Friday, November 22, 2013

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 25/2006/DS-GDT NGÀY 2 THÁNG 10 NĂM 2006 CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VỀ VỤ ÁN "TRANH CHẤP THỪA KẾ"

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Ngày 02 tháng 10 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trương Thị Ngọc Huệ, sinh năm 1948; trú tại: nhà số 95, đường 30-4, phường Thanh Bình, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
- B đơn: Ông Trương Minh Hải, sinh năm 1954; trú tại: nhà số 205C, quốc lộ 15, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
- Người có quyn li, nghĩa v liên quan:
+ Bà Trương Thị Thu Thuỷ (Ri), sinh năm 1943; trú tại: 205C, quốc lộ 15, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
+ Bà Trương Thị Ngọc Hương, sinh năm 1940 (đang ở Thụy Sĩ);
+ Bà Trương Thị Kim Loan, sinh năm 1950 (đang ở Mỹ);
+ Bà Trương Thị Nga Hoàng, sinh năm 1933 (chết năm 1981, hiện các con bà đang ở Mỹ);
+ Bà Trương Thu Hà, sinh năm 1946 (đang ở Mỹ).

Nhn thy:
Ngày 02-12-1993 bà Trương Thị Ngọc Huệ khởi kiện yêu cầu Toà án chia thừa kế di sản của bố mẹ là cụ Trương Văn Chỉ và cụ Trần Thị Ba theo tờ di chúc cụ Ba lập ngày 07-01-1991.
Theo trình bày của bà Huệ thì bố mẹ các ông bà là cụ Trương Văn Chỉ và cụ Trần Thị Ba có 7 người con chung là bà Trương Thị Nga Hoàng (chết năm 1981, có 8 con ở Mỹ), bà Trương Thị Ngọc Hương, bà Trương Thị Thu Thuỷ, bà Trương Thu Hà, bà Trương Thị Kim Loan, ông Trương Minh Hải và bà. Quá trình chung sống cụ Chỉ và cụ Ba tạo lập được nhiều tài sản như ruộng đất, lò gạch, căn nhà số 95 đ•ờng 30-4, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai (căn nhà này có hai phần: phần nhà cấp 3 diện tích 113m2 và phần nhà hai tầng diện tích 187m2) và một số đồ dùng s inh hoạt như gi•ờng, tủ và 3 bộ ván.
Ngày 1 -7-1976 cụ Chỉ và cụ Ba đã lập “T cho đứt rung đất cho các con cháu”, các con của hai cụ đã ký giấy nhận phần đất ruộng, lò gạch được chia, đến nay không có tranh chấp. Riêng căn nhà số 95, đường 30-4 các cụ chỉ tạm giao cho con trai tr•ởng là Trương Minh Hải quản lý, sử dụng, sau đó cụ Chỉ và cụ Ba vẫn quản lý sử dụng căn nhà và đứng tên kê khai nhà đất, nên năm 1983 đã được Sở xây dựng tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đối với căn nhà trên cho vợ chồng cụ Ba. Năm 1986 cụ Chỉ chết không để lại di chúc; cụ Ba và bà Huệ quản lý sử dụng căn nhà. Ngày 9-5-1990, cụ Ba lập di chúc giao cho ông Hải quản lý căn nhà để sử dụng thờ cúng chung và “không được bán. Ngày 6 -12-1990 cụ Ba lại viết di chúc chia cho ông Hải, bà Huệ mỗi người một nửa căn nhà trên.
Sau đó ngày 7-1-1991, cụ Ba lại lập di chúc cho bà Huệ được h•ởng một nửa căn nhà và 1/2 đồ dùng sinh hoạt, nhưng bà Huệ phải phụng d•ỡng cụ Ba và thờ cúng tổ tiên; 1/2 căn nhà còn lại cụ Ba yêu cầu phân chia theo luật. Di chúc trên của cụ Ba được Uỷ ban nhân dân thành phố Biên Hoà xác nhận. Sau khi cụ Ba chết (1993), bà Huệ tiếp tục quản lý toàn bộ căn nhà nêu trên. Năm 1993 ông Hải bỏ tiền tu sửa lại phía tr•ớc căn nhà, nên phát sinh tranh chấp. Nay bà Huệ khởi kiện yêu cầu h•ởng thừa kế theo di chúc do cụ Ba lập ngày 7-1-1991, bà sẽ thanh toán trả ông Hải tiền ông Hải đã bỏ ra sửa chữa nhà.
Phía ông Hải cho rằng cụ Chỉ và cụ Ba đã cho ông căn nhà số 95, đường 30-4 theo “T cho đứt rung đất cho các con c háu” ngày 01-7-1976 nên không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện chia thừa kế của bà Huệ. Theo ông Hải di chúc mang tên cụ Ba đề ngày 7 -1-1991 do bà Huệ xuất trình là giả mạo.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm bà Trương Thị Thu Thuỷ, bà Trương Thị Ngọc Hương, Trương Thu Hà, Trương Thị Kim Loan đều cho rằng tài sản của cha mẹ đã được cha mẹ phân chia xong từ ngày 01-7-1976 tại “Tcho đứt rung đất cho các con cháu, theo nội dung tờ phân chia trên thì căn nhà số 95, đ•ờng 30-4 cha mẹ đã cho đứt ông Trương Minh Hải, nên bà Huệ không còn quyền tranh chấp với ông Hải.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 5/DSST ngày 29-3-1994, Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã quyết định:
Công nhn di chúc lp ngày 07 -01-1991 ca c Trn Th Ba là hp pháp được tôn trng.
Chia căn nhà 95 đng 30 -4 ph•ng Thanh Bình và vt dng trong nhà  tng tr giá 695.649.500 đồng làm 2 phn mi phn được ng 347.824.750 đồng, c th phn c Trn Th Ba là: 347.824.750 đồng nhưng được chia bng hin vt:
- Căn nhà gia cp 3 và cp 4 din tích 113m2 chia cho c Ba 56,5m2 v ng Tây giáp nhà bà Năm ơng.
- Căn nhà 2 tng cp 2 din tích 187m2 chia cho c Ba được 93,5m2 vng tây. Vic chi phí ngăn vách hai bên cùng chu.
- Chia cho c Trn Th Ba được s hu s tài sn trong nhà:
1 t g 5 ngăn tr giá 400.000 đồng
1 t g đứng 2 cánh tr giá 1.500.000 đồng
1 t đựng chén tr giá 1.000.000 đồng
1 gi•ng đôi tr giá 700.000 đồng
1 b ván 3 dày 10 tr giá 2.500.000 đồng
1 b ván 3 dày 0,5 tr giá 1.800.000 đồng
1 b ván 5 dày 0,5 tr giá 1.500.000 đồng
Tt c s tài sn trên giao cho ch Trương Th Ngc Hu s hu. Khi án hiu lc pháp lut ch Hu được quyn đến cơ quan chuyên môn v nhà đất làm ch quyn nhà.
S tài sn ca c Trương Văn Ch tm giao cho anh Trương Minh Hi qun khi yêu cu ca người hàng tha kế th 1 s được gii quyết bng bn án khác.
S đất sau nhà được s dng chung.
Buc ch Hu thanh toán li cho anh Hi tin chi phí sa cha mt tin căn nhà 95 là 2.500.000 đồng.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Hải kháng cáo cho rằng di chúc do bà Huệ xuất trình là di chúc giả, nên không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm Tại bản án dân sự phúc thẩm số 109/DSPT ngày 25-7-1994, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Sửa án sơ thẩm và xử:
- Bác yêu cu khi kin ca bà Trương Th Ngc Hu đòi chia mt na căn nhà s 95 đưng 30-4, phưng Thanh Bình, thành ph Biên Hoà và toàn bđồ dùng trong nhà thuc phn tài sn ca c Ba, các t di chúc mang tên Trn Th Ba là do bà Trương Th Ngc Hu xut trình là không hp pháp.
- Bà Trương Th Ngc Hu phi chu án phí dân s sơ thm là 13.059.742 đồng (đã được tr đi s tin d phí 50.000 đồng).
- Ông Trương Minh Hi không phi chu án phí dân s sơ thm và án phí dân s phúc thm. Hoàn d phí án phí kháng cáo cho ông Hi.
Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Huệ khiếu nại không đồng ý với bản án phúc thẩm trên.
Tại quyết định số 18/KNDS ngày 7-5-1997, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm trên với nhận định:
“Sinh thi ông Ch, bà Ba các tài sn như rung đất, gch, căn nhà s 95 đng 30-4, Biên Hoà và các đồ dùng sinh hot khác.
Ngày 01-7-1976, ông Ch, bà Ba đã lp “t cho đứt rung đất cho các con, cháu”. Các con ca ông, bà đã giy đồng ý nhn phn rung đất, gch được chia, cho đến nay không tranh chp. Riêng căn nhà mang s 95,đưng 30 -4, tuy ti văn t trên ông Ch, bà Ba cho anh Hi, nhưng anh Hi ch•a làm th tc sang tên s hu hp pháp căn nhà. Hơn na trong thc tế ông Ch,bà Ba vn tiếp tc qun s dng, khai nhà đất và được S Xây dng tnh Đồng Nai cp giy chng nhn quyn s hu. vy, v pháp cũng như trong thc tế, ông Ch, bà Ba vn là ch s hu đối vi căn nhà trên.
Năm 1986 ông Ch chết, không để li di chúc các đồng tha kế không tranh chp v di sn ca ông, nên Toà án cp sơ thm, phúc thm không chia tha kế di sn ca ông mà giao cho anh Hi qun là đúng.
Xét v vic tranh chp di sn ca bà Ba ti căn nhà s 95 đưng 30 -4, Biên Hoà thy rng: Khi còn sng bà Ba đã 3 ln lp di chúc v căn nhà này. Nhưng ti di chúc ngày 9-5-1990, bà Ba ch giao cho anh Hi qun căn nhà để “tt c các con, cháu đều được , được h•ng quyn li và được s dng đồ đạc trong nhà Hương ho như nhau”. Như vy bà Ba không giao quyn s hu căn nhà cho ai.
Ngày 6-12-1990 bà Ba li viết di chúc cho bà Hu, anh Hi mi người mt na căn nhà.Sau đó, ngày 07-01-1991 bà Ba đã lp di chúc để cho ch Hu 1/2 căn nhà s 95 và toàn b đồ dùng trong nhà thuc giá tr phn tài sn ca bà trong khi tài sn chung v, chng. Di chúc trên được U ban nhân dân thành ph Biên Hoà xác nhn. Ti các kết lun s 1367 ngày 5-2-1994 và s 689 ngày 21-5-1996, Công an tnh Đồng Nai và Vin khoa hc hình s B Ni v đã khng định du vân tay trên di chúc trên là ca bà Ba. Do đó cơ s để xác định di chúc do bà Trn Th Ba lp ngày 7-1-1991 là di chúc hp pháp (theo quy định ti Điu 12 Pháp lnh Tha kế và Điu 655 B lut dân s). Ch Hu quyn được h•ng tha kế toàn b di sn ca bà Ba gm 1/2 căn nhà s 95đng 30 -4, Biên Hoà và 1/2 s đồ dùng sinh hot theo di chúc do bà Ba lp ngày 7-1-1991 như Toà án cp sơ thm nhn định và x giao cho ch Hu được s hu 1/2 căn nhà cp 3, 1/2 căn nhà cp 4, 1/2 căn nhà hai tng và s tài sn khác, còn 1/2 căn nhà còn li (di sn ca ông Ch) giao cho anh Hi qun lý nếu đươngs yêu cu s gii quyết bng v án khác là đúng. Nhưng Toà án cp phúc thm li cho rng U ban nhân dân thành ph Biên Hoà không có thm quyn xác nhn di chúc, t đó không công nhn di chúc trên ca bà Ba và bác yêu cu h•ng tha kế theo di chúc ca ch Hu là không đúng, làm thit hi quyn li ca ch Hu.
Chánh án Toà án nhân dân ti cao đề ngh U ban Thm phán Toà án nhân dân ti cao xét x giám đốc thm hu bn án phúc thm nêu trên, gi nguyên hiu lc ca bn án dân s sơ thm s 05 ngày 19 -4-1994 ca Toà án nhân dân tnh Đồng Nai”.
Tại Kết luận số 166/KL-DS ngày 5-7-1997, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 109/DSPT ngày 25-7-1994 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 05/DSST ngày 29-3-1994 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Tại Quyết định số 56/UBTP ngày 27 -8-1997, Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã “Tm đình ch vic gii quyết v án tranh chp di sn tha kế gia ch Trương Th Ngc Hu vi anh Trương Minh Hi theo quy định tại điểm 4 Nghị quyết ngày 28-10-1995 và mục III Nghị quyết ngày 10 -5-1997 của Quốc hội khoá IX.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 109/DSPT ngày 25 -7-1994 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 05/DSST ngày 29-3-1994 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại theo đúng qu y định của pháp luật.
Xét thy:
Sinh thời cụ Chỉ, cụ Ba có các tài sản như ruộng đất, lò gạch, căn nhà số 95 đường 30-4, Biên Hoà và các đồ dùng sinh hoạt khác.
Ngày 01 -7-1976, cụ Chỉ, cụ Ba đã lập “T cho đứt rung đất cho các con, cháu”. Các con của hai cụ đã ký giấy đồng ý nhận phần ruộng đất, lò gạch được chia, cho đến nay không có tranh chấp. Các đươngsự chỉ tranh chấp “nhà s 95 Đại l Trnh Hoài Đức (nay là nhà số 95, đường 30-4, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai). Theo “T cho đứt rung đất cho các con, cháu nêu trên thì cụ Chỉ và cụ Ba đã cho ông Hải căn nhà số 95, giấy này được Uỷ ban nhân dân ph•ờng Thanh Bình chứng thực. Sau khi lập “T cho đứt ru ng đất cho các con, cháu” nêu trên, cụ Chỉ và cụ Ba vẫn tiếp tục quản lý, sử dụng và kê khai căn nhà, năm 1983, Sở xây dựng tỉnh Đồng Nai đã cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà cho vợ chồng cụ Ba.
Như vậy, đối với phần di sản của cụ Chỉ (1/2 nhà 95), tại “T cho đứt rung đất cho các con, cháu cụ Chỉ đã thể hiện ý chí cho ông Hai và cho đến khi chết (1986) cụ Chỉ không thay đổi ý chí, nên phải tôn trọng ý chí của cụ Chỉ.
Vì vậy, phải xác định 1/2 nhà 95 thuộc quyền sở hữu của ông Hải. Việc Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xác định cụ Chỉ chết không để lại di chúc, nên phần di sản của cụ Chỉ sẽ được chia theo luật cho vợ và các con, đồng thời tạm giao cho ông Hải quản lý, nếu các đươngsự có yêu cầu thì giải quyết bằng vụ án khác là chưa đúng pháp luật.
Đối với phần tài sản của cụ Ba (1/2 căn nhà 95), mặc dù ngày 01-7-1976 cụ Ba đã cùng cụ Chỉ lập “T cho đứt rung đất cho các con, cháu thể hiện cụ Ba đã cho ông Hải phần tài sản của cụ (1/2 căn nhà 95), nhưng hợp đồng tặng cho nói trên mới chỉ được Uỷ ban nhân dân phường Thanh Bình chứng thực, ông Hải chưa làm thủ tục sang tên sở hữu căn nhà. Mặt khác, sau khi cùng cụ Chỉ lập “T cho đứt rung đất cho các con, cháu nêu trên, cụ Ba vẫn cùng cụ Chỉ quản lý, sử dụng và kê khai căn nhà 95 với Nhà nước, nên năm 19 83 hai cụ được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Như vậy, cả về mặt pháp lý cũng như trên thực tế, ông Hải chưa phải là chủ sở hữu phần tài sản của cụ Ba tại nhà 95, nên cụ Ba có quyền thay đổi ý chí của mình.
Sau đó, cụ Ba đã nhiều lần lập di chúc và di chúc cuối cùng lập ngày 07-01-1991 cụ Ba đã để lại cho bà Huệ 1/2 căn nhà số 95 và toàn bộ đồ dùng trong nhà thuộc giá trị phần tài sản của cụ trong khối tài sản chung vợ, chồng. Di chúc trên đã được Uỷ ban nhân dân thành phố Biên Hoà xác nhận. Tại các kết luận số 1367 ngày 5-2-1994 và số 689 ngày 21-5-1996, Công an tỉnh Đồng Nai và Viện khoa học hình sự Bộ Nội vụ đã khẳng định dấu vân tay trên di chúc trên là của cụ Ba. Do đó có cơ sở để xác định di chúc do cụ Trần Thị Ba lập ngày 07-1-1991 là di chúc hợp pháp (theo quy định tại Điều 12 Pháp lệnh Thừa kế và Điều 655 Bộ luật dân sự). Toà án cấp sơ thẩm công nhận di chúc và chia thừa kế phần di sản của cụ Ba theo di chúc cụ Ba lập ngày 07-01-1991 là có cơ sở, Toà án cấp phúc thẩm lại cho rằng Uỷ ban nhân dân thành phố Biên Hoà không có thẩm quyền xác nhận di chúc, từ đó không công nhận di chúc trên của cụ Ba và xử bác yêu cầu hưởng thừa kế theo di chúc của bà Huệ là không đúng.
Vụ án này thuộc trường hợp áp dụng Nghị quyết số 1037/2006/NQ- UBTVQH11 ngày 27 -7-2006 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội “v giao dch dân s v nhà được xác lp tr•c ngày 01 -7-1991 người Vit Nam định c ngoài tham gia và việc định giá tài sản trong vụ án được tiến hành từ năm 1994, đến nay không còn phù hợp; mặt khác, việc các đương sự tham gia trong vụ án và yêu cầu của các đươngsự có thay đổi hay không, cần phải được xác minh làm rõ, thì mới đủ căn cứ giải quyết vụ án.
Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Quyết đnh:
Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 109/DSPT ngày 25-7-1994 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 05/DSST ngày 29-3-1994 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã giải quyết việc tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là bà Trương Thị Ngọc Huệ với bị đơn là ông Trương Minh Hải; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các bà Trương Thị Thu Thuỷ, Trương Thị Ngọc Hương, Trương Thu Hà, Trương Thị Kim Loan và Trương Thị Nga Hoàng;
Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai để giải quyết, xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
____________________________________________
- do hu bn án sơ thm và bn án phúc thm:
1. Quyết định của Toà án cấp phúc thẩm không công nhận di chúc của người để lại di sản thừa kế là không chính xác;
2. Cần tiến hành xác định lại giá trị tài sản và yêu cầu của các đươngsự trong vụ án.
- Nguyên nhân dn đến vic hu các bn á n sơ thm và phúc thm:
1. Thiếu sót trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ;
2. Do thời hạn giải quyết vụ án bị kéo dài.
SOURCE: SOURCE: CÁC QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO NĂM 2006 – TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VÀ CƠ QUAN PHÁT TRIỂN QUỐC TẾ HOA KỲ (USAID). 2008

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code