Monday, August 12, 2013

Quốc triều hình luật (Bộ Luật Hồng Đức).

Hay còn được gọi là Bộ Luật Hồng Đức hay Lê Triều Hình Luật.

Gồm các chương :

1-DANH LỆ.( 49 ĐIỀU ).
2-VỆ CẤM ( 47 ĐIỀU ).
3-VI CHẾ ( 144 ĐIỀU )
4-QUẬN CHÍNH ( 43 ĐIỀU).
5-HỘ HÔN ( 58 ĐIỀU ).
6-ĐIỀN SÀN ( 32 Đ ).
7-THÔNG GIAN ( 10 Đ).
8-ĐẠO TẶC ( 54 Đ ).
9-ĐẤU TỤNG ( 50 Đ)
10-TRÁ NGUỴ ( 38 Đ )
11-TẠP LUẬT (92 Đ )
12-BỘ VONG ( 13 Đ ).
13-ĐOÁN NGỤC ( 65 Đ )

Chia làm sáu quyển và 722 điều...


Câu hỏi này đã có nhiều bạn sinh viên hỏi tôi, đây là một câu hỏi hay, dưới đây là một vài gợi ý trả lời. Xin được chia sẻ cùng các bạn sinh viên:

Trong cuốn sách Law and Society in Seventeenth and Eighteenth Century của tác giả Insun Yu, xuất bản tại Seoul, Hàn Quốc, năm 1990 đã chỉ ra rằng: "Trong số 722 điều khoản của Bộ luật Hồng Đức, có 261 điều vay mượn hoàn toàn hoặc một phần từ Luật nhà Đường, 53 điều từ Luật nhà Minh và 1 điều từ luật khác. Còn lại 407 điều là có riêng trong Bộ luật nhà Lê." [tr.72]

Điểm tương đồng:
Có nhiều điểm tương đồng nhưng điểm tương đồng rõ nét nhất là BLHĐ và các Bộ luật Trung Quốc đều được xây dựng trên nền tảng Nho giáo, nên BLHĐ và Luật của Trung Hoa đều coi trọng chữ TRUNG và HIẾU. (Trong đạo Tam cương, ba mối quan hệ quan trọng thời bấy giờ đều có những chuẩn mực nhất định: Quân nhân - Thần trung; Phu từ - Tử hiếu; Phu nghĩa - Phụ kính)

Ví dụ 1: Đều nêu lên qui định thập ác trong đó có tới 5 tội (Mưu phản, mưu đại nghịch, mưu chống đối, đại bất kính, bất nghĩa) liên quan đến quan hệ vua - tôi, đến sự ổn định của triều đình.

Ví dụ 2: Chương Vệ cấm gồm 47 điều, trong đó có 17 điều vay mượn từ các đạo luật Trung Hoa, nhằm bảo vệ tính mạng, thân thể, uy tín và quyền sở hữu tài sản của nhà vua.

Ví dụ 3: Điều 2 có tội bất hiếu gồm tố cáo, rủa mắng ông bà cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo, nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường, có tang ông bà cha mẹ mà giấu kín...

Điểm khác biệt:
Điểm khác biệt tương đối nhiều, nhưng dưới đây là 5 điểm khác biệt cơ bản:
Thứ nhất, Bảo vệ chế độ sở hữu nhà nước, sở hữu công của làng xã, sở hữu tư nhân về ruộng đất:
Các vua đầu thời Lê đã ra lệnh tịch thu ruộng đất của quân Minh và bọn tay sai. Sau đó, dùng một phần đất để ban cấp cho quý tộc, quan lại làm lộc điền (phần nhỏ là cấp vĩnh viễn, dần trở thành ruộng tư; phần lớn chỉ cấp cho sử dụng, sau khi chết vài ba năm phải hoàn lại cho nhà nước) và một phần bổ sung vào ruộng đất công của làng để chia cho dân cày cấy theo chế độ quân điền. (Xem Điều 183, 346, 347, 350, 353, 355, 356...);

Thứ hai, Bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia:
Là một nước nhỏ, bên cạnh một đế chế hùng cường, QTHL đã đặt ra các Điều như Đ72, 73, 74, 75, 88...thể hiện sự trừng phạt thích đáng những người bán ruộng đất, binh khí, vật cấm cho nước ngoài; những kẻ giữ cửa quan không làm tròn phận sự; những sứ thần ra nước ngoài lấy của hối lộ mà tiết lộ công việc quốc gia...

Thứ ba, thể hiện chính sách trọng nông, sự quan tâm đến đời sống dân sinh, đến việc chăm sóc người già cô đơn, bệnh tật, rủi ro:
Trong Đại Việt Sử Ký Toàn thư [tr.457] có chép Vua Lê Thánh Tông đã tuyên bố "Những người có trọng trách ở một phương phải biết thể hiện theo lòng nhân của triều đình, yêu thương dân chúng..., mọi việc lợi nên làm, mọi mối họa nên tránh". Tư tưởng ấy được thể hiện ở nhiều điều luật.

Điều 181: "Nếu việc sửa đê những sông lớn không đúng hạn, việc giữ đê không vững để xảy ra vỡ đê, lũ lụt làm mất hoa màu của dân thì quan lộ và quan giám phải xử biếm hay bãi chức";

Điều 284: "Các quan ty làm việc ở ngoài nếu không biết làm việc lợi, trừ việc hại để dân phải phiêu bạt đi nơi khác thì bị tội bãi chức hay tội đồ"

Điều 294: "Trong kinh thành hay phường, ngõ và làng xóm có kẻ đau ốm mà không ai nuôi nấng, nằm ở đường xá, cầu, điếm, chùa, quán thì xã quan ở đó phải dựng lều lên để săn sóc và cho họ cơm cháo thuốc men, cốt sao cứu cho họ sống, không được bỏ mặc cho họ rên rỉ khốn khổ. Nếu không may mà họ chết thì phải chôn cất, không để được phơi lộ thi hài; nếu trái lệnh thì quan xã phải chịu biếm chức hay bã
i chức".

Có nhiều qui định bênh vực những người nghèo khổ. Ví dụ: Phạt người quyền quí ức hiếp, nhũng nhiễu dân đinh (Điều 300, Điều 302); Bảo vệ người dân cô quả, tàn tật, trẻ mồ côi (Đ294, 295); Chống nạn nô tỳ hóa (Đ365, 291);
Chính sách trọng nông, an dân. VD: Trừng phạt phá hoại đê (Đ596); phá hoại cây cối, hoa mầu (Đ601); Tự tiện giết trâu ngựa (Đ580); Thả trâu phá hoại hoa màu (Đ.581)

Thứ tư, Bảo vệ quyền lợi người phụ nữ:
Người phụ nữ có quyền bỏ chồng, có quyền ngang với nam giới trong việc hưởng thừa kế, có quyền quản lý tài sản khi chồng mất, có quyền thừa kế ruộng đất hương hỏa. Đây là những đặc quyền của phụ nữ Việt Nam thời phong kiến, không tìm thấy trong pháp luật Trung Hoa.
Có hai trường hợp người vợ được quyền bỏ chồng:

Điều 308: "Người vợ có quyền trình với quan sở tại và được quan sở tại chứng thực để xin bỏ chồng, nếu chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại";

Điều 333: "Con rể nếu lấy chuyện phi lý mắc nhiếc bố mẹ vợ thì người vợ có quyền bỏ chồng"

Người phụ nữ được thừa kế đất hương hỏa:
Điều 388 và 391: "Nếu cha mẹ mất cả thì lấy 1/20 ruộng đất làm ruộng hương hỏa, còn lại chia đều cho các con không phân biệt trai, gái. Trường hợp người giữ hương hỏa không có con trai thì con gái được giao ruộng hương hỏa để thờ cúng tổ tiên".

Thứ năm, bảo vệ phong tục tập quán, những di tích văn hóa:
Khi quân Minh sang xâm lược, chính sách của chúng là một chữ không để sót và đập nát các bia không trừ một cái nào. Sau khi giành độc lập nhà Lê đã rất chú trọng bảo vệ những di tích văn hóa, nơi thờ tự.Ví dụ: Điều 178, 432, 599, 600...).

Bộ Luật Hồng Đức ra đời cũng không phủ nhận hoặc thay thế hoàn toàn những phong tục, tập quán của các dân tộc. VD: Điều 40. Nhiều vấn đề, Bộ luật đã để cho tập quán điều chỉnh, ví dụ Bộ luật không qui định độ tuổi kết hôn, không qui định trách nhiệm của học trò phải để tang thầy giáo, nhưng thực tế tập quán ở nhiều nơi, học trò cũng để tang thầy giáo để tỏ lòng thành kính, tôn sư trọng đạo.

Tóm lại, Bộ luật Hồng Đức đã phản ánh rõ nét giá trị tích cực của Nho giáo, nói chính xác đó chính là Nho giáo đã được tiếp biến, tương tác, chia sẻ, thâu hóa để biến đổi trở thành Nho giáo Việt Nam. Chắc chắn, những tác động tích cực như giúp con người sống hòa thuận, hiếu nghĩa, có trước sau, có trên dưới, coi trọng việc học suốt đời, coi việc học để tự tu tự tỉnh, rèn luyện liêm sỉ, biết xấu hổ và tiết độ dục vọng... sẽ mãi là những giá trị bất diệt của Nho giáo Việt Nam.

TS. Nguyễn Minh Tuấn

 BÀI TẬP VỀ LUẬT HỒNG ĐỨC

Cho tình huống sau:
Vợ chồng Ông A và Bà B có 2 mẫu ruộng (7200 m2 đất). Họ có 3 người con trai A1, A2, A3 và một người con nuôi là X. A1 có con gái, A2 có một con trai và một con gái. A3 và X chưa có con. Ông A có 2 vợ lẽ là bà C và bà D. Ông A và Bà C có một người con gái là A4.

Câu hỏi :

a. Anh/chị hãy chia thừa kế theo pháp luật căn cứ vào các qui định của Bộ luật Hồng Đức trong trường hợp :
+ Trường hợp 1: Ông A chết, A1 chết trước ông A. (3 điểm)
+ Trường hợp 2: Cả ông A và Bà B chết cùng một thời điểm (2 điểm)

b. Ruộng đất hương hỏa được sử dụng vào mục đích gì theo qui định của Bộ luật Hồng Đức? Ai sẽ là người được thừa kế ruộng đất hương hỏa ? Giải thích tại sao ? (2 điểm)

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI:

Nguyên tắc phân chia:

1. Những tài sản do vợ, chồng cùng làm ra thì chia đôi. Vợ, chồng không phải là người thừa kế của nhau vì vậy người còn sống sẽ nhận một phần, phần của người chết sẽ chia thừa kế.

2. Trước khi chia thừa kế phải dành 1/20 điền sản làm đất hương hỏa, phần còn lại mới chia theo nguyên tắc:
- Hàng thừa kế thứ nhất: các con (hoặc cháu). Theo đó, con trai = con gái = vợ lẽ; Con vợ lẽ = con nàng hầu = con nuôi = 1/2 con đẻ.
- Hàng thừa kế thứ hai: bố mẹ, hoặc vợ, chồng

3. Điều 374 có nói đến thừa kế thế vị, con cháu sẽ là người thế vị cha mẹ nhận di sản của ông bà.

Phân chia:

Trường hợp 1: Ông A chết, A1 chết trước ông A. (3 điểm)
Tài sản chia thừa kế của Ông A = 7200m2/2 = 3.600m2 đất
Đất hương hỏa = 3.600m2 x 1/20 = 180m2 đất
Còn lại là 3.600m2 - 180m2 = 3420m2
Vậy,
A1 = A2 = A3 = C = D = 570m2 đất
A4 = X = 285m2 đất
Vì A1 chết trước nên con của A1 sẽ được hưởng tài sản của ông.

Trường hợp 2: Ông A và Bà B chết cùng một thời điểm.
Tài sản chia thừa kế là: 7.200m2 đất; trong đó phần ông A là 3.600m2 và bà B là 3600m2
Đất hương hỏa = 7.200m2/20 = 360m2 đất
Phần đất của ông A chia như sau:
A1 = A2 = A3 = C = D = 570m2 đất
A4 = X = 285m2 đất
Phần đất của bà B chia như sau:
A1 = A2 = A3 = 977,14m2 đất
X = 488,57m2 đất
Tóm lại:
A1 = A2 = A3 = 1547,14m2 đất
C= D = 570m2 đất
X = 773,57m2 đất
A4 = 285m2 đất

b. Ruộng đất hương hỏa được sử dụng vào mục đích gì theo qui định của Bộ luật Hồng Đức? Ai sẽ là người được thừa kế ruộng đất hương hỏa ? Giải thích tại sao ? (2 điểm)

- Theo qui định của Bộ luật Hồng Đức ruộng đất hương hỏa gồm 1/20 điền sản được sử dụng để lo phần mộ cho người chết và họ hàng. Phần còn lại, người giữ hương hỏa được sử dụng cho bản thân.
Đất hương hỏa không được phép mua bán. Người ngoài họ không biết mà mua sẽ được phép lấy lại tiền và trả điền sản cho dòng họ có điền sản.

- Về nguyên tắc chung, đất hương hỏa bao giờ cũng chỉ giao cho con cháu người vợ cả, người thừa kế ruộng đất hương hỏa là con trai trưởng, không có con trai trưởng thì giao cho con trai thứ, khi không có con trai thứ thì trao cho con gái. Khi người con trai trưởng chết được giao cho cháu trai trưởng và tiếp tục đến đời sau.

- Việc thờ cúng là thể hiện lòng thành kính của con cháu đối với ông, bà, cha, mẹ. Là thể hiện đạo hiếu của con cháu với ông bà, cha mẹ.

Th.S Nguyễn Minh Tuấn

 Luật Hồng Đức là tên gọi thông dụng của bộ Quốc triều hình luật thời Lê sơ hiện còn được lưu giữ đầy đủ. Do các bộ luật của các triều đại phong kiến Việt Nam đều có tên gọi là Quốc triều hình luật nên ở đây dùng tên gọi Luật Hồng Đức làm tên gọi cho bài mặc dù nó không phải là tên gọi chính thức.

Nó có thể coi là bộ luật tổng hợp bao gồm nhiều quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau: Luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân-gia đình, luật hành chính v.v…

Lịch sử
Văn bản của bộ luật này là một trong những thư tịch cổ nhất hiện còn được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán-Nôm (Hà Nội). Tại đây có hai bản in ván khắc đều có tên là Quốc triều hình luật. Ngoài ra còn có một bộ sách chép tay tuy có tên gọi là Lê triều hình luật, nhưng nội dung của nó lại là bản sao lại của Quốc triều hình luật (nhà Hậu Lê) và chép vào thời gian sau này.

Trong đó bản Quốc triều hình luật mang ký hiệu A.341 là bản in ván khắc hoàn chỉnh hơn cả và được coi là văn bản có giá trị nhất. Bộ luật trong sách này gồm 6 quyển, in ván khắc trên giấy bản, tổng cộng gồm 129 tờ đóng chung thành một cuốn. Sách không ghi tên tác giả, không có dấu hiệu niên đại soạn thảo hay niên đại in ấn và cũng không có lời tựa hoặc các chú dẫn khác. Bìa nguyên bản cuốn sách đã mất, được thay thế bằng một tờ bìa viết 4 chữ Hán là Quốc triều hình luật bằng bút lông. Nội dung của bộ luật này đã được Phan Huy Chú ghi chép lại trong phần Hình luật chí của Lịch triều hiến chương loại chí, nhưng thiếu so với cuốn sách này 143 điều trong tổng số 722 điều.

Từ đầu thế kỷ 20, Quốc triều hình luật đã được khảo dịch sang tiếng Pháp. Đến năm 1956, nó mới được dịch sang quốc ngữ lần đầu tiên (bản dịch của trường luật khoa đại học do Lương Thần Cao Nãi Quang phiên âm, và dịch nghĩa, Nguyễn Sĩ Giác hiệu đính, Vũ Văn Mẫu viết lời tựa, nhà in Nguyễn Văn Của, Sài Gòn, 1956). Gần đây, Viện Sử học Việt Nam đã dịch thuật lại cho chuẩn xác hơn. (Nhà xuất bản Pháp lý, Hà Nội - 1991).
Một số học giả Pháp, khi khảo dịch và nghiên cứu cho rằng nó có tên là Lê triều hình luật và nó là Lê triều điều luật được in năm 1777 (Cảnh Hưng thứ 3Cool mà Phan Huy Chú đã ghi lại trong Lịch triều hiến chương loại chí sau khi họ nghiên cứu thiên Hình luật chí trong cuốn sách này của ông cũng như bản chép tay của Quốc triều hình luật. Theo Vũ Văn Mẫu, Quốc triều hình luật được ban bố lần đầu tiên trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) và có lẽ vào thời gian cuối của niên hiệu này. Ý kiến của Vũ Văn Mẫu chủ yếu dựa vào ý kiến của Phan Huy Chú viết về việc ban hành dưới thời Lê bộ Hồng Đức hình luật và lời đề tựa của vua Gia Long triều Nguyễn cho bộ Hoàng Việt luật lệ, trong đó ông đánh giá rất cao bộ luật cổ này và gọi nó là bộ luật Hồng Đức.

Các ý kiến khác cho rằng bộ Quốc triều hình luật đã được soạn, sửa đổi liên tục từ đầu thời kỳ nhà Hậu Lê, trong đó có những đóng góp to lớn dưới thời Lê Thánh Tông. Các ý kiến này chủ yếu dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư với ghi chép là năm Thái Hòa thứ 7 (1449), vua Lê Nhân Tông đã bổ sung thêm vào bộ hình luật chương điền sản gồm 14 điều. Ngoài ra, qua các sử sách khác và qua các lần in khắc ván (với những điểm khác nhau về nội dung của các văn bản), các bổ sung và tên gọi các đơn vị hành chính ghi trong bộ luật v.v có thể nhận thấy bộ luật này được soạn thảo, bổ sung, hiệu đính qua nhiều đời vua triều Lê. Thời điểm khởi thảo, ban hành lần đầu cho đến nay vẫn chưa rõ.

Bố cục
Quốc triều hình luật trong cuốn sách A.341 có 13 chương, ghi chép trong 6 quyển (5 quyển có 2 chương/quyển và 1 quyển có 3 chương), gồm 722 điều. Ngoài ra, trước khi đi vào các chương và điều thì Quốc triều hình luật còn có các đồ biểu quy định về các hạng để tang và tang phục, kích thước và các hình cụ (roi, trượng, gông, dây sắt v.v).
Bố trí cụ thể như sau:

  • 1. Chương Danh lệ: 49 điều quy định về những vấn đề cơ bản có tính chất chi phối nội dung các chương điều khác (quy định về thập ác, ngũ hình, bát nghị, chuộc tội bằng tiền v.v)
  • 2. Chương Vệ cấm: 47 điều quy định về việc bảo vệ cung cấm, kinh thành và các tội về cấm vệ.
  • 3. Chương Vi chế: 144 điều quy định về hình phạt cho các hành vi sai trái của quan lại, các tội về chức vụ.
  • 4. Chương Quân chính: 43 điều quy định về sự trừng phạt các hành vi sai trái của tướng, sĩ, các tội quân sự.
  • 5. Chương Hộ hôn: 58 điều quy định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân-gia đình và các tội phạm trong các lĩnh vực này.
  • 6. Chương Điền sản: 59 điều, trong đó 32 điều ban đầu và 27 điều bổ sung sau (14 điều về điền sản mới tăng thêm, 4 điều về luật hương hỏa, 9 điều về châm chước bổ sung luật hương hỏa) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và các tội phạm trong lĩnh vực này.
  • 7. Chương Thông gian: 10 điều quy định về các tội phạm tình dục.
  • 8. Chương Đạo tặc: 54 điều quy định về các tội trộm cướp, giết người và một số tội chính trị như phản nước hại vua.
  • 9. Chương Đấu tụng: 50 điều quy định về các nhóm tội đánh nhau (ẩu đả) và các tội vu cáo, lăng mạ v.v
  • 10. Chương Trá ngụy: 38 điều quy định các tội giả mạo, lừa dối.
  • 11. Chương Tạp luật: 92 điều quy định về các tội không thuộc các nhóm tội danh trên đây.
  • 12. Chương Bộ vong: 13 điều quy định về việc bắt tội phạm chạy trốn và các tội thuộc lĩnh vực này.
  • 13. Chương Đoán ngục: 65 điều quy định về việc xử án, giam giữ can phạm và các tội phạm trong lĩnh vực này.


Hai chương cuối này đã có một số quy định về tố tụng, nhưng chưa hoàn chỉnh.[/list:u:1pxl2r2c]

Các quy định dân sựTrong bộ luật Hồng Đức, các quan hệ dân sự được đề cập tới nhiều nhất là các lĩnh vực như: quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng và thừa kế ruộng đất.

Sở hữu và hợp đồng
QTHL đã phản ánh hai chế độ sở hữu ruộng đất trong thời kỳ phong kiến là: sở hữu nhà nước (ruộng công) và sở hữu tư nhân (ruộng tư).
Trong bộ luật Hồng Đức, do đã có chế độ lộc điền-công điền tương đối toàn diện về vấn đề ruộng đất công nên trong bộ luật này quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất chỉ được thể hiện thành các chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm chế độ sử dụng ruộng đất công như: không được bán ruộng đất công (điều 342), không được chiếm ruộng đất công quá hạn mức (điều 343), không được nhận bậy ruộng đất công đã giao cho người khác (điều 344), cấm làm sai quy định phân cấp ruộng đất công (điều 347), không để bỏ hoang ruộng đất công (điều 350), cấm biến ruộng đất công thành tư (điều 353), không được ẩn lậu để trốn thuế (điều 345) v.v
Bên cạnh đó việc bảo hộ quyền sở hữu tư nhân/ hợp đồng về ruộng đất tư cũng được quy định rõ ràng. Chẳng hạn, cấm xâm lấn ruộng đất của người khác (điều 357), cấm tá điền tranh ruộng đất của chủ (điều 356), cấm ức hiếp để mua ruộng đất của người khác (điều 355) v.v

Qua một số quy định trên, có thể thấy bộ luật đã điều chỉnh 3 loại hợp đồng về ruộng đất:
  • Mua bán ruộng đất
  • Cầm cố ruộng đất
  • Thuê mướn ruộng đất


Về hình thức, các hợp đồng thường phải lập thành văn tự giữa các bên tham gia hợp đồng với sự chứng thực của quan viên có thẩm quyền.

Thừa kế
Trong lĩnh vực thừa kế, quan điểm của các nhà làm luật thời Lê khá gần gũi với các quan điểm hiện đại về thừa kế. Cụ thể: Khi cha mẹ còn sống, không phát sinh các quan hệ về thừa kế nhằm bảo vệ và duy trì sự trường tồn của gia đình, dòng họ. Thứ hai là các quan hệ thừa kế theo di chúc (các điều 354, 388) và thừa kế không di chúc (thừa kế theo luật) với các điều 374-377, 380, 388. Điều đáng chú ý là bộ luật Hồng Đức cho người con gái có quyền thừa kế ngang bằng với người con trai là một điểm tiến bộ không thể thấy ở các bộ luật phong kiến khác. Đây chính là điểm nổi bật nhất của luật pháp triều Lê.

Các quy định hình sự
Các nguyên tắc chủ đạo
Hình luật là nội dung trọng yếu và có tính chất chủ đạo, bao trùm toàn bộ nội dung của bộ luật. Các nguyên tắc hình sự chủ yếu của nó là:
  • Vô luật bất thành hình (điều 642, 683, 685, 708, 722): trong đó quy định chỉ khép tội khi trong
  • bộ luật có quy định, không thêm bớt tội danh, áp dụng đúng hình phạt đã quy định và nó là tương tự như trong các bộ luật hình sự hiện đại.
  • Chiếu cố (điều 1, 3-5, 8, 10, 16, 17, 680): trong đó quy định các chiếu cố đối với địa vị xã hội, tuổi tác (trẻ em và người già cả), tàn tật, phụ nữ v.v
  • Chuộc tội bằng tiền (điều 6, 16, 21, 22, 24): đối với các tội danh như trượng, biếm, đồ, khao đinh, tang thất phụ, lưu, tử, thích chữ. Tuy nhiên các tội thập ác (mười tội cực kỳ nguy hiểm cho chính quyền) và tội đánh roi (có tính chất răn đe, giáo dục) không cho chuộc.
  • Trách nhiệm hình sự (điều 16, 35, 38, 411, 412): trong đó đề cập tới quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và việc chịu trách nhiệm hình sự thay cho người khác.
  • Miễn, giảm trách nhiệm hình sự (điều 18, 19, 450, 499, 553): trong đó quy định về miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong các trường hợp như tự vệ chính đáng, tình trạng khẩn cấp, tình trạng bất khả kháng, thi hành mệnh lệnh, tự thú (trừ thập ác, giết người).
  • Thưởng người tố giác, trừng phạt người che giấu (điều 25, 39, 411, 504)


Tội phạm
  • Phân loại theo hình phạt (ngũ hình và các hình phạt khác)
  • Theo sự vô ý hay cố ý phạm tội
  • Theo âm mưu phạm tội và hành vi phạm tội
  • Tính chất đồng phạm



Các nhóm tội cụ thể
Thập ác: Là 10 trọng tội nguy hiểm nhất như:
  • Các tội liên quan đến vương quyền: mưu phản, mưu đại nghịch (điều 2, 411), mưu bạn (phản bội tổ quốc-điều 412), đại bất kính (430, 431).
  • Các tội liên quan đến quan hệ hôn nhân-gia đình: ác nghịch (điều 416), bất hiếu (nhiều điều, chẳng hạn điều 475), bất mục, bất nghĩa, nội loạn.
  • Tội liên quan đến tiêu chí đạo đức hàng đầu của Nho giáo: bất đạo (420 và 421).
  • Các nhóm tội phạm khác: bao gồm các tội liên quan đến sự an toàn thân thể của vua, nghi lễ cung đình, xâm phạm trật tự công cộng, quản lý hành chính, thể thức nghi lễ triều đình, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm con người, các tội xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, các tội phạm quân sự, xâm phạm chế độ sở hữu ruộng đất, xâm phạm chế độ hôn nhân-gia đình, các tội tình dục, các tội xâm phạm chế độ tư pháp v.v



Hình phạt
Quan niệm về hình phạt trong bộ luật khá chi tiết nhưng cứng nhắc với khung hình phạt thường là cố định, tuy rằng có tính đến các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ (điều 41).
Các hình phạt cụ thể có ngũ hình và các hình phạt khác.

Ngũ hình
Ngũ hình được quy định tại điều 1 và bao gồm: xuy, trượng, đồ, lưu, tử.
  • Xuy (đánh bằng roi) có 5 bậc: 10, 20, 30, 40, 50 roi, có thể kèm phạt tiền và biếm chức, áp dụng cả cho nam và nữ.
  • Trượng (đánh bằng gậy) cũng có 5 bậc: 60, 70, 80, 90 và 100 trượng, chỉ áp dụng cho nam.


Đồ có 3 bậc là:
- Dịch đinh kèm 80 trượng cho nam và dịch phụ kèm 50 roi cho nữ. Dịch đinh/dịch phụ có nhiều hạng là:
  • Thuộc đinh: phục dịch ở các viện (dành cho quan chức có tội)
  • Quân đinh: phục dịch ở các sảnh
  • Khao đinh: phục dịch ở trong trại lính
  • Xã đinh: phục dịch ở các xã (dành cho thường dân nam có tội)
  • Thứ phụ: phục dịch công việc ở làng (dành cho thường dân nữ có tội)
  • Viên phụ: làm các công việc trong vườn (dành cho vợ các quan chức)
  • Tang thất phụ: phục dịch ở các nơi nuôi tằm, nếu phạm tội nặng


- Tượng phường binh (quét dọn chuồng voi kèm 80 trượng và thích 2 chữ vào mặt) cho nam và xuy thất tỳ (nấu cơm nuôi quân kèm 50 roi và thích 2 chữ vào cổ) cho nữ.
- Chủng điền binh (lính lao động ở đồn điền của nhà nước kèm 80 trượng và thích vào cổ 4 chữ, phải đeo xiềng) cho nam và thung thất tỳ (xay thóc giã gạo trong các kho thóc thuế của nhà nước kèm 50 roi và thích vào cổ 4 chữ) cho nữ.
- Lưu tức lưu đày đi nơi xa, có 3 bậc là:
  • Lưu cận châu, đày đi làm việc nặng ở Nghệ An với hình phạt phụ là thích vào mặt 6 chữ, đánh 90 trượng, đeo xiềng dành cho nam và đánh 50 roi cho nữ.
  • Lưu ngoại châu: Lưu đày đến Bố Chánh, Quảng Bình. Phụ hình có 90 trượng, thích 8 chữ vào mặt, đeo xiềng 2 vòng dành cho nam và đánh 50 roi cho nữ.
  • Lưu viễn châu: đày đi Cao Bằng. Phụ hình gồm 100 trượng, thích 10 chữ vào mặt, đeo xiềng 3 vòng cho nam, đánh 50 roi cho nữ.


- Tử (giết chết) có 3 bậc là:
  • Giảo (thắt cổ), trảm (chém đầu)
  • Khiêu (chém bêu đầu)
  • Lăng trì (tùng xẻo) tức xẻo từng miếng thịt rồi mổ bụng, moi ruột cho đến chết, sau đó còn bị cắt rời chân tay và bẻ gãy hết xương.


Các hình phạt khác
- Ngoài ngũ hình, luật Hồng Đức còn áp dụng các hình phạt khác như:
  • Biếm tư (điều 27, 46) bao gồm các bậc từ 1 đến 5 tư nhưng có quy định cho chuộc tội biếm bằng tiền theo điều 22.
  • Phạt tiền (điều 26) có 3 bậc: 300-500 quan, 60-200 quan và 5-50 quan. Ngoài ra còn có quy định về tiền bồi thường tang vật (điều 2Cool, tiền đền mạng (điều 29).
  • Tịch thu tài sản có 2 bậc là tịch thu toàn bộ gia sản (nặng theo điều 426, 430) và tịch thu một phần tài sản (nhẹ, các điều 88, 523)
  • Thích chữ vào cổ hoặc mặt: Được áp dụng như là hình phạt phụ đối với các tội lưu, đồ, trượng, xuy.
  • Xung vợ con làm nô tỳ. Chỉ áp dụng đối với các tội mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn trong thập ác (điều 411, 412).


Các quy định trong hôn nhân-gia đình
Các nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực hôn nhân của bộ luật là: hôn nhân không tự do, đa thê và xác lập chế độ gia đình gia trưởng. Nó thể hiện lễ nghĩa Nho giáo, trật tự xã hội-gia đình phong kiến, tuy nhiên vẫn có một số điểm tiến bộ.

Hôn nhân
Trong lĩnh vực hôn nhân, bộ luật đã điều chỉnh các quan hệ như kết hôn, chấm dứt hôn nhân (do chết hoặc ly hôn).
Kết hôn
Trong quan hệ kết hôn, luật quy định các điều kiện để có thể kết hôn là: có sự đồng ý của cha mẹ (điều 314), không được kết hôn giữa những người trong họ hàng thân thích (điều 319), cấm kết hôn khi đang có tang cha, mẹ hay chồng (điều 317), cấm kết hôn khi ông, bà, cha hay mẹ đang bị giam cầm, tù tội (điều 318), cấm anh (em) lấy vợ góa của em (anh), trò lấy vợ góa của thày (điều 324), với một số quy định khác trong các điều 316, 323, 334, 338, 339.

Tuy nhiên, luật Hồng Đức không quy định tuổi kết hôn, mặc dù trong Thiên Nam dư hạ tập (phần lệ Hồng Đức hôn giá) có viết: “Con trai 18 tuổi, con gái 16 tuổi mới có thể thành hôn”, có lẽ là do đã tồn tại một văn bản khác cùng thời quy định về điều này.

Luật Hồng Đức cũng quy định về hình thức và thủ tục kết hôn như đính hôn và thành hôn (các điều 314, 315, 322). Lưu ý là luật Hồng Đức cho thấy cuộc hôn nhân có giá trị pháp lý từ sau lễ đính hôn. Ví dụ điều 315 quy định: Gả con gái đã nhận đồ sính lễ mà lại thôi không gả nữa thì phải phạt 80 trượng…Còn người con gái phải gả cho người hỏi trước. Tuy nhiên, nếu trong thời gian từ lễ đính hôn cho đến khi thành hôn mà một trong hai bên bị ác tật hay phạm tội thì bên kia có quyền từ hôn.

Chấm dứt hôn nhân
Luật Hồng Đức quy định các trường hợp chấm dứt hôn nhân là: một trong người đã chết, ly hôn.
Về trường hợp chấm dứt hôn nhân do một trong hai người đã chết cần lưu ý là quan hệ hôn nhân chỉ thực sự chấm dứt ngay nếu người chết là vợ, còn nếu là chồng chết thì nó chỉ chấm dứt sau khi mãn tang. Quy định này được đặt ra một cách gián tiếp trong các điều 2 và 320.

Về trường hợp ly hôn có ba nhóm sau:
1. Buộc phải ly hôn (các điều 317, 318, 323, 324, 334) do hôn nhân đã vi phạm các quy định cấm kết hôn.
2. Ly hôn do lỗi của người vợ: Điều 310 quy định người chồng phải ly hôn khi người vợ phạm phải điều nghĩa tuyệt (đoạn tuyệt hết ân nghĩa vợ chồng) như: không con, ghen tuông, ác tật (mắc các bệnh như phong, hủi), dâm đãng, không kính cha mẹ, lắm lời, trộm cắp.
3. Ly hôn do lỗi của người chồng: Các điều 308 / 333 quy định người vợ có quyền trình quan xin ly hôn khi: chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (có quan xã làm chứng), trừ khi chồng có việc phải đi xa hay nếu con rể lấy điều thị phi mắng nhiếc cha mẹ vợ.

Quan hệ gia đình
Trong lĩnh vực quan hệ gia đình, bộ luật đã điều chỉnh các quan hệ như quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các thân thuộc khác (vợ cả-vợ lẽ, anh-chị-em, cha mẹ-con nuôi, vai trò của người tôn trưởng tức trưởng họ).
Quan hệ vợ-chồng: Phong tục tập quán và lễ nghĩa Nho giáo đã điều chỉnh quan hệ vợ-chồng, tuy nhiên luật Hồng Đức cũng có các quy định nhằm điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ nhân thân như: Nghĩa vụ phải chung sống tại một nơi và phải có trách nhiệm với nhau (các điều 321 và 308, 309), không được ngược đãi vợ (điều 482), nghĩa vụ chung thủy (điều 401, 405), nghĩa vụ để tang nhau (các điều 2, 7).
Quan hệ cha mẹ-con cái: Đề cập tới các nghĩa vụ và quyền nhân thân của con cái, bao gồm: nghĩa vụ phải vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà (khoản 7 điều 2), nghĩa vụ chịu tội roi, trượng thay cho ông bà, cha mẹ (điều 3Cool, nghĩa vụ không được kiện cáo ông bà-cha mẹ (điều 511), nghĩa vụ che dấu tội cho ông bà, cha mẹ (các điều 9, 504), ngoại trừ trường hợp cha mẹ hay ông bà phạm các tội mưu phản, mưu đại nghịch, cha mẹ nuôi giết con đẻ hay mẹ đẻ-mẹ kế giết cha thì được phép tố cáo và nghĩa vụ để tang ông bà-cha mẹ (điều 2).
Quan hệ nhân thân khác: Đề cập tới quan hệ giữa vợ cả-vợ lẽ (các điều 309, 481, 483, 484) và nhà chồng, anh-chị-em (các điều 487, 512), nuôi con nuôi (các điều 380, 381, 506) và vai trò của người trưởng họ (điều 35).
Trong quan hệ vợ cả-vợ lẽ thì ngoài các quy định về các nghĩa vụ của họ với chồng và nhà chồng thì họ cũng phải tuân thủ trật tự thê thiếp và vợ cả nói chung được ưu tiên hơn. Về quan hệ anh-chị-em thì người anh trưởng có quyền và nghĩa vụ đối với các em, nhất là khi cha mẹ đã chết, đồng thời cũng bảo vệ sự hòa thuận trong gia đình (phạt nặng đánh lộn, kiện cáo nhau). Việc nhận nuôi con nuôi phải được lập thành văn bản và phải đối xử như con đẻ cũng như ngược lại, con nuôi phải có nghĩa vụ như con đẻ đối với cha mẹ nuôi.

Các quy định tố tụng
Mặc dù không được tách bạch ra thành các chương riêng rẽ, nhưng luật Hồng Đức đã thể hiện một số khái niệm của luật tố tụng hiện đại như:
  • Thẩm quyền và trình tự tố tụng của các cấp chính quyền (điều 672)
  • Thủ tục tố tụng (phần lớn của hai chương cuối) như đơn kiện- đơn tố cáo (các điều 508, 513, 698), thủ tục tra khảo (các điều 546, 660, 665, 667, 668, 714, 716), thủ tục xử án (các điều 671, 709), phương pháp xử án (các điều 670, 683, 686, 708, 714, 720, 722), thủ tục bắt người (các điều 646, 658, 659, 663, 676, 680, 701-704).



SO SÁNH
Giống như các bộ luật phong kiến khác, luật Hồng Đức thể hiện rõ bản chất giai cấp của nó. Mục tiêu hàng đầu của nó là để bảo vệ vương quyền, địa vị và quyền lợi của giai cấp phong kiến, củng cố trật tự xã hội và gia đình gia trưởng phong kiến. Nó là sự pháp điển hóa tư tưởng chính trị và đạo đức Nho giáo. Tuy vậy, không thể phủ nhận các điểm đặc sắc và tiến bộ của nó.

Luật Trung Hoa
Luật Hồng Đức tiếp thụ nhiều thành tựu lập pháp của Trung Hoa, chịu ảnh hưởng của cả luật pháp nhà Đường và nhà Minh. Tuy vậy, nó có những điểm không giống với các bộ luật của nhà nước phong kiến Trung Quốc cả về nội dung lẫn bố cục.
Về bố cục, bộ Đường luật có 500 điều chia thành 12 chương (Danh lệ, Vệ cấm, Chức chế, Hộ hôn, Khai khố, Thiện hưng, Đạo tặc, Đấu tụng, Trá ngụy, Tạp luật, Bộ vong, Đoán ngục) trong 30 quyển. Có thể thấy, trong luật Hồng Đức các quy định về các nhóm tội tình dục và các vấn đề ruộng đất được quy định riêng biệt và cụ thể hơn.
Về nội dung, các quy định về hôn nhân-gia đình, điền sản của luật Hồng Đức được chú trọng hơn so với Đường luật (quy định cụ thể về văn tự, chúc thư, chế độ và phương thức chia thừa kế, tài sản của vợ-chồng khi góa bụa v.v). Chính vì thế, sau này các tòa án thời Pháp thuộc hay Tòa thượng thẩm Sài Gòn thời Việt Nam Cộng hòa hay dựa trên các quy định này của luật Hồng Đức để phân xử các vụ kiện tụng liên quan tới tài sản vợ-chồng.

Bộ luật nhà Nguyễn
So với bộ Hoàng Việt luật lệ (HVLL hay luật Gia Long) (năm 1811) ra đời sau hàng thế kỷ, có thể thấy luật Hồng Đức chưa có tính khái quát hóa cao và phân ngành rõ như HVLL. Tuy nhiên, sự bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong luật Hồng Đức lại tốt hơn so với HVLL. Như giáo sư Vũ Văn Mẫu đã viết khi nhận xét về HVLL “bao nhiêu những sự tân kỳ mới lạ
trong bộ luật triều Lê đã không còn lưu lại một chút dấu tích nào trong luật nhà Nguyễn. Không còn những điều khoản liên quan đến hương hỏa, đến chúc thư, đến các điều kiện về giá thú, đến chế độ tài sản của vợ chồng.” (Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử, quyển 1, tập 1, Sài Gòn, 1973).

Các điểm tiến bộ
1. Điểm tiến bộ trong luật Hồng Đức là nó cho thấy vai trò của người phụ nữ đã được đề cao hơn rất nhiều so với các bộ luật đương thời trong khu vực. Nó cho thấy người vợ có quyền quản lý tài sản của gia đình (khi chồng chết) và họ có quyền thừa kế như nam giới.

2. Điểm thứ hai, là hình phạt cho phạm nhân nữ bao giờ cũng thấp hơn so với phạm nhân nam.

3. Điểm thứ ba, nó thể hiện chính sách trọng nông của triều Lê. Bộ luật trừng phạt rất nặng các tội như phá hoại đê điều (điều 596), chặt phá cây cối và lúa má của người khác (điều 601), tự tiện giết trâu ngựa (điều 580) v.v

4. Điểm thứ tư, luật Hồng Đức thể hiện sự quan tâm và bảo vệ dân thường. Trong bộ luật có nhiều điều trừng phạt nghiêm khắc những người quyền quý ức hiếp, nhũng nhiễu thường dân (các điều 294, 300, 302, 304, 365).

Trao đổi, thảo luận:

Tuần vừa qua thảo luận ở các lớp, có bạn sinh viên đặt câu hỏi: "Chứng minh rằng Bộ luật Hồng Đức có nhiều qui định tiến bộ bênh vực, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ?"
Để giúp sinh viên tìm hiểu về vấn đề này, dưới đây là một vài gợi ý trả lời và gợi mở để sinh viên tiếp tục nghiên cứu:

- Hai chương "Hộ hôn" và "Điền sản" là hai chương đặc sắc nhất của Bộ luật Hồng Đức. Có 53/722 điều luật (7%) bàn về hôn nhân - gia đình; 30/722 điều luật (4%) bàn về việc hương hỏa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản. Qua hai chương này, các nhà làm luật đã coi trọng cá nhân và đặc biệt vai trò của người phụ .

- Người vợ, trên lý thuyết, bị đòi hỏi phải lệ thuộc vào chồng và không được làm điều gì nếu không có sự chỉ đạo hay đồng ý của chồng. Nhưng trên thực tế, địa vị của người vợ - chồng thay đổi nhiều tùy thuộc theo vị trí xã hội và kinh tế của họ. Cũng giống như chồng, người phụ nữ Việt Nam xưa có tài sản riêng và tham gia các hoạt động kinh tế. Đó là điều khác biệt với người phụ nữ Trung Quốc. Trong lao động, người phụ nữ được trả công ngang bằng với người thợ nam, "không có sự phân biệt về tiền công nhật cho lao động đàn ông với đàn bà"(1). Điều 23 trong "Quốc triều hình luât" quy định tiền công nhật cho nô tỳ là 30 đồng. Việc trả công ngang bằng như thế rõ ràng cho thấy lao động của phụ nữ được đánh giá cao và vị trí của người phụ nữ được tôn trọng trong xã hội.

- Điều 322 - "Quốc triều hình luật" ghi: "Con gái thấy chồng chưa cưới có ác tật có thể kêu quan mà trả đồ sính lễ", nếu "con rể lăng mạ cha mẹ vợ, đem thưa quan, cho ly dị". Trong gia đình người vợ tương đối bình quyền với người chồng và do đó, hôn nhân không được coi là sự chuyển giao hoàn toàn cô gái từ gia đình bên nội của mình sang gia đình chồng như ở Trung Quốc. Không những thế, luật pháp còn bảo vệ người phụ nữ. Họ được phép đến nhà đương chức xin ly hôn trong trường hợp chồng không chăm nom, săn sóc vợ trong 5 tháng (1 năm - nếu vợ đã có con). Nếu vợ đem đơn đến công đường thì bộ luật cho phép cưỡng bức ly hôn. Nghĩa là, người chồng không làm tròn nghĩa vụ với vợ thì người vợ cũng không buộc phải làm tròn bổn phận của mình. Quy định này không có trong bất kỳ bộ luật nào của Trung Quốc cũng như các văn bản cổ luật trước hay sau triều Lê. Ngay cả khi luật bắt buộc người chồng phải bỏ vợ ngoài ý muốn chủ quan, điều 310 quy định: Vợ, nàng dâu đã phạm vào điều "thất xuất" mà người chồng ẩn nhẫn không bỏ thì phải tội biếm tùy theo nặng nhẹ.

Tuy nhiên, sẽ không thể ly hôn được nếu như khi phạm vào điều thất xuất người vợ đang ở trong ba trường hợp (tam bất khứ): đã để tang nhà chồng 3 năm; khi lấy nhau nghèo mà sau giàu có; khi lấy nhau có bà con mà khi bỏ lại không có bà con để trở về. Đồng thời, khi hai bên vợ chồng đang có tang cha mẹ thì vấn đề ly hôn cũng không được đặt ra. Khi ly hôn, con cái thường thuộc về chồng, nhưng nếu muốn giữ con, người vợ có quyền đòi chia một nửa số con. Điều 167 - Hồng Đức thiện chính thư - quy định rõ hình thức thuận tình ly hôn: Giấy ly hôn được làm dưới hình thức hợp đồng, người vợ và người chồng mỗi bên giữ một bản làm bằng. Vậy là, bên cạnh sự ưng thuận của cha mẹ hay các bậc tôn thuộc rất quan trọng thì sự ưng thuận của hai bên trai - gái cũng là một thành tố được nhà lập pháp chú ý đến.

- Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng sau khi ly hôn hoàn toàn chấm dứt, hai bên đều có quyền kết hôn với người khác mà không bị pháp luật ngăn cấm.

- Thông thường, nếu ly hôn không do lỗi của người vợ thì phần tài sản riêng (gồm cả điền sản và tư trang), người vợ có quyền mang về nhà mình. Trong trường hợp có lỗi; thường thì tự ý người vợ không đem theo tài sản hoặc trong một vài trường hợp luật định người vợ buộc phải để lại tài sản đó cho chồng, "người vợ mà đi gian dâm, tài sản phải trả về cho chồng"(2).

- Ngoài ra, việc phân chia và thừa kế tài sản còn tùy thuộc vào việc vợ
chồng có con hay không có con. Pháp luật quy định cụ thể ở các điều 374, 375 và 376 (Quốc triều hình luật). Tài sản của vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn: Tài sản của chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng; tài sản của người vợ thừa kế từ gia đình nhà vợ và tài sản do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhân (tài sản chung). Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là của chung. Khi ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản chung của hai người.

- Còn khi chồng chết trước (hay vợ chết trước) tài sản có do bố mẹ dành cho được chia làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho gia đình bên chồng/vợ để lo việc tế lễ (bố mẹ bên chồng/vợ hoặc người thừa tự bên chồng/vợ giữ). Một phần dành cho vợ/chồng để phụng dưỡng một đời (nhưng không có quyền sở hữu). Khi người vợ/chồng chết, thì phần tài sản này giao lại cho gia đình bên chồng.

- Đối với tài sản do hai người tạo ra cũng chia làm hai phần bằng nhau: một phần dành cho vợ/chồng làm của riêng; một phần dành cho vợ/chồng chia ra như sau: 1/3 dành cho gia đình nhà chồng/vợ để lo việc tế lễ; 2/3 dành cho vợ/chồng để phụng dưỡng một đời, không được làm của riêng, khi chết giao lại cho gia đình bên chồng. "Quốc triều hình luật" không nhắc tới động sản, chỉ đề cập tới điền sản, theo Vũ Văn Mẫu: "Điểm này cũng dễ hiểu vì trong một nền kinh tế trọng nông, các động sản khác chỉ là những vật có ít giá trị".

Song trong "Hồng Đức thiện chính thư" (điều 258-259) đã không gạt hẳn các động sản ra ngoài thừa kế. "Đến như nhà cửa chỉ có thể chia làm hai, người sống được một phần làm chỗ ở, người chết được một phần làm nơi tế lễ". "Còn đến của nổi, phải để cung vào việc tế tự và theo lệ dân trả nợ miệng, còn thừa bao nhiêu cũng chia cho vợ con". "Của nổi" ở đây được hiểu là vàng, bạc, lụa, vải, thóc lúa, giường chiếu, đồ sứ, mâm thau... Như vậy, pháp luật đã ghi nhận một cách bình đẳng sự đóng góp của người vợ trong tài sản chung của vợ chồng và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản do hai vợ chồng làm ra.

- Trong quyền thừa kế tài sản của cha mẹ để lại, pháp luật nhà Lê không phân biệt con trai - con gái. Nếu cha mẹ mất cả thì lấy 1/20 số ruộng đất làm phần hương hỏa, giao cho người con trưởng giữ, còn lại chia đều cho các con (điều 388); "người giữ hương hỏa có con trai trưởng thì dùng con trai trưởng, không có con trai trưởng thì dùng con gái trưởng" (điều 391). "Ruộng hương hỏa giao cho con trai, cháu trai, nếu không có thì giao cho cháu gái ngành trưởng".

- Về việc áp dụng hình phạt "ngũ hình", có sự phân biệt giữa đàn ông và đàn bà: không áp dụng hình phạt "trượng" cho đàn bà và áp dụng riêng từng loại tội "đồ" cho đàn ông và đàn bà (điều 1 - Quốc triều hình luật).

Tóm lại, bộ luật Hồng Đức có ý nghĩa rất lớn trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Pháp luật ấy về cơ bản được duy trì để thi hành ở những thế kỷ sau, cho đến khi nhà Nguyễn ban hành bộ luật Gia Long thì uy tín, tinh thần những điều khoản luật Hồng Đức vẫn còn sống trong dân gian. Bộ luật ấy đã có những quy định tương đối tiến bộ, công nhận cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến một số quyền lợi và phần nào bảo vệ họ đối với thái độ "trọng nam khinh nữ"... Có lẽ vì thế mà chúng ta mới thấy xuất hiện trong lịch sử những Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan... mạnh mẽ, mãnh liệt, khát khao bày tỏ tình cảm, mà cũng sâu sắc, trầm lắng biết bao! Họ lên tiếng cho người phụ nữ. Họ đấu tranh cho người phụ nữ...

Và cho đến bây giờ, người phụ nữ đã bình đẳng với nam giới, không còn sự "trọng nam khinh nữ" nữa, quyền lợi của người phụ nữ đã được công nhận và bảo vệ như nam giới, thì chúng ta mới thấy được những quyền lợi của người phụ nữ xưa vẫn còn quá ít ỏi, họ còn bị gò bó, ràng buộc, chi phối bởi biết bao nhiêu nguyên tắc đạo đức phong kiến, những "tam tòng, tứ đức"... Tuy nhiên, phải thấy rằng, nhà nước thời Lê đã bắt đầu nhận thấy vai trò lớn lao của người phụ nữ trong sản xuất và trong cuộc sống. Đó là điều tiến bộ trong các triều đại phong kiến Việt Nam.

Th.S Nguyễn Minh Tuấn

HISTORY OF LAW AND STATES.

Đối với pháp luật Việt Nam hiện nay, quan niệm về tội phạm và cách phân loại tội phạm luôn là một trong những điểm mấu chốt, quan trọng nhất trong pháp luật hình sự, một trong những ngành luật quan trọng nhất trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Việt Nam lại đang trên bước đường hội nhập toàn cầu, xã hội biến đổi ngày càng nhanh chóng khiến cho tầm quan trọng và yêu cầu đối với pháp luật ngày càng nâng cao. Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết. Một trong những phương pháp nghiên cứu, sửa đổi tốt nhất đối với pháp luật chính là nghiên cứu các qui định của pháp luật cổ xưa, từ đó rút ra những kinh nghiệm, những nét đặc sắc riêng để áp dụng đối với pháp luật hiện hành. Chính vì lẽ đó việc nghiên cứu đề tài :" Quan niệm về tội phạm và cách phân loại tội phạm trong pháp luật phong kiến Việt Nam" có những giá trị, tầm quan trọng trong việc sửa đổi, bổ sung lại các quan niệm cũng như cách phân loại tội phạm trong bộ luật hình sự hiện nay.

I- Các quan niệm về tội phạm thời phong kiến:
Theo luật hình sự Việt Nam hiện nay, tội phạm là những hành vi của con người gây nên một mức độ nguy hiểm cho xã hội thì đối với xã hội phong kiến trước đây, quan niệm về tội phạm được hiểu rất rộng. Tuy không có những định nghĩa cụ thể về tội phạm là gì nhưng trong Bộ Quốc Triều Hình Luật (QTHL) thời Lê đã có những quan niệm về tội phạm là việc xâm hại đến sự an toàn, bất khả xâm phạm của chế độ quân chủ triều Lê, mà trước hết là sự an toàn của nhà vua và hoàng cung (nhóm tội Thập ác), xâm phạm trật tự kỷ cương, đạo đức xã hội theo quan điểm Nho giáo, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, tài sản của con người. Đến thời nhà Nguyễn, trong bộ Hoàng Việt Luật Lệ cũng không có những định nghĩa chung về tôi phạm mà chỉ đi thẳng vào các qui định cụ thể đối với từng loại tội.

Nhìn chung pháp luật Phong kiến chưa có những qui định, định nghĩa về tòng phạm nhưng ta cũng có thể hiểu được quan niệm tội phạm của pháp luật phong kiến là tất cả những hành vi vi phạm không chỉ trong lĩnh vực hình sự mà trong cả các lĩnh vực dân sự, hành chính, thuế khóa, ruộng đất và kể cả trong quan hệ đạo đức (Ví dụ: Điều 130- QTHL quy định:Có tang ông bà, cha mẹ và chồng mà giấu không khóc thì phải tội đồ làm khao đinh).

II- Các phương pháp phân loại thời phong kiến:
Nếu như việc không đưa ra các định nghĩa rõ ràng về tội phạm là một hạn chế đối với cổ luật thì các nhà làm luật phong kiến lại rất tiến bộ trong việc đặt ra các phương pháp phân loại tội phạm. Pháp luật phong kiến đã đưa ra rất nhiều quan điểm phân loại tội phạm và có nhiều quan điểm phân loại tội phạm đó còn được lưu giữ và áp dụng đến ngày nay: Phân loại tội phạm dựa theo ý chí người phạm tội; Phân loại tội phạm theo nhóm tội thập ác và ngoài thập ác; Phân loại tội phạm dựa theo loại hình phạt; Phân loại tội phạm dựa vào khách thể của tội phạm; Phân loại tội phạm theo giai đoạn thực hiện tội phạm; Phân loại tội phạm đồng phạm.

1) Phân loại tội phạm dựa theo ý chí người phạm tội:
Phân biệt tội phạm dựa theo ý chí của người phạm tội nói đơn giản là sự phân biệt giữa vô ý phạm tội và cố ý phạm tội. Ngay từ thời Lê, trong bộ luật Hồng Đức đã có những qui định thể hiện điều này, cụ thể trong Điều 47: " Những người phạm tội, tuy tên gọi tội giống nhau, nhưng phải phân biệt sự phạm tội vì lầm lỡ hay cố ý ..., không nên câu nệ để hợp với ý nghĩa xét xử hình án " Tha người lầm lỡ không kể tội nặng, bắt tội người cố ý không kể tội nhẹ "". Qui định này tuy còn rất chung chung nhưng đã thể hiện được quan niệm của nhà làm luật thời Lê. Đến thời nhà Nguyễn, quan điểm này đã được thể hiện rõ nét hơn khi được qui định rõ ràng trong các điều luật.
Ví dụ như các điều luật về tội giết ngừơi thuộc tình tiết giảm nhẹ: Ngộ sát, lầm lẫn xử trượng, đồ, lưu (điều 262); Chồng giết chết gian phu, gian phụ miễn tội (điều 254)...

2) Phân loại tội phạm theo nhóm tội thập ác và ngoài thập ác
Do ảnh hưởng từ luật pháp nhà Đường, tất cả các triều đại phong kiến Việt Nam đều tiến hành phân chia tội phạm ra thành hai nhóm là nhóm tội thập ác và nhóm tội ngoài thập ác:

-Tội thập ác là những tội xâm hại đến vương quyền của nhà vua, đến trật tự xã hội của Nho giáo. Bởi vậy, dưới cái nhìn của nhà làm luật phong kiến, thập ác là những trọng tội nguy hiểm nhất, và luôn đi kèm với đó là những hình phạt nghiêm khắc và tàn bạo nhất: " Những kẻ mưu làm phản, mưu làm việc đại nghịch thì xử tội chém bêu đầu, kẻ tòng phạm và thân đảng biết việc ấy đều phải tội chém, vợ con điền sản đều bị tịch thu làm của công... " [ Điều 411 Quốc triều hình luật ]. Do đặc điểm này mà pháp luật phong kiến quy định các tội thập ác không được hưởng nghị giảm theo chế độ bát nghị, không được chuộc tội bằng tiền, không được hưởng chế độ đặc xá, đại xá...

Thập ác bao gồm:

  • 1. Mưu phản: lật đổ nền cai trị của nhà vua, làm xụp đổ xã tắc.
  • 2. Mưu đại nghịch: phá đền đài, lăng tẩm, cung điện của nhà vua.
  • 3. Mưu bạn: phản bội Tổ quốc theo giặc.
  • 4. Ác nghịch: mưu giết hay đánh ông bà, cha mẹ, tôn thuộc.
  • 5. Bất đạo: vô cớ giết nhiều người, cắt tay chân người sống, chế thuốc độc bùa mê, tàn ác, hung bạo...
  • 6. Đại bất kính: lấy trộm các đồ tế trong lăng tẩm, các vật dụng của vua, làm giả ấn vua...
  • 7. Bất hiếu: cáo giác hay chửi rủa ông bà, bố mẹ hay ông bà, bố mẹ chồng. Không phụng dưỡng bố mẹ, tự ý bỏ nhà, tự ý phân chia tài sản, cưới xin khi có tang cha mẹ, vui chơi trong khi tang chế, được tin bố mẹ, ông bà chết không chịu tang hoặc phát tang giả dối.
  • 8. Bất mục: mưu giết hay bán các thân thuộc (cho đến ngũ đại), đánh hoặc cáo giác chồng hay các tôn thuộc (cho đến tam đại).
  • 9. Bất nghĩa:dân giết quan lại sở tại, lính tốt giết quan chỉ huy, học trò giết thầy dạy, vợ không để tang chồng, ăn chơi và tái giá.
  • 10. Nội loạn: tức là tội loạn luân (thông dâm với thân thuộc hay với các thiếp của bố hay của ông).


- Nhóm tội phạm ngoài thập ác cũng rất phong phú và đa dạng, được chia thành nhiều nhóm khác nhau tuỳ theo khách thể bị hành vi tội phạm tác động. Đó có thể là những tội xâm phạm an toàn của nhà vua; tới trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính...; tới tính mạng, sức khoẻ, nhân thân của con người; tới an ninh quốc gia, trật tự chế độ xã hội phong kiến; tới chế độ sở hữu; tới chế độ hôn nhân - gia đình phong kiến; tới hoạt động tư pháp hoặc các tội phạm quân sự... ( theo QTHL). Đó cũng có thể là những tội đạo tặc (trộm cướp), nhân mạng (giết người), đấu ẩu (đánh nhau), lăng mạ (chửi mắng), trá ngụy (man trá, giả mạo), phạm gian (gian dâm), tạp phạm (nhóm tội chuộc bằng tiền), tội phạm về quan chức, về dân sự, hôn nhân - gia đình... ( theo HVLL).

3) Phân loại tội phạm dựa theo loại hình phạt:
Hệ thống các hình phạt ngũ hình cũng là một trong những yếu tố Trung Hoa trong hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam.Nhằm đề cao tính răn đe, ngũ hình được qui định ở ngay điều 1 của cả hai bộ luật QTHL và HVLL. Nhóm hình phạt này luôn là nhóm hình phạt chính trong hệ thống pháp luật của các triều đại phong kiến. Chính vì vậy, các nhà làm luật phong kiến đã dựa vào nhóm hình phạt này để phân loại tội phạm. Nhóm tội phạm ngũ hình gồm có 5 loại là : Xuy; Trượng; Đồ; Lưu; Tử.
  • Xuy hình là hình phạt đánh bằng roi, thường áp dụng đối với các loại tội nhẹ như đấu ẩu, lăng mạ... Cốt để phạm nhân xấu hổ.
  • Trượng hình là hình phạt đánh bằng trượng, nặng hơn xuy áp dụng với các tội như đấu ẩu, nhận hối lộ...
  • Đồ hình là hình phạt bắt làm tù khổ sai, áp dụng với các tội tương đối nặng như hối lộ, trộm cắp...
  • Lưu hình là hình phạt bắt đi lưu đày, tội nặng thì đi xa, tội nhẹ thì đi gần. Các tội phạm áp dụng hình phạt lưu thường là ở mức cao nhất của các tội hối lộ, trộm cắp...
  • Tử hình là hình phạt nặng nhất thường là chém hoặc treo cổ. Loại hình phạt này thường xuyên áp dụng đối với nhóm tội thập ác.


Ngoài ra đối với một số loại tội phạm pháp luật phong kiến còn cho phép một số quan lại chuộc tội bằng tiền do đó còn có thể chia tội phạm thành hai nhóm là nhóm tội phạm chuộc được bằng tiền và nhóm tội phạm không thể chuộc được bằng tiền.Ví dụ như trong điều 6- QTHL:" Những người họ hoàng hậu nếu bị ghép vào tội trượng, tội thích chữ vào mặt thì được phép chuộc bằng tiền" hoặc nhóm tội Tạp phạm được qui định ở luật Gia Long.

4) Phân loại tội phạm theo giai đoạn thực hiện tội phạm:
Căn cứ theo các giai đoạn thực hiện tội phạm, cổ luật chia thành nhiều giai đoạn khác nhau, như: đã hành động, chưa hành động, đã thành, chưa thành... Đặc biệt, cổ luật còn quy định tội phạm cho các hành vi mới xuất hiện trên phương diện là mưu đồ hoặc là có nguy cơ cao, nhằm ngăn ngừa hậu quả thiệt hại gây ra cho xã hội, nhưng đặc biệt vẫn là để ngăn chặn các hành vi nguy hại tới vương quyền của nhà vua, như bộ Quốc triều hình luật có quy định: "những người vào trong cung điện làm việc hết giờ mà không ra khỏi khu vực ngoại điện thì xử tội lưu, ở trong cung bị xử tội giảo, ở lại nơi vua nằm thì xử tội chém" (Điều 55).

Ngoài ra, các tội phạm về mưu đồ cũng được qui định rõ ở từng điều lệ trong bộ HVLl như ở tội Nhân Mạng chia làm 3 hạng mưu sát nhân đã thực hiện nhưng chưa thành, không gây thương tích; đã làm bị thương hoặc đã thành. Tùy theo giai đoạn mà mức hình phạt khác nhau. Đối với một số trọng tội ( nhóm tội nguy hại đến vương quyền như mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn) dù chưa có hành vi phạm tội chỉ là âm mưu phạm tội cũng được coi là tội phạm và là tội phạm đã hoàn thành.

5) Phân loại tội phạm đồng phạm:
Điều 469- QTHL: " đồng mưu đánh người bị thương, thì kẻ nào đánh nhiều đòn nặng là thủ phạm, kẻ chủ mưu cũng phải cùng một tội,còn người tòng phạm thì được giảm một bậc.

Như vậy pháp luật thời Lê đã có những qui định về phạm tội đồng phạm nhưng lại không có những định nghĩa rõ ràng về đồng phạm và những người đồng phạm. Đến triều Nguyễn, những qui định về đồng phạm cũng đã rõ ràng hơn. Nhà làm luật đã đưa ra các khái niệm:
  • Đồng phạm là cùng phạm tội gồm chính phạm và tòng phạm. Chính phạm xử nặng hơn tòng phạm một bậc.
  • Chính phạm là kẻ chủ mưu, tác giả tinh thần, ý đồ, tạo ý, đầu nậu, khởi xướng .
  • Tòng phạm là những người tham gia, thừa hành, hành động hoặc không hành động chia của, che giấu, xúi giục, giúp đỡ hoặc là cùng thực hiện ( Điều 29- HVLL)


Các tội phạm về đồng phạm cũng được qui định rõ trong các điều luật cụ thể về tội phạm: Ví dụ như tội Nhân Mạng (giết người) hạng nhẹ nhất là " thực hiện chưa thành , không gây thương tích , chủ mưu xử 100 trượng đồ 3 năm, a tùng cùng mưu xử 100 trượng."

6) Phân loại tội phạm dựa vào khách thể của tội phạm:
Khách thể của quan hệ pháp luật là các quan hệ xã hội bị hành vi xâm hại. Việc căn cứ theo khách thể của tội phạm để phân loại này có tử thời Nguyễn, bộ Hoàng Việt luật lệ chia tội phạm ra thành 6 nhóm, tương ứng với 6 quyển trong bộ luật:lại luật gồm 27 điều (quyển 4 - 5); hộ luật gồm 66 điều (quyển 6, 7, Cool; lễ luật gồm 26 điều (quyển 9); binh luật gồm 58 điều(quyển 10 và 11); hình luật gồm 166 điều (quyển 12 - 20); công luật gồm 10 điều (quyển 21). Cách phân loại này còn được thể hiện gián tiếp thông qua các chế định về Tội thập ác và tội ngoài thập ác, khách thể trong mối quan hệ này chính là nguyên tắc Tam Cương của Nho giáo ( Tam Cương là ba mối quan hệ cơ bản trong xã hội phong kiến: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ).
  1. Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành một dạ.
  2. Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng.
  3. Phu thê: Trong quan hệ chồng vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ, vợ vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng).


III- Tổng kết:
Xuyên suốt quá trình phát triển của các triều đại phong kiến Việt Nam, các nhà làm luật phong kiến đã dựng nên rất nhiều bộ luật nổi tiếng như Quốc triều hình luật, Hoàng việt luật lệ... Hầu hết các bộ luật này đều tổng hợp về nhiều ngành luật và được trình bày dưới hình thức các qui phạm pháp luật hình sự.

Các bộ luật này đã có nhiều quan điểm tiến bộ trong việc phân loại các tội phạm ra từng loại tội phạm cụ thể , với các mức độ hình phạt khác nhau nhưng các bộ luật này đều còn những thiếu sót trong việc đưa ra khái niệm về các loại tội phạm đó. Khái niệm tội phạm được sử dụng rộng rãi hơn rất nhiều so với pháp luật hiện hành, mọi vi phạm đều bị coi là tội phạm và đều phải bị áp dụng những chế tài hình sự: dân sự, hành chính, thuế khoá,ruộng đất..., thậm chí có khi đó chỉ là những vi phạm trên lĩnh vực đạo đức đơn thuần.

Sự khác biệt này có lẽ xuất phát từ sự chênh lệch về trình độ kỹ thuật lập pháp, từ sự khác nhau về nền tảng kinh tế - xã hội đương thời: Vì đối với xã hội phong kiến Nho giáo là nền tảng cho trật tự xã hội nên vấn đề bảo vệ đạo đức Nho giáo luôn là nhiệm vụ hàng đầu của pháp luật.

 Theo Bộ luật Hồng Đức (BLHĐ), tội phạm là việc xâm hại đến sự an toàn, bất khả xâm phạm của chế độ quân chủ triều Lê, mà trước hết là sự an toàn của nhà vua và hoàng cung, xâm phạm trật tự kỷ cưưương, đạo đức xã hội theo quan điểm Nho giáo, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, tài sản của con người. BLHĐ nói riêng và luật phong kiến nói chung luôn coi trọng nguyên tắc đạo đức, do đó, có nhiều hành vi mà theo luật hình sự hiện nay chỉ có thể là hành vi vi phạm đạo đức, hoặc vi phạm pháp luật khác đã đđđược quy định trong BLHĐ là tội phạm

Ví dụ: Điều 130 quy định: Có tang ông bà, cha mẹ và chồng mà giấu không khóc thì phải tội đồ làm khao đinh>>>; hoặc Điều 99 quy định: >>>Người giấu sách vở đem vào trường thi phải phạt 80 trượng>>>>>> Nếu như trong luật hình sự hiện hành, chỉ có hành vi của con người và hành vi đó phải có mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội mới bị coi là tội phạm thì trong BLHĐ, không những không xét đến mức độ của tính nguy hiểm mà trong một số lĩnh vực cần sự bảo vệ đặc biệt thì còn bị coi là tội phạm ngay cả khi chủ thể chỉ có mưu (ý đồ) phạm tội như mưu làm phản (Điều 411), mưu giết người (Điều 415))))

Một trong những nguyên tắc tiến bộ của BLHĐ, đó là khi xác định mức độ chịu trách nhiệm hình sự có tính đến trường hợp phạm tội do cố ý và trường hợp phạm tội do lầm lỡ. Điều 47 quy định: Những người phạm tội tuy tên gọi giống nhau, nhưng phải phân biệt sự phạm tội do lầm lỡ hay cố ý>>> ; Tha người lầm lỡ không kể tội nặng, bắt người cố ý không kể tội nhẹ>>>>>>Từ nguyên tắc chung này, hình phạt quy định đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể cũng có sự phân biệt. Ví dụ: Điều 497 quy định: Trong khi đánh nhau lỡ đánh lầm phải người xung quanh bị thương hay đến chết, thì xử nhẹ hơn tội đánh chết ng¬ười một bậc>>>.

Trong chính sách hình sự của BLHĐ, nguyên tắc nhân đạo cũng được chú trọng. Điều 16 quy định: Những ngư¬ời từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống cùng những người bị phế tật, phạm từ tội lưu trở xuống đều cho phạt bằng tiềnnnn Người từ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống cùng những ng¬ười bị ác tật, phạm tội phản nghịch, giết người đáng phải tội chết thì cũng phải tâu Vua để xét định, ăn trộm và đánh người bị thương thì cho chuộc, còn ngoài ra thì không bắt tội. Từ 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống, dẫu có bị tội chết cũng không hành hình>>>. Bên cạnh đó, BLHĐ còn dự liệu những trường hợp mà pháp luật hình sự hiện nay gọi là trường hợp bất khả kháng. Điều 182 quy định: Nếu đường đê vững chắc lại cố giữ gìn, song vì nước lụt quá to, sức người không chống nổi mà đê vỡ thì không bị xử tội>>>.

Có thể nói, ngoài một số hạn chế do những đặc điểm kinh tế - chính trị - xã hội đương thời chi phối, những quy định trong BLHĐ thể hiện sự tiến bộ trong công tác xây dựng pháp luật của những nhà làm luật thời kỳ phong kiến. Những nguyên tắc cơ bản trong BLHĐ không chỉ đề cao tính giai cấp mà còn thể hiện tính nhân đạo vốn là nét đẹp truyền thống của người Việt Nam. Chính bởi vậy, nhiều nguyên tắc tiến bộ trong BLHĐ đã tiếp tục được kế thừa và phát huy trong luật hình sự Việt Nam hiện đại.

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code