HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Ngày 02 tháng 10
năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc
thẩm xét xử vụ án dân sự về tranh chấp quyền sở hữu tài sản (đòi nhà)
giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
1. Bà Nguyễn Thị Nghiệm, sinh năm 1931
Trú tại: 198 Đồng Nai, Phước Hải, Nha Trang, Khánh Hoà;
2. Bà Nguyễn Thị Phương, sinh năm 1927
Trú tại: Ngọc Hiệp, Nha Trang, Khánh Hoà;
3. Bà Nguyễn Thị Linh, sinh năm 1921
Trú tại: Ngọc Hiệp, Nha Trang, Khánh Hoà;
(Cả ba nguyên đơn đều uỷ quyền cho bà Ngô Thị Phan Thu Nguyệt, trú tại: 38 H•ơng Sơn, Ph•ớc Hoà, Nha Trang, Khánh Hoà).
Bị đơn:
Ông Trần Duy Tân, sinh năm 1935 Trú tại: 108 Nguyễn Trường Tộ, thị trấn Ninh Hoà, huyện Ninh Hoà, Khánh Hoà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà, do ông Trần Đức Mỹ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà đại diện.
- Các ông bà: Nguyễn Thị Khánh, Nguyễn Thị Khiết, Nguyễn Hữu Nghiên (đều cư trú tại Mỹ) uỷ quyền cho bà Nguyễn Thị Nghiệm.
Nhận thấy:
Theo đơn khởi kiện và theo trình bày trong quá trình tố tụng của các nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Nghiệm, bà Nguyễn Thị Phương, bà Nguyễn Thị Linh thì: Ngôi
nhà số 108 Nguyễn Tr•ờng Tộ, Mỹ Hiệp 3, Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà thuộc
sở hữu của cha mẹ các bà là vợ chồng cụ Nguyễn Hữu Quả, cụ Nguyễn Thị
Bẹn. Cụ Quả, cụ Bẹn có 6 người con là: Nguyễn Thị Nghiệm, Nguyễn Thị
Phương, Nguyễn Thị Linh, Nguyễn Hữu Nghiên, Nguyễn Thị Khánh và Nguyễn
Thị Khiết, trong đó các ông bà Nghiên, Khánh, Khiết đang sống ở nước
ngoài (Mỹ).
Năm 1938, cụ Bẹn chết; năm 1940, cụ Quả kết hôn với
cụ Nguyễn Thị Loan và cùng sống tại nhà này. Cụ Quả, cụ Loan không có
con chung. Năm 1976, cụ Quả chết, nhà trên do cụ Loan quản lý, sử dụng.
Các con của cụ Quả cụ Bẹn có gia đình sinh sống tại nơi khác.
Năm 1980, cụ Loan có nhờ người khác viết hộ hai đơn:
một đơn đề ngày 30-6-1980 và một đơn đề ngày 11 -7-1980 với nội dung: Cụ
Loan xin gửi căn nhà và mảnh v•ờn cho Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà
giữ hộ. Cụ Loan đồng ý để Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà sử dụng nhà
và v•ờn làm nơi làm việc hoặc có thể cho gia đình cán b ộ ở giữ nhà cho
cụ.
Ngày 27-7-1980, Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà lập
biên bản nhận nhà của cụ Loan gửi. Ông Trần Duy Tân đại diện Uỷ ban
nhân dân thị trấn Ninh Hoà nhận nhà trên.
Năm 1981, Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà lập giấy chuyển nhượng nhà 1 08 Nguyễn Trường Tộ cho ông Trần Duy Tân.
Năm 1990, các bà đã có đơn khiếu nại Uỷ ban nhân dân
thị trấn Ninh Hoà và yêu cầu trả lại căn nhà 108 Nguyễn Trường Tộ mà cụ
Loan đã gửi.
Năm 1993 cụ Loan chết không để lại di chúc.
Các nguyên đơn cho rằng việc cụ Loan gửi căn nhà trên
cho Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà là bất hợp pháp vì cụ Loan không
là chủ sở hữu căn nhà này, Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà bán nhà cho
ông Tân là sai trái và vi phạm pháp luật. Các nguyên đơn đề nghị Toà án
buộc ông Tân phải trả lại nhà, đồng thời chấp nhận thanh toán lại cho
ông Tân giá trị phần làm thêm và số cây ông trồng mới theo biên bản định
giá.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Trần Duy Tân trình bày: Căn
nhà 108 Nguyễn Tr•ờng Tộ do cụ Loan gửi Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh
Hoà, ông Tân là người nhận nhà với tư cách đại diện Uỷ ban nhân dân thị
trấn. Năm 1981 ông mua căn nhà nêu trên từ Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh
Hoà với số tiền 4.500 đồng. Thời gian sinh sống gia đình ông đã thay
ngói, làm công trình phụ, trồng một số cây ăn trái.
Nay ông Tân không đồng ý trả căn nhà này cho chị em
bà Nghiệm vì đã mua nhà một cách hợp pháp, ông không biết bà Nghiệm là
ai. Nếu Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà có yêu cầu lấy lại nhà thì đề
nghị Uỷ ban tạo điều kiện về chỗ ở cho ông.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà thừa
nhận năm 1980 cụ Loan chỉ gửi nhà 108 Nguyễn Trường Tộ để Uỷ ban trông
coi hộ chứ không cho hẳn hay hiến nhà, việc Uỷ ban bán nhà cho ông Tân
là sai. Nay các nguyên đơn có yêu cầu đòi nhà thì đề nghị Toà giải quyết
theo pháp luật, nhưng Uỷ ban xin nhận bằng tiền phần thừa kế của cụ
Loan đã hiến cho Uỷ ban để Uỷ ban có điều kiện cất nhà khác cho ông Tân.
Tại bản án sơ thẩm số 06/STDS ngày 17-4-1996, Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn:
1. Công nhận một phần hợp đồng cho nhà 108 Nguyễn Tr•ờng Tộ giữa
bà Trần Thị Loan với Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà đề ngày 11-7-1980 là hợp pháp.
2. Công nhận một phần hợp đồng bán nhà số 108 Nguyễn Tr•ờng Tộ, Ninh Hoà ký kết giữa Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà với ông Trần Duy Tân là hợp pháp.
3. Ông Trần Duy Tân được sở hữu một phần ngôi nhà số 108 Nguyễn Trường Tộ, Ninh Hoà gồm nhà trên, nhà giữa, 2 chuồng heo nằm trên diện tích đất chiều ngang giáp đ•ờng lộ là 14,5m, chiều sâu 34,5 m và chiều ngang phía trong là 10m (Phần A trên sơ đồ).
4. Các con ông Quả, bà Bẹn được sở hữu một phần nhà đất 108 Nguyễn Tr•ờng Tộ, Ninh Hoà (phần B trên sơ đồ) sau khi đã trừ phần nhà đất giao cho ông Tân sở hữu và được nhận 505.299 đ chênh lệch do ông Tân thanh toán.
5. Các con ông Quả, bà Bẹn phải thanh toán cho ông Tân giá trị cái bếp là 1.295.000 đ và toàn bộ cây trái (trừ 3 bụi thanh long, 3 cây mãng cầu, 2 cây khế, 1 cây me, 1 cây dừa) thực tế có trên phần diện tích giao cho các bà sở hữu theo giá sau:
- Dừa loại A: 140.000 đ/cây – Xoài: 60.000 đ/cây
- Dừa loại B: 90.000 đ/cây – Thanh long: 50.000 đ/bụi
- Bơ 50.000 đ/cây - Mận: 40.000 đ/cây
- ổi 30.000 đ/cây - Vú sữa: 70.000 đ/cây
- Chanh:30.000 đ/cây - Bưởi: 40.000 đ/cây
- Mãng cầu: 40.000 đ/cây - Cau: 50.000 đ/cây
- Mãng cầu tây:40.000 đ/cây - Chuối: 25.000 đ/bụi
- Cóc: 30.000 đ/cây
6. Ông Trần Duy Tân có nghĩa vụ giao cho các con bà Bẹn, ông Quả phần tài sản Toà tuyên theo điều 4 quyết định này và thanh toán 505.299 đ, ông Tân được nhận 1.295.000 đ giá trị cái bếp và giá trị cây trái mà ông đã trồng nay giao cho các con ông Quả, bà Bẹn sở hữu do các con bà Bẹn, ông Quả thanh toán.
7. Bà Nguyễn Thị Nghiệm được tạm thời quản lý một phần nhà 108 Nguyễn Trường Tộ, Ninh Hoà mà Toà tuyên cho các con ông Quả, bà Bẹn sở hữu nên bà được nhận 505.299 đ do ông Tân thanh toán, bà Nghiệm có nghĩa vụ thanh toán lại cho ông Tân giá trị cái bếp 1.295.000 đ và cây ăn trái do ông Tân trồng theo phần 5 của quyết định này. Phần thanh toán này sẽ được tính toán khi các ông Quả, bà Bẹn tranh chấp di sản thừa kế của ông Quả, bà Bẹn.
8. Tuyên tách việc tranh chấp hợp đồng mua bán nhà 108 Nguyễn Tr•ờng Tộ, Ninh Hoà giữa Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà với ông Tân thành một vụ kiện khác khi đương sự có yêu cầu.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 18-4-1996, bà Nguyệt được các nguyên đơn uỷ
quyền kháng cáo cho rằng: Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà bán nhà
thuộc di sản thừa kế của cụ Quả, cụ Bẹn cho ông Tân là bất hợp pháp; Toà
án xử chia nhà 108 Nguyễn Tr•ờng Tộ cho ông Tân sở hữu một phần, bà
không đồng ý. Đề nghị Toà án xử giao cho nguyên đơn phần đất có nhà để
thờ cúng ông bà, còn phần đất có cây ăn quả còn lại tương đương giá trị
kỷ phần của cụ Loan sẽ giao cho Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà quản
lý.
Tại bản án phúc thẩm số 32 ngày 24-6-1996, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn, sửa án sơ thẩm như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Nghiệm, bà Nguyễn Thị Phương, bà Nguyễn Thị Linh, bà Nguyễn Thị Khánh, bà Nguyễn Thị Khiết, ông Nguyễn Hữu Nghiên đòi ông Trần Duy Tân và Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà trả lại căn nhà số 108 Nguyễn Trường Tộ mà bà Trần Thị Loan đã gửi Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà giữ hộ năm 1980; là di sản thừa kế của ông Quả, bà Bẹn và bà Loan để lại.
2. Ông Trần Duy Tân và Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà phải giao trả lại căn nhà 108 Nguyễn Tr•ờng Tộ, thị trấn Ninh Hoà gồm nhà, đất, cây cối nguyên trạng theo đúng sơ đồ hiện trạng nhà đất mà Toà án Khánh Hoà đã lập cho các nguyên đơn là những người thừa kế hợp pháp của ông Quả, bà Bẹn, bà Loan; do bà Nguyễn Thị Nghiệm thay mặt nhận quản lý. Ông Trần Duy Tân được lưu cư trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 24-6-1996.
3. Huỷ bỏ hợp đồng (giấy) chuyển nhượng bất động sản (căn nhà 108 Nguyễn Trường Tộ) năm 1981 giữa Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà và ông Trần Duy Tân vì trái pháp luật nên vô hiệu.
4. Uỷ ban nhân dân thị rấn Ninh Hoà phải thanh toán lại cho ông Trần Duy Tân số tiền mua bán nhà năm 1981 theo giá trị nhà theo thời giá là 229.726.400đ.
5. Các nguyên đơn được nhận lại nhà đất nhưng phải thanh toán lại cho ông Trần Duy Tân giá trị tài sản mà ông Tân đầu tư là 6.099.000đ; số tiền này do bà Nguyễn Thị Nghiệm thay mặt thanh toán cho ông Tân.
6. Việc các nguyên đơn tự nguyện giao cho Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà quản lý phần đất có cây ăn quả tương đương giá trị kỷ phần của cụ Loan được giải quyết thành một vụ án dân sự khác theo quan hệ pháp luật về thừa kế khi các đương sự có yêu cầu.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí.
Tại công văn số 15 2/BC-PT2 ngày 13-7-1996, Viện phúc
thẩm Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đề nghị Viện kiểm sát
nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm trên theo thủ tục giám đốc
thẩm.
Ngày 22-4-1997, Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà có đơn khiếu nại.
Tại Quyết định số 63/KN-DS ngày 19-5-1997, Viện
tr•ởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm
trên với nhận định: Toà án cấp phúc thẩm xử huỷ hợp đồng mua bán nhà 108
Nguyễn Trường Tộ giữa Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà với ông Tân
đồng thời chấp nhận yêu cầu đòi nhà của các nguyên đơn là đúng pháp
luật. Tuy nhiên, bản án phúc thẩm đã quyết định Uỷ ban nhân dân thị trấn
Ninh Hoà phải thanh toán cho ông Tân số tiền mua bán nhà năm 1981 theo
thời giá 229.726.400đ là không có cơ sở. Bởi vì: Khi mua nhà, ông Tân có
biết nhà không phải của Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà nhưng vẫn
mua. Toà án cấp phúc thẩm chỉ xác định lỗi của một bên bán và quy trách
nhiệm Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà phải chịu toàn bộ hậu quả của
hợp đồng vô hiệu là gây thiệt hại đến tài sản của Nhà n•ớc. Mặt khác,
giữa Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà và ông Tân đều khai rằng việc
giải quyết hợp đồng mua bán sẽ tự giải quyết sau. Do đó cần phải huỷ
phần giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu (giữa Uỷ ban nhân dân thị trấn
Ninh Hoà và ông Tân).
Tại Quyết định số 37/DS ngày 11-7-1997, Uỷ ban Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án
đòi nhà giữa bà Nguyễn Thị Nghiệm với ông Trần Duy Tân. Sau khi có quy
định của Uỷ ban th•ờng vụ Quốc hội về các giao dịch dân sự về nhà ở được
xác lập trước ngày 01 -7-1991 Toà án sẽ giải quyết the o quy định đó.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tối cao giữ nguyên quan điểm nêu trong Quyết định kháng nghị số
63/KN-DS ngày 19-5-1997 của Viện tr•ởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Xét thấy:
Theo các đơn xin gửi nhà đề ngày 30-6-1980 và ngày 11
-7-1980 của cụ Loan thì cụ Loan chỉ gửi căn nhà số 108 Nguyễn Tr•ờng Tộ
cho Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà giữ và trông coi nhà hộ, Uỷ ban
nhân dân thị trấn Ninh Hoà được quyền quản lý, sử dụng mà không có quyền
định đoạt căn nhà này. Ngày 27-7-1980, ông Trần Duy Tân đại diện Uỷ ban
nhân dân thị trấn Ninh Hoà nhận căn nhà trên. Năm 1981, Uỷ ban nhân dân
thị trấn Ninh Hoà lập giấy chuyển nhượng nhà cho ông Tân.
Như vậy, Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà và ông
Trần Duy Tân biết rõ tình trạng căn nhà nhưng đã tự ý thoả thuận mua bán
với nhau mà không có ý kiến của cụ Loan, cũng như các đồng thừa kế của
cụ Quả, cụ Bẹn là sai, nên giao dịch mua bán căn nhà đó giữa Uỷ ban nhân
dân thị trấn Ninh Hoà với ông Tân là vô hiệu; Uỷ ban nhân dân thị trấn
Ninh Hoà và ông Tân đều có lỗi, bản án phúc thẩm xác định Uỷ ban nhân
dân thị trấn Ninh Hoà phải chịu 100% thiệt hại là không đúng pháp luật.
Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm
Uỷ ban nhân dân thị trấn Ninh Hoà và ông Tân đều không có yêu cầu giải
quyết hợp đồng mua bán nhà, mà đề nghị được tự giải quyết sau, nhưng Toà
án cấp phúc thẩm vẫn xem xét quan hệ này là sai.
Về việc hiến kỷ phần thừa kế của cụ Loan, theo Uỷ ban
nhân dân thị trấn Ninh Hoà; năm 1980 cụ Loan đã hiến kỷ phần thừa kế
của cụ đối với căn nhà 108 Nguyễn Trường Tộ cho Uỷ ban, nhưng căn cứ vào
các đơn của cụ Loan thì không thể hiện việc này. Mặc dù bà Nghiệm đại
diện cho các con của cụ Quả, cụ Bẹn đồng ý giao phần đất có cây ăn quả
tương đương giá trị kỷ phần thừa kế của cụ Loan cho Uỷ ban nhân dân thị
trấn Ninh Hoà quản lý, nhưng các con của cụ Quả, cụ Bẹn không thuộc diện
thừa kế của cụ Loan nên không có quyền định đoạt kỷ phần thừa kế của cụ
Loan. Toà án cần xác định các thừa kế của cụ Loan. Trong tr•ờng hợp
không có người thừa kế hoặc những người thừa kế theo pháp luật của cụ
Loan từ chối thì kỷ phần thừa kế này thuộc sở hữu Nhà nước.
Ngoài ra, khi xét xử lại Toà án cũng cần kiểm tra,
xác định lại các yêu cầu, việc tham gia tố tụng của các bên đương sự
hiện nay để giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3
Điều 297, khoản 1 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ vào Nghị
quyết số 1037/2006/NQ- UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Uỷ ban th•ờng vụ Quốc
hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 -7-1991 có
người Việt Nam định cư ở n•ớc ngoài tham gia;
Quyết định:
1. Huỷ bản án phúc thẩm dân sự số 32 ngày 24-6-1996
của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và bản án sơ thẩm
số 06/STDS ngày 17-4-1996 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà giải quyết
về vụ án “kiện đòi nhà” giữa các nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Nghiệm, bà
Nguyễn Thị Phương, bà Nguyễn Thị Linh với bị đơn là ông Trần Duy Tân.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà giải quyết, xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
____________________________________________
- Lý do huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm:
1. Quyết định của bản án phúc thẩm buộc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải chịu 100% thiệt hại là chưa chính xác;
2. Toà án cấp phúc thẩm xem xét và giải quyết quan hệ
mua bán nhà giữa bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khi
không có yêu cầu là không đúng thẩm quyền;
3. Cần xác định lại các thừa kế.
- Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ các bản án sơ thẩm và phúc thẩm:
1. Thiếu sót trong việc xác minh, đánh giá chứng cứ;
2. Thiếu sót trong việc xác định thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự;
3. Do thời hạn giải quyết vụ án bị kéo dài.
SOURCE: CÁC QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CỦA HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO NĂM 2006 – TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI
CAO VÀ CƠ QUAN PHÁT TRIỂN QUỐC TẾ HOA KỲ (USAID). 2008
0 comments:
Post a Comment