TS. TRẦN ANH TUẤN – Khoa Pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội
Việc bồi thường thiệt
hại đối với người bị thiệt hại trong các quan hệ về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói chung và trong quan hệ về bồi thường thiệt hại do
tài sản gây ra nói riêng là nhằm khắc phục thiệt hại, bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường do tài sản gây
ra là một trách nhiệm có nguồn gốc đạo lý và pháp lý :
Về phương diện đạo lý, việc bồi thường thiệt hại là
bổn phận đạo đức của chủ sở hữu hay người chiếm hữu tài sản. Về phương
diện pháp lý, bồi thường thiệt hại là một nghĩa vụ phải làm một công
việc (bồi thường) của chủ sở hữu hay người chiếm hữu tài sản được nhà
lập pháp ấn định trong luật và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước. Trong xã hội văn minh ngày nay, người bị thiệt
hại không có quyền tự xử bằng sức mạnh để đạt được sự bồi thường các
thiệt hại mà mình phải gánh chịu. Họ chỉ có thể sử dụng các phương tiện
hợp pháp được nhà lập pháp trao cho để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của
mình : Thoả thuận với người gây thiệt hại về việc bồi thường thiệt hại
bằng con đường thương lượng dân sự hoặc cầu viện tới công lý để bảo vệ
các quyền lợi hợp pháp của mình. Việc khởi kiện trước Toà án (1) và yêu
cầu cơ quan thi hành án nhà nước cưỡng chế thi hành phán quyết (2) là
một phương thức quan trọng để người bị thiệt hại bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình.
1. Việc kiện đòi bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra và thủ tục tố tụng trước Toà án
Trong phần này chúng ta làm rõ một số vấn đề liên
quan đến thủ tục tố tụng tại Toà án như ai có thể thực hiện việc khởi
kiện, có thể kiện ai ; kiện ở Toà án nào ; điều kiện hành xử quyền khởi
kiện ; việc chứng minh trước Toà án và xác định luật áp dụng trong vụ
kiện.
1.1. Việc xác định tư cách đương sự trong các vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
Vấn đề đặt ra cần phải giải quyết là xác định ai
là người có thể thực hiện việc kiện, có thể kiện ai và kiện về vấn đề gì
? Theo logic thì để trả lời câu hỏi này, ta có thể đi theo một suy lý
ngược : Việc kiện về vấn đề gì sẽ quyết định ai có thể thực hiện quyền
kiện và việc kiện đó được thực hiện đối với chủ thể nào. Có nghĩa là dựa
trên tính chất của vụ kiện hay quan hệ pháp luật có tranh chấp để xác
định người có quyền khởi kiện và người có thể bị kiện.
Ở Việt Nam, người ta thường đề cập đến hai phương
thức kiện để bảo vệ quyền lợi trước Toà án là kiện vật quyền và kiện
trái quyền. Theo một số nhà nghiên cứu về tố tụng của Pháp, đối với kiện
trái quyền, tư cách nguyên đơn chỉ thuộc về chủ thể có quyền và tư cách
bị đơn thuộc về chủ thể có nghĩa vụ, trong khi đó, đối với kiện vật
quyền chỉ có thể đệ đơn bởi người cho rằng mình thực thụ có một quyền
lợi đối vật, tố quyền này có thể được hành xử để chống lại tất cả các
chủ thể có tranh chấp về sự hiện hữu của quyền đối vật[1]. Theo học
thuyết về tố quyền của Pháp thì tố quyền đối nhân chỉ có thể do trái chủ
hoặc những người kế thừa quyền của họ thực hiện và chỉ được sử dụng đối
với một số người hạn chế, là các chủ thể có nghĩa vụ và những người kế
thừa nghĩa vụ của họ[2].
Về phương diện lý luận, góc nhìn này thực sự có giá
trị tham khảo trong việc xác định người có quyền khởi kiện và tư cách
đương sự trong các vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây
ra. Cơ sở của tố quyền đối nhân chính là quan hệ về nghĩa vụ, mà trong
đó bên có nghĩa vụ đã không thực hiện nghĩa vụ của mình dẫn tới bên chủ
thể có quyền phải cầu viện tới sự can thiệp của công lý để buộc bên có
nghĩa vụ phải thi hành nghĩa vụ của họ. Khi thực hiện tố quyền đối nhân,
việc kiện của người có quyền nhằm hướng tới hành vi thi hành nghĩa vụ
của chính bản thân người có nghĩa vụ, cho nên việc kiện này còn gọi là kiện trái quyền.
Như vậy, căn cứ vào các quy định cụ thể của pháp luật dân sự điều chỉnh
các quan hệ về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, có thể xác định
được chủ thể có quyền lợi và chủ thể có trách nhiệm bồi thường. Đây
chính là cơ sở để xác định người có quyền khởi kiện và người bị kiện :
Người có quyền khởi kiện là người có quyền lợi bị thiệt hại và người có
thể bị kiện phải là người có trách nhiệm bồi thường theo quy định của
pháp luật dân sự.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng từ trước tới nay vẫn đi theo nguyên lý này. Theo
đường lối xét xử về dân sự của Toà án nhân dân tối cao trước đây thì, «
Địa vị tố tụng của mỗi đương sự trong một vụ kiện phản ánh quan hệ giữa
các đương sự với nhau trong một quan hệ pháp luật nhất định nào đó:
người có quyền lợi bị xâm phạm ra trước Toà án với tư cách là nguyên đơn
và người có nghĩa vụ liên quan hoặc phải chịu trách nhiệm tham gia vụ
kiện ở vị trí bị đơn »[3].
Về lý luận, trong các quan hệ về tài sản, do tính
chất đối nhân của nghĩa vụ nên bên có nghĩa vụ không thể tự ý thay đổi
chủ thể của quan hệ nghĩa vụ. Về nguyên tắc chủ thể có quyền lợi trong
vụ kiện đã thực hiện việc khởi kiện hay được người khác khởi kiện để bảo
vệ quyền lợi cho họ được coi là nguyên đơn. Người khởi kiện để bảo vệ
quyền lợi ích của người khác, tuỳ trường hợp sẽ tham gia tố tụng với tư
cách là người đại diện theo pháp luật hay đại diện theo uỷ quyền. Tuy
nhiên, cần phải xét tới các trường hợp ngoại lệ, liên quan tới việc
chuyển quyền theo quy định của pháp luật dân sự. Pháp luật cho phép bên
có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển giao quyền yêu
cầu cho người thế quyền. Khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu
cầu cho người thế quyền thì người thế quyền trở thành bên có quyền yêu
cầu và có thể đứng đơn kiện với tư cách là nguyên đơn dân sự để yêu cầu
bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng hạn định những trường
hợp, theo đó chỉ những chủ thể nhất định mới có quyền yêu cầu người gây
thiệt hại thực hiện nghĩa vụ bồi thường và chỉ có những chủ thể này mới
có thể khởi kiện với tư cách là nguyên đơn. Cụ thể là đối với các yêu
cầu bồi thường tổn thất về tinh thần do xâm phạm đến tính mạng thì chỉ
những người sau đây mới có thể khởi kiện : Người thân thích thuộc hàng
thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, người mà người bị thiệt hại đã
trực tiếp nuôi dưỡng hoặc người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt
hại (Điều 309, 609, 610 BLDS).
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 610 BLDS thì thiệt hại
do tính mạng bị xâm phạm bao gồm, chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi
dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí hợp lý cho
việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có
nghĩa vụ cấp dưỡng. Vấn đề đặt ra là đối với các thiệt hại vật chất do
tính mạng bị xâm phạm này thì ai sẽ là người có quyền khởi kiện. Có thể
nhận thấy đối với khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt
hại có nghĩa vụ cấp dưỡng thì chính những người có quyền cấp dưỡng
(hoặc người đại diện hợp pháp của họ) có thể đứng đơn kiện. Nếu dùng
phương pháp loại trừ thì ta cần phải xác định ai là chủ thể có quyền
khởi kiện để đòi các khoản bồi thường là chi phí hợp lý cho việc cứu
chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí hợp
lý cho việc mai táng. Về nguyên tắc, thì người có quyền kiện với tư
cách là nguyên đơn để đòi những khoản tiền này là người thực tế đã bỏ
tiền ra để chi phí cho người bị thiệt hại đã chết. Tuy nhiên, xét về
thực tế thì thông thường những người thân thích là người thừa kế theo
pháp luật của nạn nhân chính là những người đã bỏ tiền ra để chi phí
nhằm khắc phục thiệt hại, do vậy, những chủ thể này có thể khởi kiện với
tư cách là nguyên đơn. Như vậy, theo suy luận logic trong trường hợp
tính mạng bị xâm hại thì phạm vi những người có quyền khởi kiện để yêu
cầu bồi thường thiệt hại về vật chất có thể rộng hơn phạm vi những người
có quyền khởi kiện để yêu cầu bù đắp những tổn thất về tinh thần.
Theo phân tích ở trên, người cho rằng mình có quyền
lợi bị tranh chấp hay vi phạm có quyền khởi kiện nhưng không có nghĩa là
họ có quyền khởi kiện bất kỳ ai. Việc kiện của nguyên đơn, giả thiết
của họ về ai là người xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình
phải dựa trên cơ sở một quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại do tài
sản gây ra, căn cứ vào các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp
luật này để xác định người mà họ có quyền đi kiện. Thế nhưng theo pháp
luật tố tụng dân sự hiện hành thì, « Bị đơn trong vụ án dân sự là người
bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật
này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm » (khoản 3
Điều 56 BLTTDS 2004). Như vậy, nhà lập pháp dường như đã đồng nhất bị
đơn với người bị kiện. Thiết nghĩ, sẽ hợp lý hơn khi quan niệm rằng bị
đơn trong vụ án dân sự là người bị khởi kiện do giả thiết đã xâm phạm tới quyền lợi của nguyên đơn theo quy định của pháp luật. Tuy việc kiện của nguyên đơn chỉ là một suy đoán về việc người bị kiện có hành vi trái pháp luật hay trách nhiệm nhưng suy đoán đó không phải là một giả tưởng mà phải là một suy đoán có căn cứ dựa trên cơ sở pháp luật.
Trong thực tiễn tố tụng dân sự Việt Nam, đôi khi do
trình độ hiểu biết về pháp luật còn hạn chế nên người đi kiện đã xác
định và khởi kiện không đúng người mà mình có quyền khởi kiện theo quy
định của pháp luật. Chẳng hạn, người bị thiệt hại kiện yêu cầu bồi
thường thiệt hại do tài sản gây ra nhưng lại khởi kiện người không có
trách nhiệm phải bồi thường. Trong những trường hợp đặc biệt này, với tư
cách là cơ quan bảo vệ công lý và cầm cân nảy mực thì vai trò đôn đốc
và hướng dẫn thủ tục tố tụng của Toà án là hết sức cần thiết. Khi nhận
đơn khởi kiện thì bên cạnh việc kiểm tra các điều kiện thụ lý, Toà án có
thể định hướng cho nguyên đơn xác định lại chủ thể mà họ có quyền khởi kiện.
Đối với việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài
sản gây ra thì người bị thiệt hại phải khởi kiện người có trách nhiệm
bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự và trong trường hợp này
người bị khởi kiện là bị đơn. Đối với việc thực hiện nghĩa vụ dân sự
liên đới thì bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người
có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ (Điều 298 BLDS). Trong
trường hợp này, bị đơn trong vụ kiện là một trong số những người có
nghĩa vụ liên đới bị nguyên đơn khởi kiện, những người có nghĩa vụ liên
đới còn lại sẽ tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
Việc xác định ai là người có trách nhiệm bồi thường
phải căn cứ vào quy định của pháp luật dân sự đối với từng trường hợp cụ
thể. Riêng đối với việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra cần căn cứ vào Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày
8/7/2006 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng để xác định người có trách nhiệm trong quan hệ
bồi thường và tư cách bị đơn sẽ thuộc về người có trách nhiệm bồi thường
bị khởi kiện[4].
Theo Điều 626 BLDS thì chủ sở hữu phải bồi thường
thiệt hại do cây cối đổ, gẫy gây ra, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra
hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 200 BLDS thì rừng tự nhiên, rừng trồng
có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước là tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
Như vậy, xét về logic đối với thiệt hại do cây rừng đổ, gẫy gây ra thì
Nhà nước phải bồi thường. Xét về thực tế, thì vấn đề đặt ra là người bị
thiệt hại có thể khởi kiện ai: cơ quan quản lý (UBND tỉnh hay huyện) nơi
có rừng hay chủ thể bị khởi kiện là Nhà nước. Tương tự như vậy, đối với
thiệt hại do cây cối đổ, gẫy tại các khu vực công cộng nơi đô thị gây
ra thì công ty công viên cây xanh có phải là chủ thể có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại hay không cũng là một vấn đề cần được quy định cụ thể
trong pháp luật dân sự và tố tụng dân sự.
Điều 627 BLDS quy định chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản
lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi thường thiệt
hại, nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác đó bị sụp đổ, hư hỏng, sụt
lở gây thiệt hại cho người khác. Như vậy, đối với các công trình xây
dựng như cột điện (thiệt hại do đường dây tải điện gây ra sẽ áp dụng
Điều 623 BLDS), các hố ga, cống ngầm …hư hỏng dẫn tới tai nạn gây thiệt
hại cho người tham gia giao thông thì về nguyên tắc người bị thiệt hại
có thể khởi kiện yêu cầu cơ quan điện lực, cơ quan quản lý các công
trình giao thông công chính bồi thường thiệt hại.
1.2. Việc xác định Toà án có thẩm quyền để thực hiện việc khởi kiện
- Về thẩm quyền sơ thẩm theo cấp Toà án:
Thông thường, các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án nhân
dân cấp huyện. Tuy nhiên, đối với những việc nêu trên nếu có một bên
đương sự đang ở nước ngoài hoặc cần
phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho
Toà án nước ngoài thì người bị thiệt hại phải yêu cầu Toà án cấp tỉnh
thụ lý giải quyết (các điều 33, 34 BLTTDS).
Trên thực tế, Toà án nhân dân tối cao dường như đã
hướng dẫn vận dụng một cách linh hoạt các quy định của BLTTDS về thẩm
quyền sơ thẩm của Toà án các cấp. Nghị quyết số 01 ngày 31 tháng 3 năm
2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã có những hướng
dẫn về việc không thay đổi thẩm quyền giải quyết của Toà án. Theo
đó, đối với vụ việc dân sự đã được Toà án nhân dân cấp huyện thụ lý
giải quyết đúng thẩm quyền, nhưng trong quá trình giải quyết mới có sự
thay đổi, như có đương sự ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho
cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài thì
Toà án nhân dân cấp huyện đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự
đó. Đối với vụ việc dân sự đã được Toà án nhân dân cấp tỉnh thụ lý giải
quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết có sự thay đổi
không còn đương sự ở nước ngoài và không cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ
quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài thì Toà
án cấp tỉnh đã thụ lý có thẩm quyền tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự
đó.
- Về thẩm quyền sơ thẩm theo lãnh thổ:
Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì Toà án
nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất
động sản, đối với các việc kiện không phải là tranh chấp về bất động sản
thì thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được
xác định theo nguyên tắc nơi hiện diện của bị đơn. Như vậy, về nguyên
tắc đối với các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
thì Toà án có thẩm quyền là Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, nếu các đương sự có thoả thuận với nhau bằng văn bản thì cũng có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức (Điều 35 BLTTDS).
Bên cạnh đó, nhà lập pháp cũng đã quy định về quyền lựa chọn của nguyên đơn
trong việc xác định Toà án có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà không cần sự đồng thuận của người bị
kiện. Cụ thể như sau:
Theo quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 36 BLTTDS thì “
Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có
thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra
việc gây thiệt hại giải quyết”. Có thể nhận xét rằng, nhà lập pháp
đương đại dường như đã mở rộng hơn quyền lựa chọn của người bị thiệt hại
trong việc xác định Toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về
bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Trước đây, quy định này chỉ được
áp dụng riêng biệt cho các yêu cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, còn đối với các trường hợp thiệt hại do tài sản gây ra nhưng
không phải là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ thì người bị thiệt hại
chỉ có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú của bị đơn giải quyết[5].
Theo luật thực định nếu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại là trách nhiệm liên đới, do tài sản thuộc sở hữu chung của nhiều
người hoặc chủ sở hữu và người chiếm hữu cùng có lỗi trong việc gây ra
thiệt hại…thì Toà án có thẩm quyền giải quyết là Toà án nơi một trong
các bị đơn cư trú, làm việc hoặc có trụ sở giải quyết. Điểm h Khoản 1
Điều 36 BLTTDS quy định “Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở
nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi một trong
các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết”.
Như vậy, tuỳ theo trường hợp mà Toà án có thẩm
quyền theo lãnh thổ giải quyết việc kiện bồi thường thiệt hại do tài
sản gây ra là Toà án nơi bị đơn, Toà án nơi nguyên đơn hoặc Toà án nơi
xảy ra thiệt hại. Để xác định nơi cư trú của cá nhân là nguyên đơn hay
bị đơn trong vụ kiện, cần căn cứ vào các quy định của BLDS (từ Điều 52
tới Điều 57) và quy định của Luật cư trú 2006 (Điều 12 tới Điều 17).
1.3. Về điều kiện thực hiện quyền khởi kiện
- Về thời hiệu khởi kiện:
Trước đây, đối với các việc kiện yêu cầu bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng pháp luật không quy định về thời hiệu khởi kiện
nên trong thực tế các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản
gây ra không bị giới hạn về thời gian khởi kiện. Thế nhưng, hiện nay
theo Điều 607 BLDS thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân,
chủ thể khác bị xâm phạm. Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 về
hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng có chỉ rõ hai mốc thời gian để xác định thời hạn hai
năm nói trên. Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng phát sinh kể từ ngày 1/1/2005 thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm, kể
từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác
bị xâm phạm. Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng phát sinh trước ngày 1/1/2005 thì thời hiệu khởi kiện được tính từ
ngày 1/1/2005.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là ngày quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm là ngày
nào: Ngày xảy ra sự kiện thiệt hại hay ngày mà quyền được bồi thường của
người bị thiệt hại không được bên gây thiệt hại đáp ứng. Trước hết,
chúng ta nhận thấy là bên cạnh nguyên tắc về thời hiệu theo Điều 607
BLDS thì các quy định mang tính ngoại lệ cho việc xác định thời hiệu
khởi kiện như quy định về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện
(Đ. 161 BLDS), bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện (Đ. 162 BLDS) cũng cần
phải được áp dụng.
Thế nhưng, theo quy định tại Điều 612 BLDS về thời
hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm thì
trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì
người bị thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến khi chết” và nếu người
bị thiệt hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi
còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau đây:
- Người chưa thành niên hoặc người đã thành
thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền
cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp người từ đủ mười
lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập
đủ nuôi sống bản thân;
- Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.
Như vậy, nếu người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả
năng lao động nhưng trong thời hạn hai năm kể từ ngày xảy ra thiệt hại
mà họ không khởi kiện thì họ có mất quyền khởi kiện hay không ? Nếu quan
niệm người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện nữa thì dường như mâu
thuẫn với quy định “người bị thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến khi
chết”. Tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng người bị thiệt hại chỉ
được hưởng bồi thường cho đến khi chết nếu đã khởi kiện khi sự việc còn
thời hiệu khởi kiện, ngược lại nếu không khởi kiện trong thời hạn đó thì
sẽ không được hưởng bồi thường. Nếu giải thích theo hướng này thì quả
thực rất bất lợi cho người bị thiệt hại. Thiết nghĩ, sẽ hợp lý hơn nếu
cho rằng khi hết thời hạn 2 năm kể từ ngày kết thúc việc điều trị người
bị thiệt hại không có quyền khởi kiện với các khoản chi phí để điều trị
nhằm khắc phục thiệt hại, còn đối với các khoản thu nhập bị mất hoặc bị
giảm sút sau khi điều trị thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm tính theo
định kỳ hàng tháng đối với từng khoản thu nhập.
Ngoài ra, trong trường hợp người bị thiệt hại chết
thì cần vận dụng các quy định về thời gian không tính vào thời hiệu khởi
kiện theo Khoản 2 Điều 161 BLDS “Chưa có người đại diện trong trường
hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu chưa thành niên,
mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự” để
bảo đảm quyền lợi hợp pháp của những người mà người bị thiệt hại có
nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống.
Như vậy, cần phải có những hướng dẫn cụ thể trong
việc áp dụng các quy định của BLDS về thời hiệu khởi kiện trong các vụ
việc về yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra để bảo vệ quyền
lợi chính đáng của người bị thiệt hại.
- Về trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án
Về nguyên tắc thì Toà án không thụ lý đối với các
trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm c Khoản 1
Điều 168 BLTTDS về trả lại đơn khởi kiện thì Toà án trả lại đơn khởi
kiện nếu sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án, trừ trường hợp vụ án thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại …Như
vậy, nếu vận dụng các quy định này thì mặc dù trước đó người bị thiệt
hại đã khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại và Toà án đã giải quyết
nhưng sau đó đương sự vẫn có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi mức cấp
dưỡng, mức bồi thường nếu điều kiện sống thay đổi hoặc bệnh tật tái phát
làm phát sinh những khoản chi phí mới để điều trị và bồi dưỡng, phục
hồi sức khoẻ.
1.4. Về vấn đề chứng minh và xác định luật áp dụng
- Về vấn đề chứng minh
Khi thực hiện việc khởi kiện trước Toà án để
yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì về nguyên tắc người
khởi kiện phải có trách nhiệm dẫn chứng các giấy tờ, tài liệu để chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn nếu có yêu
cầu phản tố cũng có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ, tài liệu để chứng
minh.
Trong việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài
sản gây ra thì các chứng cứ tài liệu được cung cấp là để làm rõ những
vấn đề sau đây:
- Có thiệt hại thực tế xảy ra hay không và mức độ thiệt hại
- Người bị khởi kiện có để tài sản gây thiệt hại hay không? ( tức là có sự kiện gây thiệt hai trái pháp luật ).
- Mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện gây thiệt hại và thiệt hại thực tế xảy ra
- Lỗi của người gây thiệt hại, lỗi của người bị thiệt hại
Bốn yếu tố này là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Tuy nhiên, người bị khởi kiện có thể dẫn chứng những
tài liệu để phản bác lại yêu cầu khởi kiện như chứng minh thiệt hại xảy
ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thiệt hại xảy ra trong
trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết.
Về nguyên tắc, các tình tiết được sử dụng để làm căn
cứ cho việc giải quyết vụ kiện đều phải được Toà án chứng minh bằng các
chứng cứ đã được thẩm tra về độ tin cậy và giá trị chứng minh của chúng.
Tuy nhiên, nhà lập pháp cũng quy định một số tình tiết Toà án có thể sử
dụng ngay để giải quyết vụ kiện mà không cần phải chứng minh. Theo quy
định tại Điều 80 BLTTDS thì những tình tiết, sự kiện không phải chứng
minh bao gồm: Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và
được Toà án thừa nhận; những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong
các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Thông thường trong thực tiễn, đối với các trường hợp
vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại tới sức khoẻ người khác nếu đã có
bản án hình sự đã có hiệu lực của Toà án khẳng định chủ thể gây thiệt
hại, lỗi của họ thì khi xử về dân sự Toà án có thể sử dụng ngay kết luận
của bản án hình sự mà không cần tìm kiếm các chứng cứ khác để chứng
minh hành vi trái pháp luật, lỗi của người bị kiện. Trong những trường
hợp này việc chứng minh chỉ tập trung vào xác định thiệt hại thực tế
phát sinh từ việc gây thiệt hại.
Trong các vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài
sản gây ra, người bị thiệt hại có thể cung cấp cho Toà án những tài
liệu, hoá đơn, chứng từ để chứng minh thiệt hại mà họ phải gánh chịu.
Thế nhưng trách nhiệm của Toà án là phải thẩm định lại tính xác thực và
độ tin cậy của những tài liệu này. Trong trường hợp cần thiết Toà án có
thể tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn (ý kiến của bác sĩ điều trị,
hội đồng giám định y khoa đối với thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; kết
luận giám định về nguyên nhân lún nứt công trình xây dựng, về chi phí
thực tế bỏ ra để phục hồi nguyên trạng tài sản…) hoặc tham khảo ý kiến
của cơ quan nơi người lao động làm việc để xác định thu nhập thực tế bị
mất hoặc bị giảm sút. Bên cạnh các tài liệu viết, Toà án cũng cần tiến
hành xem xét trên thực địa; đối chiếu với lời khai của người làm chứng
để thẩm tra lại các tài liệu có trong hồ sơ.
- Về xác định luật áp dụng
Về nguyên tắc, trước hết Toà án phải căn cứ vào các
quy định mang tính nguyên tắc, bao gồm quy định chung về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng (các điều từ 604 đến 607 BLDS) và các
quy định về xác định thiệt hại (các điều từ 608 đến 612 BLDS) để áp dụng
giải quyết. Tuy nhiên, nhà lập pháp cũng đã dự liệu việc bồi thường
thiệt hại trong một số trường hợp cụ thể như bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 623), do súc vật gây ra (Điều 625),
do cây cối gây ra (Điều 626), do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây
ra (Điều 627). Đối với các trường hợp này Toà án cần căn cứ vào cả các quy định mang tính nguyên tắc và các quy định riêng biệt cho từng loại vụ kiện cụ thể để giải quyết.
Trong thực tiễn, cũng nảy sinh các trường hợp thiệt
hại do tài sản gây ra nhưng không thuộc các trường hợp bồi thường thiệt
hại cụ thể đã được nhà lập pháp ấn định. Trong những trường hợp này, Toà
án sẽ áp dụng quy định nào để giải quyết cũng là một vướng mắc và việc
vận dụng trong thực tiễn là không thống nhất. Thiết nghĩ, trước hết các
quy định mang tính nguyên tắc từ Điều 604 tới Điều 612 BLDS cần được
tham chiếu. Bên cạnh đó, cần phải lưu ý tới các quy định tại Điều 3 BLDS
về áp dụng tập quán, quy định tương tự của pháp luật. Chẳng hạn, trong
BLDS có quy định về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 625)
nhưng nếu là thiệt hại do những vật nuôi khác gây ra thì có thể vận dụng
quy định tại Điều 3 và Điều 625 BLDS để giải quyết.
2. Vấn đề thi hành án về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
Sau khi có bản án của Toà án buộc người gây thiệt hại phải bồi thường, về nguyên tắc
trong thời hạn 3 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị
thiệt hại phải làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức việc thi hành
án. Vấn đề đặt ra là để bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại do tài
sản gây ra cơ quan thi hành án dân sự có thể áp dụng các biện pháp cưỡng
chế thi hành án nào?
Xét về bản chất, việc thi hành các bản án, quyết định
của Toà án về bồi thường thiệt do tài sản gây ra thuộc trường hợp thi
hành nghĩa vụ trả tiền. Do vậy, nếu hết thời hạn tự nguyện thi hành án
mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành
án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau đây: Khấu trừ tài khoản,
trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ vào
thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án. Trong phần này chúng ta sẽ lần lượt làm rõ điều kiện,
thủ tục áp dụng ba biện pháp cưỡng chế nói trên.
2.1. Biện pháp khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án
Biện pháp khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi
giấy tờ có giá của người phải thi hành án là một trong ba biện pháp
cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền. Xét về nguyên tắc thì trong trường
hợp người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
do tài sản gây ra thì biện pháp cưỡng chế này sẽ là biện pháp cưỡng chế
đầu tiên được áp dụng. Chấp hành viên chỉ áp dụng biện pháp kê biên tài
sản hoặc trừ vào thu nhập của người phải thi hành án nếu người phải thi
hành án không có tiền, tài khoản, giấy tờ có giá để thi hành án.
- Điều kiện áp dụng
* Theo bản án, quyết định của Tòa án thì người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
* Có căn cứ để xác định người phải thi hành án có tiền, tài khoản, giấy tờ có giá. Hiện
nay, pháp luật không có những quy định cụ thể nhưng về phương diện lý
luận cần phải hiểu rằng ngoài trường hợp người phải thi hành án có tiền
trong tài khoản tại Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng thì
biện pháp cưỡng chế này còn được áp dụng trong trường hợp người phải thi
hành án có tiền, giấy tờ có giá và bản thân họ đang giữ các tài sản này hoặc đang do người thứ ba giữ.
Chỉ sau khi xác minh người phải thi hành án có tiền, tài khoản, giấy tờ có giá thì Chấp hành viên mới
có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế này. Giấy tờ có giá có thể là cổ
phiếu, trái phiếu (như trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung
ương, trái phiếu đầu tư do ngân sách trung ương thanh toán, trái phiếu
ngoại tệ), công trái, thương phiếu, tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân
hàng Nhà nước, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá
khác do Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định còn giá trị thanh toán
(Luật Ngân hàng, Quyết định số 94/2004/QĐ-NHNN ngày 20/01/2004 và Quyết
định số 1022/2004/QĐ-NHNN ngày 17/8/2004).
* Hết thời gian tự nguyện đã được Chấp hành viên ấn
định nhưng người phải thi hành án không tự nguyện thi hành, hoặc chưa
hết thời gian tự nguyện nhưng cần ngăn chặn người phải thi hành án có
hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án.
- Thủ tục áp dụng:
Trước khi ra quyết định khấu trừ tài khoản, trừ vào
tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án tại Ngân hàng,
Kho bạc Nhà nước, Tổ chức tín dụng, Chấp hành viên phải tiến hành xác
minh tại Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, Tổ chức tín dụng. Ngân hàng, tổ
chức tín dụng, kho bạc nhà nước phải cung cấp các thông tin cần thiết về
tiền gửi, tài khoản, giấy tờ có giá của người phải thi hành án cho Chấp
hành viên (Khoản 4 Điều 14 PLTHADS 2004).
Nếu xác định người phải thi hành án có tiền gửi hoặc
có tiền trong tài khoản, giấy tờ có giá tại ngân hàng, tổ chức tín dụng,
kho bạc thì Chấp hành viên lập biên bản về tình trạng tài khoản, tiền
gửi, giấy tờ có giá của người phải thi hành án có tại Ngân hàng, Kho bạc
Nhà nước, tổ chức tín dụng và ra quyết định khấu trừ tương ứng với
nghĩa vụ của người phải thi hành án để thi hành án.
Sau khi ra quyết định cưỡng chế, Chấp hành viên trực
tiếp gửi ngay quyết định đó cho Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, Tổ chức tín
dụng đang giữ tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án và yêu
cầu thủ trưởng các cơ quan, tổ chức này thực hiện quyết định của cơ quan
thi hành án. Khi nhận được quyết định của Chấp hành viên về khấu trừ
vào tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi
hành án đang gửi ở Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng thì Thủ
trưởng cơ quan này có trách nhiệm khấu trừ ngay từ tiền gửi, tài khoản,
giấy tờ có giá của người phải thi hành án để chuyển vào tài khoản của
cơ quan thi hành án, sau đó cơ quan thi hành án chi trả cho người được
thi hành án theo quy định, trừ trường hợp cần chuyển thẳng tới cho người
được thi hành án theo quyết định của cơ quan thi hành án.
Đối với các khoản tiền, giấy tờ có giá của người phải
thi hành án mà họ đang giữ hoặc do người thứ ba (không phải là Ngân
hàng, tổ chức tín dụng, Kho bạc giữ) thì Chấp hành viên lập biên bản thu
giữ số tiền, giấy tờ có giá tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi
hành án đồng thời ra quyết định trừ vào tiền hoặc thu hồi giấy tờ có giá
để thi hành án.
Theo nguyên tắc chung của việc cưỡng chế thi hành án
thì mức khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của
người phải thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi
hành án để thi hành án. Mặc dù pháp luật không có quy định cụ thể về
việc để lại cho người phải thi hành án một khoản tiền tối thiểu khi áp
dụng biện pháp cưỡng chế này nhưng thiết nghĩ, đối với người phải thi
hành án mặc dù có tiền, giấy tờ có giá nhưng lại không có thu nhập khác
để đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình (Chẳng hạn mặc dù có một
khoản tiền tiết kiệm, tiền gửi ở Ngân hàng, có cổ phần ở công ty nhưng
lợi nhuận thu được từ các nguồn này lại là thu nhập chính của họ để duy
trì cuộc sống…) thì khi khấu trừ tuỳ theo hoàn cảnh thực tế của người
phải thi hành án mà Chấp hành viên để lại cho họ một khoản tiền nhất
định để bảo đảm điều kiện sống tối thiểu cho người phải thi hành án và
người mà người phải thi hành án có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng theo
quy định của pháp luật. Đây là một vấn đề thể hiện tính nhân đạo của
pháp luật và phù hợp với đạo lý của con người Việt Nam chúng ta.
2.2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án
Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án là một
biện pháp cưỡng chế thi hành án, do Chấp hành viên áp dụng khi người
phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tài sản
gây ra, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có thu
nhập mà không tự nguyện thi hành án. Biện pháp này được áp dụng trong
các trường hợp thi hành án cấp dưỡng, thi hành án theo định kỳ hoặc
khoản tiền phải thi hành án không lớn hoặc tài sản khác của người phải
thi hành án không đủ để thi hành án; bản án, quyết định của toà án ấn
định biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; do các bên
thoả thuận.
Như vậy, đối với việc thi hành án bản án buộc thực
hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì biện pháp này
có thể áp dụng đối với việc thi hành các khoản về cấp dưỡng hàng tháng,
các khoản thu nhập bị giảm sút phải bồi thường theo định kỳ hoặc trường
hợp đã kê biên những tài sản khác của người phải thi hành án mà vẫn
không đủ để thi hành án.
- Điều kiện áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án
* Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại do tài sản gây ra. Tuy nhiên, khác với các biện pháp
cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền khác (biện pháp trừ vào tài khoản,
tiền, giấy tờ có giá; kê biên và bán tài sản của người phải thi hành
án), biện pháp trừ vào thu nhập thường được áp dụng khi các khoản tiền
mà người phải thi hành án phải thực hiện là các khoản phải cấp dưỡng,
phải trả theo định kỳ hoặc khoản tiền phải thi hành án không lớn.
* Chấp hành viên chỉ được áp dụng biện pháp trừ vào
thu nhập của người phải thi hành án nếu có căn cứ xác định người phải
thi hành án có thu nhập để khấu trừ.
- Thủ tục áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án
* Trước khi tiến hành áp dụng biện pháp trừ vào thu
nhập của người phải thi hành án, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện
thi hành án của người phải thi hành án. Cụ thể là Chấp hành viên phải
tiến hành xác minh xem người phải thi hành án có thu nhập hay không và
mức thu nhập là bao nhiêu ?
* Khi xác định người phải thi hành án có thu nhập để
khấu trừ, Chấp hành viên sẽ ra quyết định trừ vào thu nhập của người
phải thi hành án. Quyết định này phải được gửi cho người được thi hành
án, người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý thu nhập
của người phải thi hành án.
* Cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý thu nhập của
người phải thi hành án sau khi nhận được quyết định phải có trách nhiệm
thực hiện việc khấu trừ thu nhập của người phải thi hành án. Trong thời
hạn không quá 7 ngày làm việc, kể từ ngày khấu trừ thu nhập, cơ quan, tổ
chức, cá nhân nói trên có nghĩa vụ chuyển cho cơ quan thi hành án số
tiền đó để chi trả cho người được thi hành án.
- Mức trừ vào thu nhập
Theo quy định tại khoản 2 Điều 40 Pháp lệnh Thi hành
án dân sự 2004 thì mức cao nhất được trừ vào lương là 30% số lương hàng
tháng. Đối với những khoản thu nhập khác thì mức trừ căn cứ vào thu nhập
thực tế của người phải thi hành án, nhưng phải bảo đảm điều kiện sống
tối thiểu cho người phải thi hành án và người mà người phải thi hành án
có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Việc xác
định mức sinh hoạt tối thiểu của người phải thi hành án và người mà
người đó có nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng được căn cứ vào điều kiện cụ
thể từng địa phương nơi họ sinh sống (khoản 1 Điều 20 Nghị định số
173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004).
2.3. Kê biên, bán tài sản của người phải thi hành án
Kê biên tài sản của người phải thi hành án là một
biện pháp cưỡng chế thi hành án, do Chấp hành viên áp dụng khi người
phải thi hành án có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo bản án, quyết
định của Tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có
điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn do
Chấp hành viên ấn định, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải
thi hành án tẩu tán, huỷ hoại tài sản.
- Điều kiện để áp dụng biện pháp kê biên tài sản
* Theo bản án, quyết định, người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
* Người phải thi hành án có tài sản để thi hành án:
Tài sản này có thể là tài sản riêng của người phải
thi hành án nhưng cũng có thể là tài sản chung với người khác, tài sản
này có thể đang do người phải thi hành án hoặc người thứ ba giữ. Tuy
nhiên, điểm khác biệt cơ bản với biện pháp khấu trừ tài khoản, trừ vào
tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án là trong trường
hợp này người phải thi hành án có tài sản để thi hành án nhưng tài sản
này không phải là tiền, các giấy tờ có thể trị giá được bằng tiền mà là
động sản hoặc bất động sản khác thuộc sở hữu riêng của người phải thi
hành án hoặc sở hữu chung với người khác.
* Hết thời gian tự nguyện đã được ấn định nhưng không
tự nguyện thi hành, hoặc chưa hết thời gian tự nguyện nhưng để ngăn
chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản
- Nguyên tắc kê biên tài sản
Khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản, ngoài việc
phải tuân thủ các nguyên tắc chung về việc thực hiện các biện pháp cưỡng
chế, Chấp hành viên phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
* Mọi tài sản của người phải thi hành án đều có thể
bị kê biên, phong toả để đảm bảo thi hành án, bao gồm tài sản thuộc sở
hữu riêng, tài sản thuộc sở hữu chung với người khác, kể cả quyền sử
dụng đất hoặc tài sản đang do người khác giữ.
* Người phải thi hành án có quyền thoả thuận với
người được thi hành án tài sản được kê biên để đảm bảo thi hành án. Nếu
không thoả thuận được người phải thi hành án có quyền đề nghị kê biên
tài sản nào trước, Chấp hành viên phải chấp nhận nếu xét thấy việc đề
nghị đó không cản trở việc thi hành án.
* Nếu người phải thi hành án không đề nghị kê biên
tài sản nào trước thì tài sản thuộc sở hữu riêng của người phải thi hành
án được kê biên trước. Trong trường hợp người phải thi hành án không có
tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thi hành án thì Chấp hành
viên mới được kê biên phần tài sản của người phải thi hành án trong khối
tài sản thuộc sở hữu chung với người khác.
* Kê biên quyền sử dụng đất, nhà ở, trụ sở của người
phải thi hành án chỉ được tiến hành khi những tài sản khác không đủ để
thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đề nghị kê biên những
tài sản này.
* Chỉ được kê biên tài sản của người phải thi hành án
đủ để đảm bảo thi hành án và thanh toán các chi phí thi hành án. Trong
trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất có giá trị
lớn hơn mức phải thi hành án mà không thể phân chia được hoặc việc phân
chia sẽ làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì chấp hành viên vẫn có
quyền kê biên tài sản đó để đảm bảo thi hành án.
* Đối với tài sản của người phải thi hành án đang
được thế chấp, cầm cố hợp pháp, nếu người phải thi hành án không còn tài
sản nào khác mà tài sản cầm cố, thế chấp có giá trị lớn hơn nghĩa vụ đã
được bảo đảm theo hợp đồng thế chấp, cầm cố, kể cả các chi phí liên
quan đến tài sản thế chấp, cầm cố cộng với chi phí cho việc kê biên, bán
đấu giá tài sản, thì chấp hành viên vẫn kê biên tài sản để đảm bảo thi
hành án mặc dù hợp đồng thế chấp, cầm cố chưa đến hạn, nhưng trước khi
kê biên tài sản Chấp hành viên phải thông báo cho người nhận thế chấp,
cầm cố biết về việc kê biên.
- Những tài sản không được kê biên
Về nguyên tắc, mọi tài sản của người có nghĩa vụ phải
bồi thường theo bản án đều có thể bị kê biên và bán đấu giá để bồi
thường cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, với mục đích nhân đạo, đảm bảo
cuộc sống bình thường của người phải thi hành án nhà lập pháp cũng đã
quy định những loại tài sản của người phải thi hành án mà Chấp hành viên
không được kê biên. Xét theo luật thực định (Điều 42 PLTHADS 2004) và
thực tiễn thi hành án thì những loại tài sản không được kê biên được xác
định tuỳ theo người phải thi hành án về bồi thường là cá nhân hay tổ
chức kinh tế.
* Đối với cá nhân người phải thi hành án, Chấp hành viên không được kê biên những tài sản sau:
- Lương thực, thuốc men cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình.
- Công cụ lao động, quần áo, đồ dùng sinh hoạt thông thường cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình.
- Đồ thờ cúng thông thường là đồ dùng chỉ được sử dụng vào mục đích thờ cúng theo tập quán ở địa phương.
* Đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất
kinh doanh và dịch vụ (gọi chung là tổ chức kinh tế) thuộc mọi thành
phần kinh tế, Chấp hành viên không được kê biên các tài sản sau đây:
- Thuốc men chữa bệnh, phương tiện, dụng cụ,
tài sản thuộc cơ sở y tế, khám chữa bệnh; lương thực, thực phẩm, dụng
cụ, tài sản phục vụ việc ăn giữa ca cho người lao động;
- Nhà trẻ, trường học và các tài sản thuộc các cơ sở này;
- Trang thiết bị, phương tiện, công cụ đảm bảo an toàn lao động, phòng chống cháy nổ, phòng chống ô nhiễm môi trường;
- Cơ sở hạ tầng quan trọng phục vụ lợi ích công cộng, an ninh, quốc phòng;
- Nguyên vật liệu, thành phẩm, bán thành phẩm là các hoá chất độc hại nguy hiểm, hoặc tài sản không được phép lưu hành;
- Số nguyên vật liệu, bán thành phẩm đang nằm trong dây chuyền sản xuất khép kín.
Trên đây, là kết quả nghiên cứu về một số vấn đề liên
quan đến thủ tục giải quyết tranh chấp và thi hành án về bồi thường
thiệt hại do tài sản gây ra. Rất mong nhận được sự trao đổi, đóng góp ý
kiến của các nhà nghiên cứu xung quanh vấn đề này.
[1] Hervé CROZE, Christian MOREL, Olivier FRADIN, Procédure civile, édition Litec 2001, p. 123.
[2] Serge Guinchard et Frédérique Ferrand, Procédure civile, Droit interne et droit communautaire, Dalloz, 28 édition, tr. 127.
[3] Công văn số 5 NCPL ngày 29/6/1966 của Toà án nhân dân tối cao về tư cách bị đơn trong vụ kiện dân sự.
[4] Vấn đề này trước đây đã được hướng dẫn trong
Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo Thông tư số
96 NCPL ngày 8/2/1977 của TANDTC.
[5] Các điều 13, 14 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989.
SOURCE: ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI “TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO TÀI SẢN GÂY THIỆT HẠI – VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”, MÃ SỐ: LH-08-05/ĐHL. HÀ NỘI NĂM 2009
CÁM ƠN TS. TRẦN THỊ HUỆ – CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI ĐÃ CHIA SẺ BÀI VIẾT
VIỆC SỬ DỤNG LẠI BÀI VIẾT PHẢI NHẬN ĐƯỢC SỰ ĐỒNG Ý CỦA TÁC GIẢ
CÁC CHUYÊN ĐỀ THUỘC ĐỀ TÀI
0 comments:
Post a Comment