THS. NGUYỄN MINH OANH – Khoa Pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội
1/ Khái quát về quá trình phát triển của Trách nhiệm BTTH
Trước khi được hiểu là một loại trách nhiệm pháp lý
chịu sự điều chỉnh của Luật tư như hiện nay thì trách nhiệm BTTH đã trải
qua một quá trình phát triển với nhiều giai đoạn thể hiện bản chất khác
biệt. Có thể khái quát các giai đoạn phát triển cơ bản của trách nhiệm
BTTH như sau[1]:
Giai đoạn thứ nhất: Trong thời kỳ cổ đại, khi chính
quyền trong xã hội còn chưa được tổ chức một cách vững chãi, các cá
nhân, mỗi khi bị xâm phạm vào quyền lợi được tự ý trả thù để trừng phạt
đối phương, hoặc bắt đối phương làm nô lệ, hay lấy tài sản của họ. Chế
độ này còn được gọi là chế độ tư nhân phục thù.
Trong giai đoạn thứ hai, người gây ra sự tổn hại có
thể nộp một số tiền chuộc hay thục kim cho nạn nhân để tránh trả thù.
Chế độ này còn được gọi là chế độ thục kim. Chế độ thục kim đã trải qua
hai giai đoạn phát triển: 1) Khi chưa có sự can thiệp của pháp luật, các
bên tự thoả thuận với nhau về tiền chuộc, đó là chuộc lỗi tự nguyện; 2)
Nhờ sự can thiệp của chính quyền, các bên tranh chấp bắt buộc phải giải
quyết tranh chấp bằng cách trả cho nhau số tiền chuộc lỗi theo ngạch
giá do pháp luật quy định, đó là chế độ thục kim bắt buộc. Tiền thục kim
này có thể coi như vừa là một hình phạt, vừa có tính chất bồi thường
thiệt hại. Vào thời kỳ Luật 12 bảng, Cổ luật La Mã mới bắt đầu chuyển từ
chế độ tự ý thục kim sang bắt buộc thục kim.
Giai đoạn thứ ba, chứng kiến sự phân biệt hai trách
nhiệm hình sự và dân sự . Chính quyền, trước hết, can thiệp để trừng
phạt những tội phạm chỉ liên quan đến trật tự xã hội, không liên hệ đến
cá nhân. Sự can thiệp này rất cần thiết, vì nếu không có sự thanh trừng
của xã hội, những vụ phạm pháp này không được chú ý tới vì không làm hại
trực tiếp đến quyền lợi của tư nhân. Sự can thiệp của chính quyền dần
dần được nới rộng đến sự phạm pháp liên quan đến quyền lợi của các cá
nhân như các vụ ẩu đả, trộm cắp. Về phương diện hình sự, cá nhân mất hết
quyền phục thù và chỉ còn quyền xin bồi thường tổn hại của mình về dân
sự.
Tuy trong một số trường hợp, Luật La Mã đã tiến
tới sự phân biệt hai trách nhiệm hình sự và dân sự, nhưng nhà làm luật
chưa quy định được hẳn một nguyên tắc trách nhiệm tổng quát, bắt buộc
người gây ra sự tổn thất phải bồi thường thiệt hại bất luận trường hợp
nào.
Ở Việt Nam, cổ luật cũng không tách biệt trách nhiệm
BTTH là một loại trách nhiệm thuộc luật tư và cũng chỉ giải quyết các
vấn đề thuộc trật tự công. Vì vậy, các điều luật trong bộ luật cổ như bộ
Quốc triều Hình luật của nhà Lê hay Hoàng Việt Luật lệ của Gia Long đều
quy định các điều khoản trách nhiệm về luật hình ví dụ: Điều 582 Quốc
triều hình luật đã quy định “Nếu những súc vật và chó đã húc, đá và
cắn người mà cách làm hiệu và ràng buộc không đúng phép – (theo đúng
phép vật nào hay húc người thì phải cắt hai sừng, đá người thì phải buộc
hai chân, cắn người thì phải cắt hai tai)- hay là chó dại mà không giết
thì người chủ phải phạt 60 lượng. Nếu vì cớ trên, có người chết hay bị
thương thì phải tội quá thất. Nếu cố ý thả ra để làm cho người chết hay
bị thương thì phải tội kém tội đánh người bị thương hay đánh chết người
một bậc. Người được thuê đến để chữa bệnh cho súc vật, hay là người cố
trêu trọc những vật kia, mà bị thương hay chết, thì người chủ không phải
tội”
Tuy nhiên, trong một vài trường hợp đặc biệt, cổ luật
Việt Nam cũng quy định sự bồi thường. Đối với trường hợp đánh người bị
thương, điều 468 Quốc triều hình luật đã quy định sự nuôi bảo cô. Thí
dụ: đánh bị thương bằng chân tay thì phải nuôi 10 ngày, bằng vật khác
thì phải nuôi 20 ngày, bằng thứ có mũi nhọn hay bằng nước sôi, lửa, thì
phải nuôi 40 ngày, đánh gãy xương thì phải nuôi 80 ngày…. Nhưng ngoài
những trường hợp đặc biệt, Cổ luật Việt Nam không phân biệt rõ rệt hai
trách nhiệm hình sự và dân sự và cũng không nêu lên một nguyên tắc tổng
quát nào về trách nhiệm dân sự.
Ở giai đoạn hiện nay, trách nhiệm BTTH được quy định
và điều chỉnh bởi Luật tư và các nguyên tắc tổng quát về trách nhiệm này
đã được đặt ra ở tất cả các nước. Ở Việt Nam, BTTH hiện nay được hiểu
là một loại trách nhiệm Dân sự theo đó người có hành vi gây ra thiệt hại
cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
2/ Khái niệm Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Về mặt lý luận, khi nghiên cứu về trách nhiệm BTTH
thì tìm hiểu về khái niệm và những đặc điểm nổi bật của trách nhiệm BTTH
là một việc làm cần thiết phải được coi trọng.
2.1. Khái niệm trách nhiệm BTTH
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì
trách nhiệm BTTH được BLDS 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm
BTTH nói chung và chương XXI về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần
này đều không nêu rõ khái niệm trách nhiệm BTTH mà chỉ nêu lên căn cứ
phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm,
thời hạn hưởng bồi thường…
Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy
rằng, mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của
xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình
gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành
vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp
tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại (BTTH).
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm BTTH là một loại
trách nhiệm Dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý
của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà
mình gây ra.
2.2. Đặc điểm của trách nhiệm BTTH
Là một loại trách nhiệm pháp lý nên ngoài những đặc
điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn
mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện
bằng cưỡng chế nhà nước…. thì trách nhiệm BTTH còn có những đặc điểm
riêng sau đây:
- Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm BTTH là một loại
trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi một
người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và
bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều
chỉnh và được quy định trong BLDS ở Điều 307 và Chương XXI và các văn
bản hướng dẫn thi hành BLDS.
- Về điều kiện phát sinh: trách nhiệm BTTH chỉ đặt ra
khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có
hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp
đồng), có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại
xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt
buộc). Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một
người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm BTTH có thể phát sinh khi không
có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra.
- Về hậu quả: trách nhiệm BTTH luôn mang đến một hậu
quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người
gây ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng
tiền hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất
định nếu không sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những
thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ
được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho
người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi
thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.
- Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực
tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm BTTH còn được áp dụng cả
đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên,
người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp
nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ
chức khác như cơ sở dạy nghề…
3/ Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại
3.1. Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng và trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo
hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ xác định cơ
sở giải quyết bồi thường theo hợp đồng và ngoài hợp đồng sẽ rất khác
nhau. Chính vì vậy, xác định được rõ hai loại trách nhiệm này sẽ giúp
cho việc áp dụng pháp luật dân sự một cách đúng đắn.
* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là
loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ
theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm
bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Như vậy, cơ sở để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao gồm:
- Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng phải
dựa trên cơ sở một hợp đồng có trước tức là giữa người được hưởng bồi
thường và người gây ra thiệt hại trước đó phải có một quan hệ hợp đồng.
Nếu giữa hai bên không tồn tại một hợp đồng nào thì
nếu có thiệt hại xảy ra bao giờ cũng sẽ là những thiệt hại phát sinh
ngoài hợp đồng và bên gây thiệt hại chỉ có thể phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chính vì vậy, BTTH trong trường hợp
hợp đồng vô hiệu, hủy bỏ hợp đồng và vi phạm đề nghị giao kết hợp đồng
là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bởi lẽ hợp đồng chưa được giao
kết giữa các bên hoặc được coi là chưa hề tồn tại.
- Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng chỉ phát sinh khi có
hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng tức là không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng hợp đồng gây ra. Nếu giữa các bên tồn tại quan hệ hợp
đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không phải là do vi phạm hợp đồng thì
trách nhiệm phát sinh cũng không phải là trách nhiệm theo hợp đồng. Ví
dụ, A thuê B đến sơn lại nhà cho mình. Trong quá trình làm việc, B đã ăn
trộm chiếc điện thoại của A và đã bán cho người khác. Trong trường hợp
này không thể tìm lại chiếc điện thoại thì A chỉ có thể khởi kiện B yêu
cầu BTTH ngoài hợp đồng.
- Chủ thể gây thiệt hại và người bị thiệt hại chính
là các bên trong quan hệ hợp đồng đó. Bồi thường thiệt hại theo hợp đồng
được áp dụng khi hành vi gây thiệt hại là hành vi vi phạm nghĩa vụ theo
hợp đồng. Hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng chỉ có thể làm ảnh
hưởng đến lợi ích của các bên tham gia trong hợp đồng đó. Do đó, nếu
người thứ ba có lỗi để gây ra thiệt hại cho một bên trong hợp đồng hoặc
một bên trong hợp đồng gây ra thiệt hại cho người thứ ba thì trách nhiệm
dân sự phát sinh chỉ có thể là trách nhiệm ngoài hợp đồng. Trường hợp
này không áp dụng đối với hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba bởi lẽ
đây là trường hợp ngoại lệ vì người thứ ba cũng là người có quyền lợi
liên quan và được đề cập đến trong hợp đồng.
* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi
phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình
gây ra.
Nếu trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng được
phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngoài
hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với
người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ chức
khác.
So với trách nhiệm BTTH theo hợp đồng thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có một số khác biệt như sau:
- Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do
pháp luật quy định. Khác với các loại trách nhiệm pháp lý khác thì trách
nhiệm dân sự có thể phát sinh trên cơ sở sự thoả thuận của các bên. Tuy
nhiên, trách nhiệm phát sinh trên cơ sở thoả thuận của các bên chỉ có
thể là trách nhiệm theo hợp đồng ví dụ như buộc phải thực hiện nghĩa vụ
theo hợp đồng, phạt vi phạm và/ hoặc BTTH.
- Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật
quy định. Các điều kiện đó là: Có
thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Tuy nhiên, BTTH
theo hợp đồng, do cơ sở phát sinh trách nhiệm là do các bên bên thoả
thuận nên các bên cũng có thể thoả thuận đặt ra các điều kiện phát sinh
có thể không bao gồm đầy đủ những điều kiện trên như bên vi phạm hợp
đồng không có lỗi cũng vẫn phải BTTH…
- Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài
hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật thì
còn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên,
người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của
pháp nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề…. Tuy nhiên, trách
nhiệm BTTH theo hợp đồng chỉ có thể áp dụng đối với các bên tham gia hợp
đồng mà không thể áp dụng đối với người thứ ba. Hay nói các khác, các
chủ thể trong hợp đồng không thể thoả thuận bất kỳ ai không tham gia hợp
đồng sẽ phải chịu trách nhiệm BTTH mà không được sự đồng ý của họ.
- Về mức bồi thường: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt
hại xảy ra. Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường hợp đặc biệt
đó là người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so
với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ. Còn đối với BTTH theo
hợp đồng thì các bên có thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức bồi
thường bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh
trách nhiệm BTTH thì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên thoả
thuận.
Việc phân biệt trách nhiệm BTTH theo hợp đồng và
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đặc biệt có ý nghĩa trong việc thực hiện
nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Đối với trách nhiệm BTTH theo hợp
đồng nguyên đơn chỉ cần chứng minh thiệt hại là do người gây thiệt hại
đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng gây ra còn trong
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng bên bị thiệt hại ngoài việc chứng minh
thiệt hại còn phải chứng minh hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp
luật.
Một vấn đề được đặt ra là trong trường hợp một bên có
nghĩa vụ theo hợp đồng nhưng nghĩa vụ đó cũng được pháp luật quy định
thì khi vi phạm những nghĩa vụ đó sẽ phát sinh trách nhiệm theo hợp đồng
hay ngoài hợp đồng và người bị thiệt hại có thể lựa chọn một trong hai
loại trách nhiệm để kiện yêu cầu bồi thường hay không? Ví dụ bác sỹ chữa
bệnh cho bệnh nhân rồi lại vi phạm quy định về mổ xẻ hoặc bảo mật thông
tin? Hành khách đi trên phương tiện vận chuyển bị thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ? Chúng ta nhận thấy rằng, trong trường hợp này rõ ràng đã
có căn cứ để làm phát sinh trách nhiệm BTTH theo hợp đồng vì bên gây
thiệt hại đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng và như vậy thì
bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu BTTH theo hợp đồng trên cơ sở thoả
thuận của các bên. Theo tác giả, trong trường hợp các chủ thể trong quan
hệ pháp luật dân sự đã cụ thể hoá những nghĩa vụ do pháp luật quy định
vào trong hợp đồng và thoả thuận đó có thể khác pháp luật thì pháp luật
vẫn sẽ tôn trọng sự thoả thuận của họ nếu thoả thuận đó là không vi phạm
điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Chính vì vậy khi
phát sinh trách nhiệm thì các bên cũng chỉ có thể áp dụng một phương
thức là kiện yêu cầu BTTH theo hợp đồng chứ không thể tự do lựa chọn
phương thức có lợi nhất cho mình. Ví dụ hành khách bị thiệt hại về tính
mạng mà theo hợp đồng vận chuyển hành khách các bên có thoả thuận mức
bồi thường thấp hơn mức bồi thường do pháp luật quy định về BTTH ngoài
hợp đồng trong trường hợp bị xâm phạm về tính mạng thì bên bị thiệt hại
cũng chỉ có thể yêu cầu bồi thường theo hợp đồng mà thôi.
3.2. Trách nhiệm BTTH vật chất và trách nhiệm BTTH về tinh thần
Căn cứ vào lợi ích bị bị xâm phạm và những thiệt hại
xảy ra mà trách nhiệm BTTH được phân thành trách nhiệm BTTH về vật chất
và trách nhiệm bù đắp tổn thất về tinh thần.
Trách nhiệm BTTH về vật chất là trách nhiệm bồi
thường tổn thất vật chất thực tế được tính thành tiền do bên vi phạm gây
ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế,
khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút.
Trách nhiệm BTTH về tinh thần được hiểu là người gây
thiệt hại cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm,
xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù
đắp những tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại như sự buồn rầu,
lòng đau thương…
Việc phân biệt hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa
trong việc xác định nghĩa vụ chứng minh và mức bồi thường: Về nguyên
tắc, người bị thiệt hại phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại xảy ra và
mức bồi thường sẽ bằng mức thiệt hại. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ có
thể áp dụng đối với trường hợp đó là trách nhiệm BTTH về vật chất còn
trong trường hợp BTTH về tinh thần thì rõ ràng những tổn thất về tinh
thần là những tổn thất không thể nhìn thấy, không thể tính toán và không
thể chứng minh được. Chính vì vậy, trong trường hợp này pháp luật cần
quy định một mức nhất định để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng
trong trường hợp một người có hành vi xâm phạm đến các quyền nhân thân
của người khác.
3.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
Căn cứ vào nguyên nhân gây ra thiệt hại, trách nhiệm
BTTH được phân chia thành trách nhiệm BTTH do hành vi của con người gây
ra và trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra.
Trách nhiệm BTTH do hành vi của con người gây ra được
hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi thiệt hại xảy ra
là kết quả tất yếu của hành vi của con người gây ra. Trường hợp này
người gây thiệt hại đã thực hiện hành vi dưới dạng hành động hoặc không
hành động và hành vi đó chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại phát sinh khi tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại
như hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, cây cối đổ gẫy
gây ra thiệt hại, nhà công trình xây dựng bị sụt, đổ gây thiệt hại, gia
súc gây thiệt hại…
Việc phân loại hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa
trong việc xác định căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH : Đối với
trường hợp BTTH do hành vi gây ra thì một điều kiện không thể thiếu là
hành vi gây thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật. Trong khi đó, BTTH
do tài sản gây ra vì không có hành vi nên điều kiện này không thể được
xem xét đến.
Ngoài ra, việc phân loại này còn có ý nghĩa trong
việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường: Về nguyên tắc thì
người nào có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại thì người đó phải
BTTH do mình gây ra còn đối với BTTH do tài sản gây ra thì về nguyên tắc
trách nhiệm lại thuộc về chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao
quản lý tài sản đó chứ không phải thuộc về tất cả mọi người đang chiếm
giữ tài sản đó.
Hiện nay, BLDS Việt Nam chưa quy định về trường hợp
một người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản như chiếm hữu thông qua hợp
đồng dân sự (ví dụ thông qua hợp đồng thuê, mượn, gửi giữ …) hoặc chiếm
hữu tài sản do pháp luật quy định (chiếm hữu tài sản bị đánh rơi, bỏ
quên, gia súc, gia cầm thất lạc…) mà tài sản này gây thiệt hại cho người
khác thì ai phải bồi thường thiệt hại. Xét về nguyên tắc theo quy định
của pháp luật hiện nay thì chủ sở hữu vẫn phải chịu trách nhiệm bồi
thường. Theo tác giả thì quy định như vậy sẽ không phù hợp vì trong
trường hợp này chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu của mình cho
người khác và việc kiểm soát, quản lý tài sản đã nằm ngoài ý chí của chủ
sở hữu. Trong trường hợp này, pháp luật cần quy định về người phải chịu
trách nhiệm BTTH là người chiếm hữu hợp pháp bởi lẽ tài sản hiện đang
thuộc quyền nắm giữ, quản lý và kiểm soát của những người này.
3.4. Trách nhiệm liên đới và trách nhiệm riêng rẽ
Căn cứ vào mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể, trách nhiệm BTTH được phân loại thành trách nhiệm liên đới và
trách nhiệm riêng rẽ.
BTTH liên đới được hiểu là trách nhiệm nhiều người mà
theo đó thì mỗi người trong số những người có trách nhiệm phải chịu
trách nhiệm đối với toàn bộ thiệt hại và mỗi người trong số những người
có quyền đều có quyền yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường toàn
bộ cho mình.
BTTH riêng rẽ là trách nhiệm nhiều người mà theo đó
thì mỗi người có trách nhiệm chỉ phải chịu trách nhiệm đối với phần
thiệt hại do mình gây ra và mỗi người trong số những người có quyền cũng
chỉ có quyền yêu cầu người gây thiệt hại bồi thường những tổn thất mà
mình phải gánh chịu.
Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định
cách thức thực hiện nghĩa vụ, căn cứ phát sinh, chấm dứt nghĩa vụ để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Đối với trách nhiệm liên đới
thì khi một bên thực hiện xong phần nghĩa vụ của mình trách nhiệm vẫn
chưa chấm dứt mà họ còn phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ thiệt hại.
Khi một người gây thiệt hại đã thực hiện trách nhiệm bồi thường thì sẽ
phát sinh nghĩa vụ hoàn lại giữa những người có trách nhiệm khác với
người đó và khi một người trong số những người bị thiệt hại đã yêu cầu
người gây thiệt hại bồi thường toàn bộ thiệt hại cho mình thì phải hoàn
lại phần tương ứng cho những người bị thiệt hại khác.
Đối với trách nhiệm riêng rẽ thì khi một người thực
hiện xong phần nghĩa vụ của mình hoặc khi một người có quyền yêu cầu đã
yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với mình thì quan hệ
nghĩa vụ của họ với người khác sẽ chấm dứt.
3.5. Trách nhiệm hỗn hợp và trách nhiệm độc lập.
Căn cứ vào yêú tố lỗi và mức độ lỗi của cả người gây
thiệt hại và người bị thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể
được phân thành trách nhiệm hỗn hợp và trách nhiệm độc lập.
Trách nhiệm hỗn hợp là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà trong đó cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi.
Trách nhiệm độc lập là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà người bị thiệt hại là người hoàn toàn không có lỗi.
Việc phân biệt hai loại trách nhiệm này sẽ có ý nghĩa
trong việc xác định trách nhiệm bồi thường và mức thiệt hại vì theo quy
định tại Điều 617 BLDS thì khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong
việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần
thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn
toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải
bồi thường.
3.6. Trách nhiệm bồi thường của cá nhân, trách nhiệm BTTH của pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường Nhà nước.
Căn cứ vào chủ thể chịu trách nhiệm, trách nhiệm BTTH
được phân loại thành trách nhiệm BTTH của cá nhân, trách nhiệm BTTH của
pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường Nhà nước.
Trách nhiệm BTTH của cá nhân được hiểu là trách nhiệm
dân sự mà theo đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cá nhân
người gây thiệt hại hoặc đại diện theo pháp luật của người đó như cha
mẹ, người giám hộ.
Trách nhiệm BTTH pháp nhân và các tổ chức khác được
hiểu là trách nhiệm dân sự phát sinh cho pháp nhân hoặc các tổ chức khác
trong trường hợp người của pháp nhân và các tổ chức gây thiệt hại trong
khi thực hiện nhiệm vụ pháp nhân hoặc tổ chức giao cho.
Trách nhiệm bồi thường Nhà nước được hiểu là khi cán
bộ, công chức gây thiệt hại thuộc phạm vi bồi thường Nhà nước thì Nhà
nước phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại chứ không phải
chính cán bộ công chức hay cơ quan quản lý cán bộ công chức phải bồi
thường.
Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định chủ
thể phải bồi thường và việc xác định nghĩa vụ hoàn lại: Đối với trường
hợp người của pháp nhân hoặc tổ chức gây thiệt hại trong khi thực hiện
nhiệm vụ được pháp nhân giao do đó hành vi của họ được hiểu là hành vi
của pháp nhân chính vì vậy theo quy định của pháp luật dân sự (Điều 618,
619, 620, 621) thì trách nhiệm trước hết thuộc về pháp nhân, tổ chức.
Sau khi người có trách nhiệm bồi thường đã thực hiện xong thì nếu người
gây thiệt hại có lỗi sẽ làm phát sinh nghĩa vụ hoàn lại của người có
hành vi gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức đó.
Ngoài ra, việc phân loại này còn có ý nghĩa trong
việc xác định trách nhiệm bồi thường, trình tự, thủ tục bồi thường… bởi
lẽ nếu là trách nhiệm Nhà nước thì sẽ bị giới hạn phạm vi áp dụng do đặc
thù Nhà nước là một chủ thể đặc biệt thực hiện việc quản lý Nhà nước,
quản lý xã hội; tiền bồi thường thuộc ngân sách Nhà nước do đó việc thực
hiện trình tự, thủ tục bồi thường cũng không giống với trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thông thường. Trong thời gian tới, khi Luật Bồi thường
Nhà nước được ban hành sẽ quy định một cách rõ ràng, cụ thể hơn về vấn
đề này.
Ngoài ra, nếu căn cứ vào lĩnh vực bồi thường thì
trách nhiệm BTTH có thể được phân loại thành bồi thường trong lĩnh vực
hành chính, hình sự, tố tụng hình sự, sở hữu trí tuệ; căn cứ vào số
lượng chủ thể chịu trách nhiệm có thể phân trách nhiệm BTTH thành trách
nhiệm một người và trách nhiệm nhiều người; căn cứ vào điều kiện lỗi có
thể phân thành trách nhiệm BTTH có yếu tố lỗi và bồi thường thiệt hại
không cần có yếu tố lỗi; căn cứ các yếu tố có liên quan đến pháp luật
nước ngoài hay không có thể phân trách nhiệm BTTH thành trách nhiệm BTTH
trong nước và trách nhiệm BTTH có yếu tố nước ngoài … Tuy nhiên, những
cách phân loại này không có nhiều ý nghĩa nên không được đề cập đến
trong phạm vi bài viết này./.
[1] Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật lược khảo, quyển 2,
nghĩa vụ và khế ước, in lần 1, 1963,Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, tr.
437 và cuốn Từ điển Bách khoa toàn thư
SOURCE: ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI “TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO TÀI SẢN GÂY THIỆT HẠI – VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”, MÃ SỐ: LH-08-05/ĐHL. HÀ NỘI NĂM 2009
CÁM ƠN TS. TRẦN THỊ HUỆ – CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI ĐÃ CHIA SẺ BÀI VIẾT
VIỆC SỬ DỤNG LẠI BÀI VIẾT PHẢI NHẬN ĐƯỢC SỰ ĐỒNG Ý CỦA TÁC GIẢ
CÁC CHUYÊN ĐỀ THUỘC ĐỀ TÀI
0 comments:
Post a Comment