HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Ngày 02 tháng 10
năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc
thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản giữa các đương
sự:
- Nguyên đơn: Bà Trương Thị Ngọc Huệ, sinh năm 1948; trú tại: nhà số 95, đường 30-4, phường Thanh Bình, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: Ông Trương Minh Hải, sinh năm 1954; trú tại: nhà số 205C, quốc lộ 15, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Trương Thị Thu Thuỷ (Ri), sinh năm 1943; trú tại: 205C, quốc lộ 15, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
+ Bà Trương Thị Ngọc Hương, sinh năm 1940 (đang ở Thụy Sĩ);
+ Bà Trương Thị Kim Loan, sinh năm 1950 (đang ở Mỹ);
+ Bà Trương Thị Nga Hoàng, sinh năm 1933 (chết năm 1981, hiện các con bà đang ở Mỹ);
+ Bà Trương Thu Hà, sinh năm 1946 (đang ở Mỹ).
Nhận thấy:
Ngày 02-12-1993 bà Trương Thị Ngọc Huệ khởi kiện yêu
cầu Toà án chia thừa kế di sản của bố mẹ là cụ Trương Văn Chỉ và cụ Trần
Thị Ba theo tờ di chúc cụ Ba lập ngày 07-01-1991.
Theo trình bày của bà Huệ thì bố mẹ các ông bà là cụ
Trương Văn Chỉ và cụ Trần Thị Ba có 7 người con chung là bà Trương Thị
Nga Hoàng (chết năm 1981, có 8 con ở Mỹ), bà Trương Thị Ngọc Hương, bà
Trương Thị Thu Thuỷ, bà Trương Thu Hà, bà Trương Thị Kim Loan, ông
Trương Minh Hải và bà. Quá trình chung sống cụ Chỉ và cụ Ba tạo lập được
nhiều tài sản như ruộng đất, lò gạch, căn nhà số 95 đ•ờng 30-4, thành
phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai (căn nhà này có hai phần: phần nhà cấp 3
diện tích 113m2 và phần nhà hai tầng diện tích 187m2) và một số đồ dùng s
inh hoạt như gi•ờng, tủ và 3 bộ ván.
Ngày 1 -7-1976 cụ Chỉ và cụ Ba đã lập “Tờ cho đứt ruộng đất cho các con cháu”, các
con của hai cụ đã ký giấy nhận phần đất ruộng, lò gạch được chia, đến
nay không có tranh chấp. Riêng căn nhà số 95, đường 30-4 các cụ chỉ tạm
giao cho con trai tr•ởng là Trương Minh Hải quản lý, sử dụng, sau đó cụ
Chỉ và cụ Ba vẫn quản lý sử dụng căn nhà và đứng tên kê khai nhà đất,
nên năm 1983 đã được Sở xây dựng tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà đối với căn nhà trên cho vợ chồng cụ Ba. Năm 1986 cụ Chỉ
chết không để lại di chúc; cụ Ba và bà Huệ quản lý sử dụng căn nhà. Ngày
9-5-1990, cụ Ba lập di chúc giao cho ông Hải quản lý căn nhà để sử dụng
thờ cúng chung và “không được bán”. Ngày 6 -12-1990 cụ Ba lại viết di chúc chia cho ông Hải, bà Huệ mỗi người một nửa căn nhà trên.
Sau đó ngày 7-1-1991, cụ Ba lại lập di chúc cho bà
Huệ được h•ởng một nửa căn nhà và 1/2 đồ dùng sinh hoạt, nhưng bà Huệ
phải phụng d•ỡng cụ Ba và thờ cúng tổ tiên; 1/2 căn nhà còn lại cụ Ba
yêu cầu phân chia theo luật. Di chúc trên của cụ Ba được Uỷ ban nhân dân
thành phố Biên Hoà xác nhận. Sau khi cụ Ba chết (1993), bà Huệ tiếp tục
quản lý toàn bộ căn nhà nêu trên. Năm 1993 ông Hải bỏ tiền tu sửa lại
phía tr•ớc căn nhà, nên phát sinh tranh chấp. Nay bà Huệ khởi kiện yêu
cầu h•ởng thừa kế theo di chúc do cụ Ba lập ngày 7-1-1991, bà sẽ thanh
toán trả ông Hải tiền ông Hải đã bỏ ra sửa chữa nhà.
Phía ông Hải cho rằng cụ Chỉ và cụ Ba đã cho ông căn nhà số 95, đường 30-4 theo “Tờ cho đứt ruộng đất cho các con c háu” ngày
01-7-1976 nên không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện chia thừa kế của bà
Huệ. Theo ông Hải di chúc mang tên cụ Ba đề ngày 7 -1-1991 do bà Huệ
xuất trình là giả mạo.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm bà Trương
Thị Thu Thuỷ, bà Trương Thị Ngọc Hương, Trương Thu Hà, Trương Thị Kim
Loan đều cho rằng tài sản của cha mẹ đã được cha mẹ phân chia xong từ
ngày 01-7-1976 tại “Tờ cho đứt ruộng đất cho các con cháu”,
theo nội dung tờ phân chia trên thì căn nhà số 95, đ•ờng 30-4 cha mẹ đã
cho đứt ông Trương Minh Hải, nên bà Huệ không còn quyền tranh chấp với
ông Hải.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 5/DSST ngày 29-3-1994, Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã quyết định:
Công nhận di chúc lập ngày 07 -01-1991 của cụ Trần Thị Ba là hợp pháp được tôn trọng.
Chia căn nhà 95 đ•ờng 30 -4 ph•ờng Thanh Bình và vật dụng trong nhà tổng trị giá 695.649.500 đồng làm 2 phần mỗi phần được hưởng 347.824.750 đồng, cụ thể phần cụ Trần Thị Ba là: 347.824.750 đồng nhưng được chia bằng hiện vật:
- Căn nhà giữa cấp 3 và cấp 4 có diện tích 113m2 chia cho cụ Ba 56,5m2 về hướng Tây giáp nhà bà Năm Sương.
- Căn nhà 2 tầng cấp 2 có diện tích 187m2 chia cho cụ Ba được 93,5m2 về hướng tây. Việc chi phí ngăn vách hai bên cùng chịu.
- Chia cho cụ Trần Thị Ba được sở hữu số tài sản trong nhà:
1 tủ gỗ 5 ngăn trị giá 400.000 đồng
1 tủ gỗ đứng 2 cánh trị giá 1.500.000 đồng
1 tủ đựng chén trị giá 1.000.000 đồng
1 gi•ờng đôi trị giá 700.000 đồng
1 bộ ván 3 dày 10 trị giá 2.500.000 đồng
1 bộ ván 3 dày 0,5 trị giá 1.800.000 đồng
1 bộ ván 5 dày 0,5 trị giá 1.500.000 đồng
Tất cả số tài sản trên giao cho chị Trương Thị Ngọc Huệ sở hữu. Khi án có hiệu lực pháp luật chị Huệ được quyền đến cơ quan chuyên môn về nhà đất làm chủ quyền nhà.
Số tài sản của cụ Trương Văn Chỉ tạm giao cho anh Trương Minh Hải quản lý khi có yêu cầu của người ở hàng thừa kế thứ 1 sẽ được giải quyết bằng bản án khác.
Số đất sau nhà được sử dụng chung.
Buộc chị Huệ thanh toán lại cho anh Hải tiền chi phí sửa chữa mặt tiền căn nhà 95 là 2.500.000 đồng.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Hải kháng cáo cho rằng di
chúc do bà Huệ xuất trình là di chúc giả, nên không đồng ý với quyết
định của bản án sơ thẩm Tại bản án dân sự phúc thẩm số 109/DSPT ngày
25-7-1994, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí
Minh đã quyết định: Sửa án sơ thẩm và xử:
- Bác yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị Ngọc Huệ đòi chia một nửa căn nhà số 95 đường 30-4, phường Thanh Bình, thành phố Biên Hoà và toàn bộ đồ dùng trong nhà thuộc phần tài sản của cụ Ba, vì các tờ di chúc mang tên Trần Thị Ba là do bà Trương Thị Ngọc Huệ xuất trình là không hợp pháp.
- Bà Trương Thị Ngọc Huệ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 13.059.742 đồng (đã được trừ đi số tiền dự phí 50.000 đồng).
- Ông Trương Minh Hải không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn dự phí án phí kháng cáo cho ông Hải.
Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Huệ khiếu nại không đồng ý với bản án phúc thẩm trên.
Tại quyết định số 18/KNDS ngày 7-5-1997, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm trên với nhận định:
“Sinh thời ông Chỉ, bà Ba có các tài sản như ruộng đất, lò gạch, căn nhà số 95 đ•ờng 30-4, Biên Hoà và các đồ dùng sinh hoạt khác.
Ngày 01-7-1976, ông Chỉ, bà Ba đã lập “tờ cho đứt ruộng đất cho các con, cháu”. Các con của ông, bà đã ký giấy đồng ý nhận phần ruộng đất, lò gạch được chia, cho đến nay không có tranh chấp. Riêng căn nhà mang số 95,đường 30 -4, tuy tại văn tự trên ông Chỉ, bà Ba cho anh Hải, nhưng anh Hải ch•a làm thủ tục sang tên sở hữu hợp pháp căn nhà. Hơn nữa trong thực tế ông Chỉ,bà Ba vẫn tiếp tục quản lý sử dụng, kê khai nhà đất và được Sở Xây dựng tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu. Vì vậy, về pháp lý cũng như trong thực tế, ông Chỉ, bà Ba vẫn là chủ sở hữu đối với căn nhà trên.
Năm 1986 ông Chỉ chết, không để lại di chúc các đồng thừa kế không tranh chấp về di sản của ông, nên Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm không chia thừa kế di sản của ông mà giao cho anh Hải quản lý là đúng.
Xét về việc tranh chấp di sản của bà Ba tại căn nhà số 95 đường 30 -4, Biên Hoà thấy rằng: Khi còn sống bà Ba đã 3 lần lập di chúc về căn nhà này. Nhưng tại di chúc ngày 9-5-1990, bà Ba chỉ giao cho anh Hải quản lý căn nhà để “tất cả các con, cháu đều được ở, được h•ởng quyền lợi và được sử dụng đồ đạc trong nhà Hương hoả như nhau”. Như vậy bà Ba không giao quyền sở hữu căn nhà cho ai.
Ngày 6-12-1990 bà Ba lại viết di chúc cho bà Huệ, anh Hải mỗi người một nửa căn nhà.Sau đó, ngày 07-01-1991 bà Ba đã lập di chúc để cho chị Huệ 1/2 căn nhà số 95 và toàn bộ đồ dùng trong nhà thuộc giá trị phần tài sản của bà trong khối tài sản chung vợ, chồng. Di chúc trên được Uỷ ban nhân dân thành phố Biên Hoà xác nhận. Tại các kết luận số 1367 ngày 5-2-1994 và số 689 ngày 21-5-1996, Công an tỉnh Đồng Nai và Viện khoa học hình sự Bộ Nội vụ đã khẳng định dấu vân tay trên di chúc trên là của bà Ba. Do đó có cơ sở để xác định di chúc do bà Trần Thị Ba lập ngày 7-1-1991 là di chúc hợp pháp (theo quy định tại Điều 12 Pháp lệnh Thừa kế và Điều 655 Bộ luật dân sự). Chị Huệ có quyền được h•ởng thừa kế toàn bộ di sản của bà Ba gồm 1/2 căn nhà số 95đ•ờng 30 -4, Biên Hoà và 1/2 số đồ dùng sinh hoạt theo di chúc do bà Ba lập ngày 7-1-1991 như Toà án cấp sơ thẩm nhận định và xử giao cho chị Huệ được sở hữu 1/2 căn nhà cấp 3, 1/2 căn nhà cấp 4, 1/2 căn nhà hai tầng và số tài sản khác, còn 1/2 căn nhà còn lại (di sản của ông Chỉ) giao cho anh Hải quản lý nếu đươngsự có yêu cầu sẽ giải quyết bằng vụ án khác là đúng. Nhưng Toà án cấp phúc thẩm lại cho rằng Uỷ ban nhân dân thành phố Biên Hoà không có thẩm quyền xác nhận di chúc, từ đó không công nhận di chúc trên của bà Ba và ử bác yêu cầu h•ởng thừa kế theo di chúc của chị Huệ là không đúng, làm thiệt hại quyền lợi của chị Huệ.
Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án phúc thẩm nêu trên, giữ nguyên hiệu lực của bản án dân sự sơ thẩm số 05 ngày 19 -4-1994 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai”.
Tại Kết luận số 166/KL-DS ngày 5-7-1997, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà
án nhân dân tối cao và đề nghị Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 109/DSPT ngày
25-7-1994 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí
Minh, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 05/DSST ngày 29-3-1994 của
Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Tại Quyết định số 56/UBTP ngày 27 -8-1997, Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã “Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án tranh chấp di sản thừa kế giữa chị Trương Thị Ngọc Huệ với anh Trương Minh Hải” theo quy định tại điểm 4 Nghị quyết ngày 28-10-1995 và mục III Nghị quyết ngày 10 -5-1997 của Quốc hội khoá IX.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ
bản án dân sự phúc thẩm số 109/DSPT ngày 25 -7-1994 của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và huỷ bản án dân sự
sơ thẩm số 05/DSST ngày 29-3-1994 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai,
giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại
theo đúng qu y định của pháp luật.
Xét thấy:
Sinh thời cụ Chỉ, cụ Ba có các tài sản như ruộng đất, lò gạch, căn nhà số 95 đường 30-4, Biên Hoà và các đồ dùng sinh hoạt khác.
Ngày 01 -7-1976, cụ Chỉ, cụ Ba đã lập “Tờ cho đứt ruộng đất cho các con, cháu”. Các
con của hai cụ đã ký giấy đồng ý nhận phần ruộng đất, lò gạch được
chia, cho đến nay không có tranh chấp. Các đươngsự chỉ tranh chấp “nhà số 95 Đại lộ Trịnh Hoài Đức” (nay là nhà số 95, đường 30-4, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai). Theo “Tờ cho đứt ruộng đất cho các con, cháu” nêu
trên thì cụ Chỉ và cụ Ba đã cho ông Hải căn nhà số 95, giấy này được Uỷ
ban nhân dân ph•ờng Thanh Bình chứng thực. Sau khi lập “Tờ cho đứt ru ộng đất cho các con, cháu” nêu
trên, cụ Chỉ và cụ Ba vẫn tiếp tục quản lý, sử dụng và kê khai căn nhà,
năm 1983, Sở xây dựng tỉnh Đồng Nai đã cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà cho vợ chồng cụ Ba.
Như vậy, đối với phần di sản của cụ Chỉ (1/2 nhà 95), tại “Tờ cho đứt ruộng đất cho các con, cháu” cụ
Chỉ đã thể hiện ý chí cho ông Hai và cho đến khi chết (1986) cụ Chỉ
không thay đổi ý chí, nên phải tôn trọng ý chí của cụ Chỉ.
Vì vậy, phải xác định 1/2 nhà 95 thuộc quyền sở hữu
của ông Hải. Việc Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xác định cụ Chỉ chết
không để lại di chúc, nên phần di sản của cụ Chỉ sẽ được chia theo luật
cho vợ và các con, đồng thời tạm giao cho ông Hải quản lý, nếu các
đươngsự có yêu cầu thì giải quyết bằng vụ án khác là chưa đúng pháp
luật.
Đối với phần tài sản của cụ Ba (1/2 căn nhà 95), mặc dù ngày 01-7-1976 cụ Ba đã cùng cụ Chỉ lập “Tờ cho đứt ruộng đất cho các con, cháu” thể
hiện cụ Ba đã cho ông Hải phần tài sản của cụ (1/2 căn nhà 95), nhưng
hợp đồng tặng cho nói trên mới chỉ được Uỷ ban nhân dân phường Thanh
Bình chứng thực, ông Hải chưa làm thủ tục sang tên sở hữu căn nhà. Mặt
khác, sau khi cùng cụ Chỉ lập “Tờ cho đứt ruộng đất cho các con, cháu” nêu
trên, cụ Ba vẫn cùng cụ Chỉ quản lý, sử dụng và kê khai căn nhà 95 với
Nhà nước, nên năm 19 83 hai cụ được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà. Như vậy, cả về mặt pháp lý cũng như trên thực tế, ông Hải chưa phải
là chủ sở hữu phần tài sản của cụ Ba tại nhà 95, nên cụ Ba có quyền
thay đổi ý chí của mình.
Sau đó, cụ Ba đã nhiều lần lập di chúc và di chúc
cuối cùng lập ngày 07-01-1991 cụ Ba đã để lại cho bà Huệ 1/2 căn nhà số
95 và toàn bộ đồ dùng trong nhà thuộc giá trị phần tài sản của cụ trong
khối tài sản chung vợ, chồng. Di chúc trên đã được Uỷ ban nhân dân thành
phố Biên Hoà xác nhận. Tại các kết luận số 1367 ngày 5-2-1994 và số 689
ngày 21-5-1996, Công an tỉnh Đồng Nai và Viện khoa học hình sự Bộ Nội
vụ đã khẳng định dấu vân tay trên di chúc trên là của cụ Ba. Do đó có cơ
sở để xác định di chúc do cụ Trần Thị Ba lập ngày 07-1-1991 là di chúc
hợp pháp (theo quy định tại Điều 12 Pháp lệnh Thừa kế và Điều 655 Bộ
luật dân sự). Toà án cấp sơ thẩm công nhận di chúc và chia thừa kế phần
di sản của cụ Ba theo di chúc cụ Ba lập ngày 07-01-1991 là có cơ sở, Toà
án cấp phúc thẩm lại cho rằng Uỷ ban nhân dân thành phố Biên Hoà không
có thẩm quyền xác nhận di chúc, từ đó không công nhận di chúc trên của
cụ Ba và xử bác yêu cầu hưởng thừa kế theo di chúc của bà Huệ là không
đúng.
Vụ án này thuộc trường hợp áp dụng Nghị quyết số 1037/2006/NQ- UBTVQH11 ngày 27 -7-2006 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội “về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập tr•ớc ngày 01 -7-1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia” và
việc định giá tài sản trong vụ án được tiến hành từ năm 1994, đến nay
không còn phù hợp; mặt khác, việc các đương sự tham gia trong vụ án và
yêu cầu của các đươngsự có thay đổi hay không, cần phải được xác minh
làm rõ, thì mới đủ căn cứ giải quyết vụ án.
Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều
297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số
1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Quyết định:
Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 109/DSPT ngày
25-7-1994 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí
Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 05/DSST ngày 29-3-1994 của Toà án nhân
dân tỉnh Đồng Nai đã giải quyết việc tranh chấp về thừa kế tài sản giữa
nguyên đơn là bà Trương Thị Ngọc Huệ với bị đơn là ông Trương Minh Hải;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các bà Trương Thị Thu Thuỷ,
Trương Thị Ngọc Hương, Trương Thu Hà, Trương Thị Kim Loan và Trương Thị
Nga Hoàng;
Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai để giải quyết, xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
____________________________________________
- Lý do huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm:
1. Quyết định của Toà án cấp phúc thẩm không công nhận di chúc của người để lại di sản thừa kế là không chính xác;
2. Cần tiến hành xác định lại giá trị tài sản và yêu cầu của các đươngsự trong vụ án.
- Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ các bản á n sơ thẩm và phúc thẩm:
1. Thiếu sót trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ;
2. Do thời hạn giải quyết vụ án bị kéo dài.
SOURCE: SOURCE: CÁC QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO NĂM 2006 – TÒA ÁN NHÂN
DÂN TỐI CAO VÀ CƠ QUAN PHÁT TRIỂN QUỐC TẾ HOA KỲ (USAID). 2008
0 comments:
Post a Comment