Friday, November 22, 2013

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 01/2006/DS-GDT NGÀY 21 THÁNG 2 NĂM 2006 VỀ VỤ ÁN "TRANH CHẤP THỪA KẾ"

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Ngày 21 tháng 2 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao, đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
Ông Lại Hữu Minh;
Ông Lại Hữu Hiền;
Ông Lại Hữu Lệ;
Cùng trú tại thôn Nghiêm Thôn, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Bà Lại Thị Tuyên: trú tại thôn Guột, xã Việt Hùng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Ông Lại Hữu Hiển: trú tại khu 1, xã Thị Cầu, thị xã Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
2. B đơn: Anh Lại Hữu Vận: trú tại khu 3, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.


3. Ngưi có quyn li và nghĩa v liên quan:
- Bà Trần Thị Mỹ;
- Anh Lại Hữu Thắng;
- Chị Lại Thị Oanh;
- Chị Lại Thị Yến;
- Chị Lại Thị Hợi;
- Bà Bùi Thị Giang;
Cùng trú tại khu 5, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Bà Bùi Thị Hải: trú tại nhà B3, tập thể đ•ờng sắt Kim Liên, thành phố Hà Nội.
- Bà Bùi Thị Lan: trú tại thôn Yên Mẫu, xã Kinh Bắc, thị xã Bắc Ninh, 173 tỉnh Bắc Ninh.
- Nguyễn Thị Phán: trú tại khu 3, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Cụ Lại Hữu Cận có 2 vợ:
NHẬN THẤY:
- Vợ thứ nhất của cụ Cận là cụ Nguyễn Thị Nhớn. Cụ Nhớn và cụ Cận có năm con đẻ gồm các ông, bà: Lại Thị Tuyên, Lại Hữu Minh, Lại Hữu Nội (chết lúc nhỏ), Lại Hữu Lợi (hy sinh năm 1969, không có vợ con), Lại Hữu Quang (chết tháng 5 -1983, có hai vợ: Vợ cả là bà Cúc, đã ly hôn, có một con chung là anh Vận. Vợ thứ hai của ông Quang là bà Trần Thị Mỹ, có bốn con là các anh, chị: Lại Thị Oanh, Lại Thị Yến, Lại Thị Hợi, Lại Hữu Thắng). Cụ Cận và cụ Nhớn có một con nuôi là bà Bùi Thị Chung (chết năm 1998, có ba con là chị Bùi Thị Giang, chị Bùi Thị Hải và chị Bùi Thị Lan).
- Vợ thứ hai của cụ Cận là cụ Trần Thị Hoà. Cụ Hoà và cụ Cận có 3 con chung gồm các ông, bà: Lại Hữu Hiền, Lại Hữu Hiển và Lại Hữu Lệ.
Cụ Nhớn chết năm 1946. Cụ Cận chết tháng 3-1983. Cụ Hoà chết năm 1984. Cả ba cụ đều không có di chúc.
Cụ Cận và cụ Nhớn có tài sản chung là ngôi nhà tranh và quyền sử dụng 378,5m2 đất từ tr•ớc khi cụ Cận kết hôn với cụ Hoà.
Năm 1964, cụ Cận và cụ Hoà phá nhà tranh, làm lại thành nhà bốn gian lợp ngói và ba gian công trình phụ. Sau khi cụ Cận mất, cụ Hoà đ•ợc ông Lại Hữu Hiền đón về nuôi, nên ngôi nhà của cụ Cận và cụ Hoà bỏ không; ông Lại Hữu Minh yêu cầu anh Lại Hữu Vận đến ở để trông nom nhà đất. Năm 1986, anh Vận dỡ nhà cũ của các cụ và làm lại nhà mới. Khung, vật liệu nhà cũ của cụ Cận và cụ Hoà đ•ợc anh Vận giao cho ông Lệ sử dụng.
Tại đơn khởi kiện ngày 25-2-1995, các nguyên đơn gồm ông Lại Hữu Minh, bà Lại Thị Tuyên, ông Lại Hữu Hiền, ông Lại Hữu Hiển và ông Lại Hữu Lệ yêu cầu anh Lại Hữu Vận phải trả lại các ông, bà di sản thừa kế của cụ Cận, cụ Nhớn và cụ Hoà mà anh Vận đang quản lý gồm ngôi nhà trên diện tích khoảng 360m2 đất và một bộ đỉnh đồng. Tại các lời khai tiếp theo, các nguyên đơn yêu cầu đ•ợc chia di sản thừa kế của cụ Cận, cụ Nhớn và cụ Hoà gồm ngôi nhà trên diện tích 378,5m2 đất và một bộ đỉnh đồng. Các nguyên đơn không công nhận có sự việc anh Vận vì trông nom nhà đất là di sản của các cụ mà anh Vận phải trả cho hợp tác xã Lại Nghiêm, xã Phương Mao 240m2 đất.
Theo anh Lại Hữu Vận khai: khi còn sống, cụ Cận đã hai lần tuyên bố trong buổi họp gia đình là cho ông Lại Hữu Quang (bố anh) nhà đất hiện các nguyên đơn đang tranh chấp để ông Quang thờ cúng tổ tiên. Ông Lại Hữu Minh và ông Lại Hữu Lệ đã được các cụ cho đất; ông Lại Hữu Hiền đã đ•ợc chính quyền địa ph•ơng cấp đất. Khi chưa về ở nhà đất của các cụ, anh Vận đã đ•ợc hợp tác xã Lại Nghiêm, xã Ph•ơng Mao cấp cho 240m2 đất ở ven đường. Do phải trông nom nhà đất của các cụ, nên ngày 15 -10-1983 anh đã trả lại 240m2 đất cho hợp tác xã Lại Nghiêm, xã Ph•ơng Mao và anh xin đ•ợc sử dụng nhà đất của các cụ, đ•ợc chính quyền xã Ph•ơng Mao xác nhận ngày 16-11-1983. Trong quá trình sử dụng, vợ chồng anh Vận đã nâng nền, cải tạo đất. Anh Vận không đồng ý trả lại tài sản là nhà đất theo yêu cầu của các nguyên đơn.
Ông Lại Hữu Lệ không yêu cầu được hưởng di sản thừa kế.
Bà Trần Thị Mỹ cùng các thừa kế của ông Lại Hữu Quang gồm chị Lại Thị Oanh, chị Lại Thị Yến, anh Lại Hữu Thắng, chị Lại Thị Hợi công nhận lời khai của anh Vận là đúng và nh•ờng kỷ phần thừa kế đ•ợc h•ởn g của ông Quang cho anh Vận.
Các thừa kế của bà Bùi Thị Chung gồm chị Bùi Thị Giang, chị Bùi Thị Hải và chị Bùi Thị Lan nh•ờng phần thừa kế của bà Chung mà các chị đ•ợc h•ởng cho anh Lại Hữu Vận.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 05 ngày 19 -6-1996, Toà án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc đã quyết định:
Hu vic chng nhn giao đất ca c Cn cho anh Vn ca U ban nhân dân Phương Mao.
Giao cho anh Vn đưc s hu phn tài sn tha kế ca ông Li Hu Quang tr giá 82.320.000đ (tám m•ơi hai triu ba trăm hai m•ơi ngàn đồng chn), mt ngôi nhà 3 gian anh đã xây dng và s dng đất din tích phía bc giáp đưng 18 là 9,3m k t giáp u đin kéo v phía đông, phía tây giáp b•u đin, phía nam giáp u đin là 8,67m, din tích đất là 188m2 tr giá 206.800.000đ, nhưng đưc tr đi 4.980.000đ tin anh đổ đất, 13 triu đồng tin công trình ph đổ trn và 82.320.000đ tin chia tha kế phi tr cho ông Minh, bà Tuyên, ông Hin, ông Hin 106.500.000đ tin giá tr chia tha kế ca cCn; anh Vn phi tháo d toàn b công trình đã xây dng trên phn đất còn li ca c Cn tr công trình ph đã đổ trn đã tính tin để giao cho ông Minh và ông Hin.
Ông Minh và ông Hin đc s hu mt cây da, công trình ph đổ trn, mt b n•c và s dng phn đất ca c Cn c òn li phía bc giáp đng 18, phía đông giáp nhà ông L, phía tây giáp b•u đin, phía nam giáp b•u đin din tích là 190,5m2 tr giá 319.590.000đ và nhn anh Vn 106.500.000đ tin chênh lch tài sn tha kế và 13 triu giá tr ca công trình ph anh Vn xây để li trên đất, phi tr cho bà Tuyên 82.320.000đ, ông Hin 82.320.000đ tin chia tài sn tha kế.
án phí: Ông Minh phải chịu 2 triệu đồng, anh Vận, ông Hiển, ông Hiền, bà Tuyên mi ng•i phi chu 3 triu đồng tin án phí chia tài sn tha kế. Giao cho ông L qun mt đỉnh đồng, hai cây nến bng đồng là tài sn th cúng ca gia đình c Cn. Báo cho các đương s mt đc quyn kháng cáo trong hn 15 ngày k t ngày tuyên án sơ thm.
Ngày 1-7-1996 anh Lại Hữu Vận có đơn kháng cáo: Không đồng ý chia di sản thừa kế.
Ngày 1-7-1996 ông Lại Hữu Minh có đơn kháng cáo: Không đồng ý thanh toán giá trị các công trình mà anh Vận đã xây dựng trên phần đất mà ông được chia; yêu cầu chia đều diện tích đất mặt đường cho các thừa kế của cụ Cận.
Ngày 20-6-1996 bà Bùi Thị Chung có đơn đề nghị: Bà là con nuôi của cụ Cận mà Toà án cấp sơ thẩm không chia thừa kế cho bà là sai, đề nghị để lại toàn bộ nhà đất đang tranh chấp cho anh Lại Hữu Vận để thờ cúng tổ tiên.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 116/DSPT ngày 7-10-1996, Toà án nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ) đã quyết định:
- V hình thc: Chp nhn đơn kháng cáo hp l ca ông Li Hu Minh và anh Li Hu Vn.
- V ni dung: Sa án sơ thm x
Bác đơn kin đòi chia tha kế ca ông Li Hu Minh và các ông Hin,
ông Hin, bà Tu yên đối vi đất ca anh Li Hu Vn ti th trn Ph Mi, huyn Quế Võ.
án phí: Ông Minh, ông Hin, ông Hin, bà Tuyên mi ng•i phi chu 500.000đ án phí dân s sơ thm.
Các đơng s không phi chu án phí phúc thm.
Ngày 28-10-1996 Toà án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc (cũ) có công văn số 151 đề nghị Toà án nhân dân tối cao xem xét lại bản án phúc thẩm nêu trên của Toà án nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ) vì bản án phúc thẩm đã bác yêu cầu của các nguyên đơn là không có căn cứ.
Ông Lại Hữu Minh có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm.
Ngày 31-5-2000, Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao có Quyết định số 77/KN-DS kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 116/DSPT ngày 7-10-1996 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ), đề nghị Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Kết luận số 173/KL-VKSNDTC ngày 2-10-2000, Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 300 ngày 29-11-2000, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao đã quyết định:
- Hu bn án sơ thm s 05 ngày 19-6-1996 ca Toà án nhân dân huyn Quế và bn án phúc thm s 116 ngày 7 -10-1996 ca Toà án nhân dân tnh Hà Bc (cũ); giao h sơ v án cho Toà án nhân dân tnh Bc Ninh xét x theo th tc sơ thm.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 03/DSST ngày 7-5-2001, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định:
- Giao cho anh Li Hu Vn đc s hu toàn b 378,5m2 đất ca c Cn và c Nhn để li khu 3, th trn Ph Mi, huyn Quế , tnh Bc Ninh, sau khi tr li cho ông Li Hu Minh 14.000.000đ (m•i bn triu đồng), tr cho bà Li Th Tuyên 24.078.000đ (hai m•ơi bn triu không trăm by m•ơi tán ngàn đồng), tr cho ông Li Hu Hin 15.078.000đ (m•i lăm triu không trăm by m•ơi tám ngàn đồng), tr cho ông Li Hu Hin 9.078.000đ (chín triu không trăm by m•ơi tám ngàn đồng).
- Ông Li Hu L phi tr cho ông Li Hu Hin 3.000.000đ (ba triu đồng).
án phí: Min án phí dân s cho ông Minh và anh Vn.
Bà Tuyên phi chu 1.200.000đ (mt triu hai trăm ngàn đồng chn ) án phí dân s sơ thm; ông Hin phi chu 9 triu đồng án phí dân s sơ thm; ông Hin phi chu 450.000đ án phí dân s sơ thm.
Các đơng s mt quyn kháng cáo trong hn 15 ngày k t ngày tuyên án sơ thm.
Ông L vng mt đc quyn kháng cáo trong hn 15 ngày k t ngày nhn đc kết qu bn án.
K t khi bn án hiu lc pháp lut, khon tin ng•i phi thi hành án nếu ch•a thi hành s phi chu lãi sut theo pháp lut quy định.
Ngày 18-6-2001, ông Lại Hữu Minh, bà Lại Thị Tuyên, ông Lại Hữu
Hiền, ông Lại Hữu Hiển, ông Lại Hữu Lệ có đơn kháng cáo:
- Năm 1983, anh Lại Hữu Vận đã đ•ợc hợp tác xã cấp cho 240m2 đất.
Anh Vận nói đã trả phần đất 240m2 này từ năm 1983 nh•ng thực tế sổ địa chính của xã vẫn còn tên anh Vận đến năm 1988. Các ông, bà không đồng ý việc khấu trừ 240m2 đất từ di sản.
- Việc chính quyền xã năm 1983 giao cho anh Vận sử dụng nhà đất của cụ Cận là trái pháp luật.
- Ông Minh không đ•ợc các cụ cho đất. Đất của ông Minh do ông Minh bỏ tiền ra mua.
- Yêu cầu chia thừa kế cho ông Lệ.
Ngày 20-5-2001, anh Lại Hữu Vận có đơn kháng cáo: Yêu cầu đ•ợc chia thừa kế đối với diện tích 688m2 đất có nguồn gốc của cụ Cận, cụ Nhớn và cụ Hoà mà ông Lại Hữu Lệ đang sử dụng.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 242/DSPT ngày 18-12-2002, Toà phúc thẩm Toà á n nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:
Căn c vào Điu 69 Pháp lnh Th tc gii quyết các v án dân s: Bác kháng cáo ca ông Li Hu Minh đại din cho các đồng nguyên đơn và kháng cáo ca b đơn là anh Li Hu Vn, gi nguyên quyết định ca bn án sơ thm.
Chiu theo các Điu 636, 639, 678, 679, 681, 683 và 688 B lut dân s, Thông t s 01 liên ngành ngày 19-6-1997.
- Giao cho anh Li Hu Vn đc s hu toàn b 378,5m2 đất ca c Cn, c Nhn để li khu 3, th trn Ph Mi, huyn Quế , tnh Bc Ninh, sau khi tr cho ông Li Hu Minh 14 triu, bà Li Th Tuyên 24.078.000đ (hai bn triu không trăm by m•ơi tám ngàn đồng).
- Tr ông Li Hu Hin 15.078.000đ (m•i lăm triu không trăm by m•ơi tám ngàn đồng), ông Li Hu Hin 9.078.000đ (chín triu không trăm by m•ơi tám ngàn đồng).
Ông Li Hu L phi tr cho ông Li Hu Hin 3 triu đồng.
Các quyết định khác ca bn án sơ thm không có kháng cáo, kháng ngh, án đã hiu lc pháp lut thi hành.
V án phí: Min án phí dân s sơ thm cho ông Minh, anh Vn.
Bà Tuyên phi np 1.200.000 đồng án phí dân s sơ thm; ông Hin phi np 450.000 đồng án phí dân s sơ thm; ông Hin phi np 900.000 đồng án phí dân s sơ thm.
Các đồng nguyên đơn do ông Li Hu Minh đại din phi np mi ng•i
50.000 đồng án phí dân s phúc thm.
Anh Li Hu Vn phi np 50.000 đồng án phí dân s phúc thm.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Lại Hữu Minh có đơn khiếu nại: Không đồng ý việc bản án phúc thẩm trừ đi 240m2 đất trong tổng số 378,5m2 đất là di sản của cụ Cận, cụ Nhớn và cụ Hoà.
Tại Quyết định số 171/KNDS ngày 6-12-2005, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 242/DSPT ngày 18-12-2002 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội với nhận định:
“Anh Vn li khai: Do anh s dng nhà đất ca c Nhn, c Cn và c Hoà nên anh phi tr li cho hp tác Li Nghiêm, Ph•ơng Mao 240m2 đất mà anh đã đc hp tác cp năm 1983, nh•ng anh Vn không xut trình đc tài liu nh giy t cp đất, thu hi đất để chng minh cho li khai ca mình. Ông Minh, ông Hin, ông L, ông Hin, bà Tuyên thì không công nhn li khai ca anh Vn. Hơn na, nếu vic cp, thu hi 240m2 đất ca hp tác Li Nghiêm đối vi anh Vn thì cũng không phi là căn c để Toà án tr din tích đất này t di sn ca c Nhn, c Cn và c Hoà. Toà án cp sơ thm và Toà án cp phúc thm đã tr 240m2 đất cho anh Vn t di sn ca c Nhn, c Cn và c Hoà, sau đó mi chia tha kế là không đúng.
Tài sn chung ca c Cn và c Nhn gm mt ngôi nhà tranh (không còn giá tr và đã b c Cn và c Hoà d đi để xây nhà mi năm 1964) trên din tích thc tế 406,4m2 đất. C Nhn chết năm 1946, nên tài sn ca c Cn đc chia trong khi tài sn chung ca c Cn và c Nhn gm 1/2 tài sn chung gia c Cn và c Nhn và phn tài sn ca c Cn đc h•ng tha kế ca c Nhn. Do c Cn kết hôn vi c Hoà, nên theo quy định ti Điu 15 Lut Hôn nhân và gia đình năm 1959, tài sn chung ca c Cn và c Hoà gm phn tài sn nêu trên ca c Cn và phn giá tr ngôi nhà ca c Cn và c Hoà xây dng năm 1964 (anh Vn đã d nhà năm 1986). Toà án cp sơ thm và Toà án cp phúc thm đã xác định phn tài sn mà c Cn đc chia trong khi tài sn chung ca c Cn và c Nhn vn là tài sn riêng ca c Cn là sai, gây thit hi đến quyn li ca các tha kế ca c Hoà.
Khi phân chia di sn ca c Nhn, Toà án cp sơ thm và Toà án cp phúc thm cho rng trong s nhng ng•i đc tha kế ông Quang và ông Minh đã đc c Cn và c Nhn cho đất nên ch chia cho ông Minh đc h•ng bng mt na k phn tha kế theo pháp lut ca c Nhn và ch chia cho các tha kế ca ông Quang đc h•ng bng mt na k phn tha kế theo pháp lut ca c Nhn, là không đúng theo quy định ti khon 2 Điu 679 B lut dân s”.
Từ nhận định trên, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 03/DSST ngày 7 -5-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh và bản án dân sự phúc thẩm số 242/DSPT ngày 18 -12-2002 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
Xét thy:
Các đương sự tranh chấp di sản thừa kế là ngôi nhà 4 gian (anh Lại Hữu Vận đã dỡ năm 1986) do cụ Lại Hữu Cận và cụ Trần Thị Hoà xây dựng trên khuôn viên diện tích 378,5m2 đất do cụ Lại Hữu Cận và cụ Nguyễn Thị Nhớn tạo lập.
Anh Lại Hữu Vận khai rằng năm 1983 anh Vận đ•ợc hợp tác xã Lại Nghiêm, xã Ph•ơng Mao (nay là thị trấn Phố Mới) cấp cho thửa đất 240m2, nh•ng do phải trông nom, giữ gìn nhà đất di sản, nên anh Vận phải trả lại cho hợp tác xã diện tích đất nêu trên. Lời khai của anh Vận đ•ợc bà Nguyễn Thị Mỹ (nguyên chủ nhiệm hợp tác xã Lại Nghiêm năm 1983) và ông Lại Hữu Hinh (tr•ởng chi họ Lại) công nhận. Anh Vận còn xuất trình “Đơn xin xác nhận sử dụng đất ở” của anh Vận, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Ph•ơng Mao năm 1983 là đồng ý cho anh Vận đ•ợc sử dụng nhà đất của cụ Cận, cụ Nhớn và cụ Hoà.
Mặc dù có lời khai và một số chứng cứ nh• trên, nh•ng anh Vận không xuất trình được tài liệu của cấp có thẩm quyền để chứng minh cho lời khai của mình nh•: Quyết định cấp đất, quyết định thu hồi đối với diện tích 240m2 đất… Các nguyên đơn thì không công nhận có việc anh Vận vì sử dụng nhà đất của cụ Cận, cụ Nhớn và cụ Hoà, mà phải trả lại 240m2 đất cho hợp tác xã Lại Nghiêm, xã Phương Mao.
Căn cứ vào chứng cứ chủ yếu như trên, bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm đã xác định anh Vận có quyền sử dụng 240m2 đất trong số diện tích 378,5m2 đất, di sản thừa kế chỉ còn 138,5m2 đất là chưa đủ cơ sở vững chắc. Chỉ xác định đ•ợc 240m2 đất không còn là di sản thừa kế, đã chuyển quyền sử dụng cho anh Vận khi có đủ chứng cứ chứng minh nếu anh Vận không trả lại hợp tác xã 240m2 đất (được cấp ở nơi khác) thì cơ quan có thẩm quyền sẽ thu hồi một phần hay toàn bộ diện tích đất 378,5m2 của cụ Cận, cụ Nhớn và cụ Hoà. Cần phải làm rõ có việc anh Vận trả lại 240m2 đất từ năm 1983 hay không? (các nguyên đơn nêu rằng đến năm 1988 anh Vận vẫn đứng tên trên sổ địa chính diện tích đất này). Cần yêu cầu anh Vận chứng minh nếu anh không trả lại 240m2 đất được cấp thì nhà đất của các cụ sẽ bị thu hồi (có quy định sẽ bị thu hồi theo chính sách quản lý đất đai ở thời điểm năm 1983 và thực tế đã có quyết định của cấp có thẩm quyền hay không?). Thực tế thì vào thời điểm năm 1983 cụ Hoà vẫn còn sống (cụ Hoà chết năm 1984) nh•ng ở nơi khác; vậy căn cứ vào lý do gì để thu hồi đất của cụ Hoà, cụ Cận cũng cần được làm rõ.
Mặt khác, cụ Hoà là đồng chủ sở hữu nhà với cụ Cận, nh•ng bản án dân sự sơ thẩm và bản án dân sự phúc thẩm lại chỉ xác định cụ Hoà là một thừa kế của cụ Cận là sai, gây thiệt hại đến quyền lợi của c ác thừa kế của cụ Hoà.
Về phần đất hiện ông Minh, ông Lệ đang sử dụng: Bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm cũng ch•a xác minh làm rõ nguồn gốc của các thửa đất này là tài sản của ông Minh, ông Lệ hay là tài sản của cụ Cận, cụ Nhớn và cụ Hoà; nếu là tài sản của các cụ thì cũng cần xác định xem các cụ đã cho ông Minh và ông Lệ hay ch•a? để xem xét vụ án toàn diện hơn.
Về việc phân chia di sản thừa kế của cụ Nhớn: Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm cho rằng trong số những ng•ời đ•ợc thừa kế di sản của cụ Nhớn có ông Lại Hữu Quang và ông Lại Hữu Minh đã đ•ợc cụ Cận và cụ Nhớn cho đất (mặc dù hồ sơ vụ án ch•a thể hiện rõ), nên chỉ chia cho ông Minh đ•ợc h•ởng 1/2 suất thừa kế của cụ Nhớn, chia cho các thừa kế của ông Quang 1/2 suất thừa kế của cụ Nhớn, chia cho bà Lại Thị Tuyên và bà Bùi Thị Chung mỗi người một suất thừa kế của cụ Nhớn là ch•a hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 (quy định về những ng•ời thừa kế cùng hàng đ•ợc h•ởng phần di sản thừa kế bằng nhau).
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và khoản 1, 2 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Quyết đnh:
1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 242/DSPT ngày 18-12-2002 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 03/DSST ngày 7 -5-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã giải quyết vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là ông Lại Hữu Minh, ông Lại Hữu Hiền, ông Lại Hữu Lệ, bà Lại Thị Tuyên và ông Lại Hữu Hiển với bị đơn là anh Lại Hữu Vận.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh giải quyết xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
____________________________________________
- do hu các bn án sơ thm và bn án phúc thm:
1. Chưa đủ căn cứ để xác định quyền sử dụng đất của bị đơn như quyết định của bản án sơ thẩm và phúc thẩm;
2. Xác định chưa chính xác đồng chủ sở hữu ngôi nhà có tranh chấp;
3. Chưa xác minh làm rõ nguồn gốc các thửa đất mà bị đơn đang sử dụng.
- Nguyên nhân dn đến vic hu các bn án sơ thm và phúc thm:
Thiếu sót trong việc thu thập, xem xét và đánh giá chứng cứ.
SOURCE: CÁC QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO NĂM 2006 – TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VÀ CƠ QUAN PHÁT TRIỂN QUỐC TẾ HOA KỲ (USAID). 2008

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code