phản động cướp được chính quyền nhà nước.
Cuộc chính biến ngày 27/7/1794đã chuyển chính quyền từ phái tư sản cách mạng giacôbanh sang phái tư sản phản cách mạng. Sau khi lên nắm quyền, họ ban hành bản hiến pháp 1795.
Nội dung hiến pháp 1795:
hạn chế các quyền tự do, dân chủ,
quy định chế độ bầu cử với điều kiện tài sản rất cao;
toàn bộ quyền lực nhà nước tập trung vào Ủy ban đốc chính (gồm 5 người), vì vậy, thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ đốc chín;
quốc hội gồm 2 viện: hạ nghị viện: (hội đống 500 người) có quyền đưa ra và thảo luận dự án luật nhưng không có quyền biểu quyết thông qua; thượng nghị viện (hội đồng trưởng lão) nắm quyền biểu quyết thông qua ho8ạc bác bỏ dự luật nhưng không có quyền dự thảo điều luật.
Uy ban đốc chính do quốc hội bầu ra. Uy ban này nắm quyền cử hoặc cách chức bộ trưởng mà không cần đến quốc hội.
Hoảng sợ trước phong trào đấu tranh của nhân dân, giai cấp tư sản ủng hộ viên tướng trẻ napôlêông bônapac thực hiện cuộc chính biến, xoá bỏ chính quyền đốc chính và thiết lập chính quyền mạnh mẽ kiểu độc tài. Năm 1799 Napôlêông tự xưng là hoàng đế và ban hành bản hiến pháp mới. Napôlêông tuyên bố là đại tổng tài suốt đời, lập nên nền đế chế thứ nhất với hình thức chính thể quân chủ lập hiến.

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code