16
Tháng 9
Tóm tắt. Bài viết
phân tích những vấn đề cơ bản thuộc đối tượng nghiên cứu của triết học
pháp luật liên hệ vào thế giới đương đại. Triết học pháp luật, xã hội
học pháp luật và lý luận pháp luật là ba cách thức – ba hướng nghiên cứu
cơ bản trong khoa học pháp lý hiện đại. Tác giả cũng nêu lên một số vấn
đề cơ bản, cấp bách của triết học pháp luật hiện nay như: mối quan hệ
giữa đạo đức, pháp luật, dân chủ và tự do, giữa Nhà nước pháp quyền và
xã hội dân sự, nhận thức pháp luật và một số vấn đề triết học pháp luật
chuyên ngành khác. Tác giả đề xuất việc triển khai nghiên cứu triết học
pháp luật trên cả hai phương diện: tích hợp ngay trong nghiên cứu lý
luận pháp luật truyền thống cùng với xã hội học pháp luật và: xây dựng
triết học pháp luật như là một bộ môn khoa học pháp lý độc lập trong hệ
thống các khoa học pháp lý.
Đặt vấn đề
Trong hệ thống các khoa học pháp lý,
triết học pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng trên cấp độ chung và
cấp độ chuyên ngành. Nói một cách đơn giản nhất, triết học pháp luật
chính là cách tiếp cận triết học các vấn đề pháp luật và các vấn đề nhà
nước trong mối quan hệ với pháp luật. Ở nước ta, trong những năm gần đây
đã bắt đầu có sự quan tâm nghiên cứu, bàn luận về triết học pháp luật.
Tuy vậy, so với tầm vóc và ý nghĩa của bộ môn khoa học pháp lý này cũng
như sự phát triển của nó trên thế giới, việc nghiên cứu ở nước ta về
triết học pháp luật vẫn còn rất khiêm tốn, cả trong lý luận hàn lâm và
lý luận giảng đường.
1. Ba con đường – ba cách thức – ba hướng cơ bản về tiếp cận pháp luật
Trong khoa học từ xa xưa đã hình thành
nên ba con đường hay ba cách thức cơ bản về tiếp cận pháp luật, nhà
nước: lý luận pháp luật, triết học pháp luật và xã hội học pháp luật. Đó
cũng chính là ba hướng tiếp cận pháp luật cần được quan tâm triển khai ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới. Có làm được điều này thì chúng ta mới có
thể khắc phục nhanh chóng được sự lạc hậu và chủ động tham gia hội
nhập, trong đó có hội nhập về tư tưởng, về khoa học và đào tạo luật học.
Cũng cần phải nhấn mạnh thêm, ngoài ra còn một số cách tiếp cận khác về
nhà nước, pháp luật như: tâm lý học pháp luật, kinh tế học pháp luật,
nhân chủng học pháp luật v.v… Nhưng với tư cách là những cách thức,
hướng tiếp cận có tính liên ngành, chung và cơ bản nhất vẫn là: triết
học pháp luật, lý luận pháp luật và xã hội học pháp luật.
Ba cách thức –
ba hướng tiếp cận các vấn đề pháp lý không phải hoàn toàn tách biệt
nhau mà luôn có sự tích hợp trong việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn.
Về phương diện này những năm gần đây ở nước ta bước đầu đã được triển
khai nghiên cứu tuy chưa thường xuyên và sâu sắc. Ví như vấn đề triết lý
của luật thương mại, triết lý của quan hệ lao động, triết lý lập pháp,
mối quan hệ giữa xã hội và pháp luật; mối quan hệ giữa pháp luật và tập
quán, luật tục, hương ước, tôn giáo, đạo đức v.v… Không chỉ trong các ấn
phẩm khoa học mà cả trong công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở các
cơ sở đào tạo luật, đặc biệt là tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội, trong nhiều môn học đã có sự tích hợp ba cách tiếp cận pháp luật
này – lý luận pháp luật, triết học pháp luật và xã hội học pháp luật.
Lý luận pháp luật nghiên cứu nội dung bên
trong và mối quan hệ của các quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật. Lý
luận pháp luật có hai cấp độ cơ bản: lý luận chung về pháp luật và lý
luận pháp luật chuyên ngành – lĩnh vực pháp luật như lý luận luật hình
sự, lý luận luật hành chính, luật lao động, luật dân sự v.v… Lý luận
pháp luật có đặc trưng tiêu biểu là nghiên cứu các khái niệm, các phạm
trù, các nguyên tắc pháp luật, hệ thống pháp luật thực định, đương nhiên
không chỉ nghiên cứu bản thân hệ thống pháp luật thực định mà cả những
nguyên lý tạo thành, áp dụng, vận động và phát triển của pháp luật. Như
vậy, thực chất cũng đã có sự tích hợp một số cách tiếp cận triết học
pháp luật vào lý luận pháp luật. Xét trên bình diện tổng thể, đến lượt
mình, bản thân lý luận pháp luật đích thực cũng đã phải bao hàm các cấp
độ của triết học pháp luật, xã hội học pháp luật, kinh tế học pháp luật
và lý luận pháp luật. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở sự tích hợp triết học
pháp luật vào nội dung của lý luận pháp luật như là phần bổ sung không
thôi thì cũng chưa đầy đủ mà cần hình thành và phát triển một hướng
nghiên cứu mang tính độc lập tương đối về triết học pháp luật với tư
cách là một hướng, một cách thức tiếp cận pháp luật chuyên sâu. Tại các
quốc gia có nền văn hoá pháp luật lâu đời và tiên tiến, triết học pháp
luật luôn được quan tâm trong giảng dạy, nghiên cứu và ứng dụng. Hiệp
hội triết học pháp luật của nhiều nước châu Âu vẫn được nhóm họp hàng
năm để hợp tác các hoạt động nghiên cứu chung.
Xã hội học pháp luật có đối tượng nghiên
cứu đó là những gì phát sinh và phát triển, gây ảnh hưởng và tác động
đến pháp luật, tức là xem xét cơ sở xã hội của pháp luật, tính bị quy
định về xã hội của pháp luật [1, tr.448]. Đối tượng nghiên cứu của xã
hội học pháp luật cần xác định rõ để không lẫn lộn với phương pháp xã
hôi học trong nghiên cứu của lý luận về pháp luật – nghiên cứu pháp luật
trong đời sống thực tiễn. Tính quy định xã hội của pháp luật chính là
vấn đề cơ bản nhất của xã hội học pháp luật. Theo đấy, xã hội học pháp
luật tập trung nghiên cứu (lý thuyết và ứng dụng, thực nghiệm) sự tác
động của các nhân tố tâm lý – xã hội – công nghệ – kỹ thuật đối với các
hiện tượng của đời sống pháp luật và nhà nước. Sự tác động trở lại của
pháp luật đối với đời sống xã hội cũng là nội dung quan trọng của xã hội
học pháp luật như vấn đề hiệu quả của pháp luật trong các lĩnh vực xã
hội: kinh doanh, lao động, việc làm; trật tự an toàn giao thông, hiệu
quả của các loại hình dịch vụ pháp lý vv…
Triết học pháp luật (THPL) xuất hiện từ
thời cổ đại như là khát vọng mong muốn đạt được nhận thức quy luật tồn
tại của pháp luật, mục đích và nhiệm vụ, khả năng, ưu điểm và hạn chế
của pháp luật. Với tư cách là khoa học pháp lý độc lập, THPL có nhiệm vụ
thực hiện những chức năng khoa học chung, có tính chất phương pháp
luận, nhận thức luận và là bộ môn khoa học liên ngành của luật học và
triết học. THPL nghiên cứu ý nghĩa, bản chất, khái niệm pháp luật, các
cơ sở tồn tại và vị trí của pháp luật trong xã hội, giá trị và tầm quan
trọng của pháp luật, vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội. THPL
có nhiệm vụ tìm kiếm chân lý trong pháp luật, tính công bằng, nhân văn
của pháp luật. THPL không chỉ nghiên cứu pháp luật, mà còn nghiên cứu cả
nhà nước, mặc dù trọng tâm là pháp luật. Trong THPL của mình, Hêghen
cũng có cách tiếp cận như vậy: “Hệ thống các học thuyết về nhà nước,
pháp luật, xã hội chính là triết học pháp quyền của Hêghen”[2, tr.46].
Cách tiếp cận triết học pháp luật của Mônteskiơ cũng được thể hiện rõ,
trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” – ông nghiên cứu cả Nhà nước trong
mối tương quan với pháp luật và ngược lại.
THPL là một khoa học liên ngành giữa luật
học và triết học. Cả khoa học pháp lý và triết học đều cần tìm kiếm
chân lý pháp luật đều cần đến một ngành khoa học. Chính bản thân lĩnh
vực pháp lý có mối quan tâm đến phương diện triết học chứ không phải là
một sự ghán ghép, áp đặt. Ví dụ như vấn đề triết học trong lĩnh vực pháp
luật lao động, trong lĩnh vực tội phạm và hình phạt, xu hướng vận động
của tội phạm cũng như hình phạt, mối quan hệ biện chứng giữa tự do và
trách nhiệm trong trách nhiệm hình sự v.v… Hoặc, trong lĩnh vực luật
hiến pháp, tư duy triết học là cơ sở khoa học cho các nguyên tắc và quy
tắc hiến pháp. Ngay bản thân Nhà nước pháp quyền, trên phương diện tư
tưởng, học thuyết thì đây đích thực là một học thuyết triết học – chính
trị – pháp lý về nhà nước, pháp luật. Nguyên tắc phân chia quyền lực
trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng vậy, tiếp cận triết học pháp luật
sẽ cho phép nhận thức đúng bản chất và từ đó mới có sự áp dụng đúng đắn
trên thực tiễn nguyên tắc phân chia quyền lực. Phải nhận thức vấn đề
phân chia quyền lực – sự thống nhất của các mặt đối lập, thống nhất là
tuyệt đối, độc lập, phân chia là tương đối trong thể thống nhất về quyền
lực nhà nước, quyền lực nhà nước về bản chất là thống nhất. Những sự
kiện trên thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua đã làm tăng thêm tính đa
dạng, phong phú, sinh động, phức tạp và mới trong đời sống chính trị –
pháp lý toàn cầu, những sự kiện như: một quốc gia hai chế độ, sự thành
lập và củng cố các liên minh nhà nước, quốc hội, hiến pháp chung của các
thiết chế này v.v… Đó là những điều cần phải được lý giải dưới góc độ
của THPL.
Mối quan tâm chính của THPL là ý nghĩa,
vị trí, vai trò của pháp luật và luật học trong thế giới quan triết học,
trong hệ thống các học thuyết triết học về thế giới, về xã hội, con
người, hình thức và quy phạm của đời sống xã hội, về con đường và phương
pháp nhận thức, về hệ thống các giá trị pháp luật, giá trị đạo đức, giá
trị tôn giáo v.v… THPL nói một cách đơn giản nhất là sự tiếp cận pháp
luật từ phương diện triết học – hay những vấn đề triết học của pháp
luật. Theo Hêghen, tác giả của tác phẩm nổi tiếng: “Triết học pháp
quyền” thì triết học pháp quyền nghiên cứu tư tưởng của pháp luật. Nhiệm
vụ chủ yếu của triết học pháp quyền là tìm hiểu những tư tưởng chủ đạo
nằm trong pháp luật tạo nên tinh thần pháp luật [3, tr.59]. Tư tưởng
triết học pháp quyền của Hêghen thực chất là tư tưởng về nguyên tắc và
tính chất của pháp luật [4, tr.13].
THPL nghiên cứu bản chất, vai trò, giá
trị của pháp luật, lý luận pháp luật nghiên cứu nội dung bên trong và
mối tương quan của các quy phạm pháp luật, các quan hệ pháp luật; các kỹ
năng áp dụng pháp luật, còn xã hội học pháp luật – chính là thực tiễn
pháp luật, là mối tương tác đa chiều giữa pháp luật và các nhân tố xã
hội. Cả ba lĩnh vực trên ở mức độ này hay mức độ khác đều có thể được
xem là những lĩnh vực tri thức khoa học độc lập, có mối quan hệ hữu cơ
với nhau trong việc xem xét các vấn đề pháp lý. THPL, xã hội học pháp
luật và lý luận pháp luật là ba cách, ba con đường, ba hướng tiếp cận
pháp luật. Mỗi một vấn đề pháp lý thuần tuý luôn luôn chịu sự chi phối,
tác động của các vấn đề xã hội. Đó là hướng – cấp độ nghiên cứu pháp
luật của xã hội học pháp luật. Trong việc nghiên cứu các vấn đề pháp lý
dù ở cấp độ chung, khái quát hay chuyên ngành cụ thể, chúng ta đều không
thể bỏ qua, không thể lẩn tránh được các vấn đề của triết học pháp luật
và xã hội học pháp luật. Các vấn đề triết học về nhà nước và pháp luật.
Vấn đề quyền con người cũng phải tiếp cận từ phương diện triết học pháp
luật, trong đó có mối quan hệ giữa quyền con người và sự giới hạn quyền
lực nhà nước, giới hạn cả bản thân quyền con người, tương quan giữa
quyền con người và lợi ích công cộng…
Bất kỳ một hiện tượng pháp luật nào, một
loại hành vi pháp luật – hợp pháp hay không hợp pháp về nguyên tắc đều
phải được tiếp cận theo cả ba cách thức: lý luận pháp luật, triết học
pháp luật và xã hội học pháp luật. Chỉ có điều, tuỳ thuộc vào yêu cầu,
mục đích của việc nghiên cứu cụ thể mà hàm lượng và tỷ lệ tương quan
giữa chúng được phân bổ hợp lý. Ví như trong nghiên cứu hiện tượng tham
nhũng, bên cạnh việc nghiên cứu các quy phạm pháp luật hiện hành về xử
lý hành vi tham nhũng, cần thiết phải nghiên cứu các vấn đề triết học và
xã hội học của tham nhũng như sự tác động của các nhân tố tâm lý – xã
hội đến tham nhũng, xu hướng vận động của hiện tượng này. Có như vậy mới
có sự đánh giá một cách khách quan, toàn diện, có hệ thống về tham
nhũng và trên cơ sở đó có thể đề xuất những giải pháp hữư hiệu để hạn
chế đến mức thấp nhất loại tội phạm này này. Vấn đề tham nhũng theo đấy
được nghiên cứu trong nhiều ngành khoa học, ngay trong luật học cũng cần
được nghiên cứu từ góc độ lý luận chung về pháp luật và lý luận của các
chuyên ngành luật học.
Lâu nay giữa các nhà chính trị học, nhà
luật học thay vì liên kết, hợp tác chặt chẽ họ lại riêng rẽ trong việc
nghiên cứu các vấn đề nhà nước, pháp luật và xã hội. Mỗi khoa học thường
chỉ theo đuổi mục đích, đặc thù nghiên cứu riêng của mình. Nhà luật
học, chẳng hạn thường là ít hoặc không quan tâm đến các qúa trình chính
trị, kinh tế, văn hoá xã hội của quốc gia và nhân loại. Còn nhà chính
trị học lại ít quan tâm đến các vấn đề pháp luật, áp dụng pháp luật…
Trong khi đó, pháp luật, sự ban hành và áp dụng pháp luật lại là những
vấn đề xã hội, phụ thuộc vào những điều kiện khách quan của xã hội, chỉ
có thể lý giải và minh chứng từ chính các quá trình xã hội. Trong trường
hợp đó, THPL là khoa học nghiên cứu, liên kết cả hai. Sự tách biệt giữa
hai khoa học này – chính trị học và luật học cần được khắc phục cũng
chính như sự độc lập tương đối của bản thân các vấn đề chính trị và pháp
luật. Khoa học triết học pháp luật có thể làm nhiệm vụ đó.
Triết học pháp luật có nhiệm vụ tìm kiếm
chân lý trong pháp luật. Đã đành rằng pháp luật do công quyền quy định,
người đại diện chính thức cho toàn xã hội, song nói đến pháp luật còn
phải xem xét đến tính chân lý, công bằng, tính đúng đắn, tính nhân văn.
Trong lý luận pháp luật thường có sự đồng nhất giữa Luật và Pháp luật.
Quan điểm tiếp cận này về pháp luật, coi pháp luật nói chung là pháp
luật khách quan, pháp luật thực định tức đã đồng nhất pháp luật với
luật. Điều đặc trưng cho lý thuyết pháp luật nói chung là quy về quy
phạm học, cách quan niệm này cho rằng chân lý của pháp luật ở chính
trong pháp luật và được giới hạn ở ý chí của nhà làm luật, quan điểm và ý
kiến của người cầm quyền chính là pháp luật khách quan. Quan điểm này
tất nhiên không hoàn toàn phù hợp với bản chất và yêu cầu của chân lý,
pháp luật chân chính không phải được dựa trên ý chí chủ quan của một thế
lực nào mà là dựa trên chân lý, lẽ phải. Đó là những vấn đề thuộc phạm
vi nghiên cứu của THPL. Trong THPL có một phần quan trọng đó là lý luận
nhận thức pháp luật, mà cơ sở của nó là vấn đề sự khác biệt và tương
quan giữa pháp luật và luật.
Một trong những nội dung nghiên cứu của
THPL là pháp luật trong sự khác biệt và tương quan với các loại quy tắc
điều chỉnh xã hội khác. Theo đấy, có những mối quan hệ thường trực như
mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, tôn giáo và ngay chính với nhà
nước. Xét về cơ cấu, triết học pháp luật có hai phần: phần chung của
THPL là những vấn đề triết học của pháp luật như bản chất, vai trò, giá
trị xã hội của pháp luật; mối quan hệ giữa pháp luật với các loại công
cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác, mối quan hệ biện chứng giữa nhà nước
và pháp luật, giữa Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự; giữa nội dung
và hình thức nhà nước; mối quan hệ của cá nhân và pháp luật; v.v… Phần
riêng của THPL là những tư tưởng truyền thống và hiện đại của THPL. Theo
đấy là những quan điểm cơ bản về pháp luật và nhà nước trong mối quan
hệ với pháp luật, cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước và pháp luật
trong các hệ tư tưởng pháp luật của nhân loại qua các chặng đường lịch
sử.
Trong tương quan giữa xã hội học pháp
luật và triết học pháp luật, nếu xã hội học pháp luật quan tâm đến hành
vi thực tế, đến thực tại pháp luật thì triết học pháp luật cung cấp khả
năng về nhận thức – những nhận thức về vai trò giá trị xã hội của pháp
luật, vị trí, ý nghĩa sự điều chỉnh pháp luật, giá trị của pháp luật đối
với thang giá trị xã hội nói chung.
2. Một số vấn đề cơ bản thuộc đối tượng nghiên cứu của THPL trong bối cảnh hiện nay
Nhiệm vụ và vai trò của THPL là rất to
lớn, đối tượng nghiên cứu của THPL do vậy cũng bao gồm nhiều vấn đề.
Bước đầu có thể nêu một số vấn đề, một số hướng chủ yếu trong THPL hiện
nay như sau.
2.1. Về nhận thức – quan niệm pháp luật
Một trong những vấn đề đã và đang thu hút
sự quan tâm đặc biệt của giới lý luận đó là nhận thức về pháp luật,
pháp luật là gì, nên hiểu như thế nào và đến giới hạn nào về pháp luật.
Từ xa xưa triết gia người Đức Kantơ đã nhận xét: các luật gia luôn đi
tìm một định nghĩa về pháp luật, câu nói đó vẫn còn nguyên giá trị cho
đến thời đại ngày nay. Pháp luật là sự phản ánh cái đang tồn tại, cái
hiện thực, cái có sẵn hay pháp luật là cái cần phải có… Trong lịch sử đã
từng tồn tại các quan niệm khác nhau về pháp luật, tạo nên những trường
phái đặc thù như: trường phái tôn giáo về pháp luật, pháp luật tự
nhiên, pháp luật thực định: xã hội học pháp luật, triết học pháp luật,
tâm lý pháp luật; quan niệm giai cấp về pháp luật. Hiện nay quan niệm
pháp luật là đại lượng của tự do, công bằng đang là xu thế thời đại.
Quan niệm triết học về pháp luật, về nguyên tắc của tự do: pháp luật
được xác định các điều kiện, trong đó con người có thể hành động một
cách tự do, có nghĩa là xác định lĩnh vực hay là giới hạn, khuôn khổ –
đại lượng tự do cá nhân. Do vậy, cần đi sâu nghiên cứu về pháp luật, bản
chất, giá trị, công năng, các thuộc tính và mối quan hệ với các công cụ
điều chỉnh hành vi khác.
2.2. Nghiên cứu mối quan hệ giữa đạo đức, pháp luật, dân chủ và tự do
Trong điều kiện Nhà nước pháp quyền dân
chủ và xã hội dân sự, các vấn đề chi phối sự quan tâm của mỗi cá nhân,
cộng đồng, quốc gia, dân tộc và thời đại đó là tương quan giữa đạo đức,
pháp luật, dân chủ và tự do. Những vấn đề này về nguyên tắc cũng đã được
thể chế hoá trong pháp luật. Sự nhận thức, thực hành các giá trị này
vốn đã phức tạp nay lại càng phức tạp hơn trong xã hội hiện đại. Tiếp
cận THPL sẽ cho phép lý giải nhiều vấn đề cơ bản của mối quan hệ đa
chiều giữa các phạm trù đạo đức, pháp luật, dân chủ và tự do.
Pháp luật chỉ quan hệ với tự do có giới
hạn, tự do của một người bị giới hạn bằng tự do của người khác. Trong
điều kiện Nhà nước pháp quyền, tự do được mở rộng đối với mỗi cá nhân,
tự do được làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Các nhà tư tưởng lỗi
lạc của nhân loại đã lý giải và xây dựng những đề án về tự do: “Tự do
được thừa nhận về mặt pháp lý tồn tại trong nhà nước dưới hình thức pháp
luật. Luật pháp là những tiêu chuẩn khẳng định tích cực, rõ ràng, phổ
biến trong đó tự do có được sự tồn tại không phụ thuộc vào sự tuỳ tiện
của cá nhân riêng lẻ. Bộ luật là kinh thánh tự do của nhân dân”. Từ
J.Lôcke đến Montesquieu với tác phẩm bất hủ vượt thời gian “Tinh thần
pháp luật”, đã xây dựng lí thuyết phân chia quyền lực và khẳng định, ở
đâu không có pháp luật thì cũng không có tự do, bởi vì pháp luật là công
cụ cơ bản quyết định việc giữ gìn và mở rộng tự do cá nhân, đồng thời
bảo đảm cho cá nhân tránh khỏi sự tuỳ tiện và ý chí độc đoán của những
người cầm quyền [5, tr.100-101].
2.3. Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
Giữa đạo đức và pháp luật có sự thống
nhất bao hàm sự khác biệt, không đồng nhất, không thay thế nhau và loại
trừ nhau mà luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Pháp luật hay đạo
đức, dân chủ hay tự do thì cũng đều phải giải quyết vấn đề lợi ích, vấn
đề tương quan giữa quyền và nghĩa vụ, sự tôn trọng và bảo đảm, bảo vệ,
tôn vinh các giá trị, các quyền con người. Đây là những điều kiện thiết
yếu để thực hành đạo đức, dân chủ, tự do và pháp luật. Về nguyên tắc,
không phải pháp luật phán xét đạo đức mà ngược lại, đạo đức mới có quyền
phán xét pháp luật. Trong lịch sử và mãi mãi, pháp luật chưa bao giờ
lấn át được đạo đức. Các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức luôn là tiêu chí
tác động đến nội dung của các quy phạm pháp luật, được tính đến khi xem
xét các vấn đề pháp lý và ngược lại, trong từng vấn đề của đạo đức đều
phải xem xét cả phương diện pháp lý.
2.4. Nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật
Trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa
nhà nước và pháp luật không chỉ phải quan tâm đến sự thống nhất nội tại,
sự cần thiết có nhau của nhà nước và pháp luật mà còn phải xem xét đến
sự khác biệt, sự không tương thích, hay những mâu thuẫn tất yếu của nhà
nước và pháp luật. Sự không tương xứng với nhau của nhà nước và pháp
luật được thể hiện ở rất nhiều vấn đề cụ thể, ví như sự không phù hợp
giữa hoạt động tổ chức của nhà nước với hoạt động xây dựng pháp luật hay
nhận thức, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ áp dụng pháp luật nhiều khi
lạc hậu so với các lý luận khoa học và thực tiễn, thậm chí với chính các
quy định pháp luật mới. Sự thống nhất bao hàm sự khác biệt, không đồng
nhất, không thay thế nhau và loại trừ nhau, nhà nước và pháp luật luôn
luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Bất kỳ một sự thống nhất nào cũng
không có nghĩa là đồng nhất. Đó chính là biện chứng của nhà nước và
pháp luật trong mối quan hệ sinh tồn của chúng.
2.5. Nghiên cứu mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự, Nhà nước pháp quyền và quyền con người
Một Nhà nước pháp quyền đích thực phải
được tồn tại trong môi trường có sự phát triển lành mạnh của xã hội dân
sự và ngược lại. Hai loại thực thể này trên phương diện triết học vừa
đối lập vừa nằm trong một thể thống nhất, phụ thuộc, nương tựa, ảnh
hưởng lẫn nhau và cũng phải tự phân định phạm vi giới hạn chủ quyền của
nhau và phạm vi của sự hợp tác. Trong xã hội dân sự, hoạt động của nhà
nước cần được tiến hành trong các hình thức pháp lý dân chủ để bảo vệ
các quyền con người và các giá trị nhân đạo khác. Xã hội dân sự là điều
kiện thiết yếu để hình thành và phát triển Nhà nước pháp quyền. Cần phải
xây dựng trong lòng xã hội dân sự ý thức tôn trọng pháp quyền, tính
chất pháp quyền phải có mặt trong tất cả các quan hệ pháp luật. Chỉ có
nhờ vào xã hội dân sự thì nhà nước mới không rơi vào tình trạng độc tài,
mới thực sự vì lợi ích chính đáng của con người. Và ngược lại, Nhà nước
pháp quyền đảm bảo an toàn cho xã hội dân sự vận hành. Tiếp cận THPL
cho phép nhận diện một cách toàn diện, có hệ thống về mối quan hệ giữa
Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự.
Mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền, xã
hội dân sự và quyền con người cũng là một trong những vấn đề cơ bản của
THPL. Bởi lẽ, không chỉ đơn thuần là việc quy định trong pháp luật các
quyền con người hay việc thực thi chúng trong thực tiễn mà còn là vấn đề
mang tính nguyên tắc chung hơn ví như vấn đề tự do đối với cả hai phía –
cá nhân mỗi con người và nhà nước. Giới hạn của quyền lực nhà nước nhìn
từ một phương diện đó chính là quyền con người. Nhưng đến lượt mình,
bản thân quyền con người và sự giới hạn tất yếu của nó cũng là lợi ích
xã hội, lợi ích chung mà pháp luật nhà nước là một trong những cách
thức, một trong những công cụ thể chế hoá và thực hiện trong đời sống xã
hội. Những vấn đề đại để như vậy cần phải được tiếp cận từ phương diện
triết học, coi đó là cơ sở để xâm nhập một cách tự tin vào các quy định
pháp luật, vào hệ thống các thiết chế và các biện pháp pháp lý.
2.6. Những vấn đề triết học cơ bản khác thuộc các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành
Ngoài những vấn đề chung có tính liên
ngành nêu trên, triết học pháp luật còn cần được triển khai trên quy mô
của các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành. Điều này trước hết xuất phát từ
chính mối quan hệ hữu cơ của các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, không
thể biệt lập các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành được kể cả trong văn
bản pháp luật, kể cả trong thực tiễn nhận thức và áp dụng. Những nguyên
lý hình thành, biến đổi của hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực cần
được tiếp cận từ phương diện triết học pháp luật, triết học văn hoá –
đạo đức. Ví như, tương quan giữa tội phạm và hình phạt, xu hướng vận
động của các loại hình phạt qua các không gian và thời gian; vấn đề pháp
lý và đạo đức của án tử hình v.v… đều thuộc phạm vi những vấn đề triết
học của pháp luật – của THPL. Ngay cả những vấn đề thường nhật như trách
nhiệm bồi thường thiệt hại tinh thần và vật chất, vấn đề lỗi cùng tính
bắt buộc hay không bắt buộc của nó trong các quan hệ không chỉ lĩnh vực
luật tư mà cả lĩnh vực luật công cũng cần được nhận thức và thực hành
như thế nào cho hợp lý tối ưu nhất… đều thuộc vùng phủ sóng của THPL.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của THPL và
phù hợp với hội nhập quốc tế về đào tạo và nghiên cứu pháp luật, việc
triển khai nghiên cứu THPL ở nước ta hiện nay có thể tiến hành song song
trên cả hai phương diện: tích hợp ngay trong nghiên cứu lý luận pháp
luật truyền thống cùng với xã hội học pháp luật và, xây dựng triết học
pháp luật như là một bộ môn khoa học pháp lý độc lập trong hệ thống các
khoa học pháp lý nước nhà.
Tài liệu tham khảo[1] Đào Trí Úc, Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.[2] Montesquieu, Tinh thần pháp luật, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1996.[3] Hêgen, Triết học pháp quyền, NXB Bek, Maxcơva, 1990 (bản tiếng Nga).[4] Nguyễn Trọng Chuẩn, Triết học pháp quyền của Hêghen, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.[5] V.X. Nhersexian, Triết học pháp quyền, NXB Bek, Maxcơva, 1998 (bản tiếng Nga).
Hoàng Thị Kim Quế
Theo: Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế – Luật 23 (2007)
0 comments:
Post a Comment