TS. NGUYỄN NGỌC ĐIỆN – Phó hiệu trưởng, Trường Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Phân tích, so sánh nội
dung của quyền sở hữu và chiếm hữu trong pháp luật các nước, từ cổ tới
kim, phân tích căn nguyên của sự bất hợp lý đặc thù trong cơ chế bảo vệ
quyền sở hữu đang vận hành ở Việt Nam khi thừa nhận chiếm hữu như là một
phần nội dung của quyền sở hữu, người viết yêu cầu phải nhìn nhận lại
quan hệ chiếm hữu theo đúng bản chất, là tách quyền chiếm hữu ra khỏi
quyền sở hữu và trả nó về vị trí thích hợp trước khi hoàn thiện pháp
luật sở hữu.
Không biết từ lúc nào, quyền sở hữu ở Việt Nam được
phân tích về mặt nội dung thành ba quyền năng: chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt. Quan niệm ấy được những người soạn thảo Bộ luật Dân sự (BLDS)
năm 1995 và cả BLDS năm 2005 sau này thấm nhuần và trở thành tư tưởng
chủ đạo, được quán triệt trong quá trình xây dựng các quy tắc của Bộ
luật liên quan đến quyền sở hữu. Chế độ pháp lý về sở hữu ở Việt Nam trở
nên đặc thù và điều này khiến cho việc cải cách pháp luật dân sự trong
khung cảnh hội nhập, đặc biệt về phần liên quan đến tài sản, là việc
không đơn giản. Trở ngại chính đối với việc cải cách là sự khác biệt lớn
giữa Việt Nam và các nền văn hoá pháp lý tiêu biểu trong cách hiểu về
nội dung của quyền sở hữu, từ đó ảnh hưởng đến cách định vị chế định
chiếm hữu trong pháp luật tài sản.
1. Chiếm hữu trong luật các nước
1.1. Luật cổ La Mã
Sở hữu và chiếm hữu1. Từ rất sớm,
các nhà luật học cổ La Mã đã nhận thức được sự cần thiết phân biệt giữa
sở hữu (ownership) và chiếm hữu (possession), như là sự phân biệt giữa
nội dung và hình thức của một quan hệ xã hội.
Trong một tình huống đặc thù, cả thế giới đứng trước
một người đang nắm giữ một vật có giá trị tiền tệ, gọi là một tài sản.
Người này có thể là chủ sở hữu đối với tài sản, nhưng cũng có thể là
người thuê, mượn tài sản để sử dụng, thậm chí… chỉ là người trộm tài
sản. Tìm hiểu xem liệu người này có phải là chủ sở hữu, người thuê hay
chỉ là một kẻ trộm…, về thực chất, là việc phân tích tình trạng pháp lý
của người đó trong mối quan hệ với tài sản nắm giữ. Tất nhiên, nếu do
kết quả tìm hiểu mà tư cách trộm đạo của đương sự lộ ra, thì nhà chức
trách phải can thiệp bằng biện pháp xử lý thích hợp; còn trong những
trường hợp khác, mọi việc có thể tiếp diễn bình thường, với điều kiện
người nắm giữ tài sản tôn trọng các giới hạn mà pháp luật đặt ra đối với
việc thực hiện các quyền của mình.
Vấn đề là không phải lúc nào người ta cũng cần
tìm hiểu như thế. Đơn giản, mọi người thấy một người đang nắm giữ một
tài sản và đang xử sự, trong mối quan hệ với tài sản, theo cung cách của
người có quyền năng trên tài sản đó; người ta ghi nhận điều này, nghĩa
là ghi nhận sự tồn tại của một thứ quyền năng bề ngoài của người nắm giữ
tài sản, rồi cư xử với người đó một cách thích ứng mà không bận tâm đến
chuyện người đó có hay không có quyền thực sự đối với tài sản. Người
chủ một công trình xây dựng tiến hành thảo luận và thoả thuận với người
láng giềng về việc xây dựng như thế nào để người láng giềng không cảm
thấy phiền hà; người nhận giữ xe tiếp nhận chiếc xe được người lái đưa
vào bãi: người chủ công trình và người giữ xe xử sự như thế, bởi trong
mắt họ cũng như trong niềm tin nội tâm của họ, người láng giềng cũng như
người lái xe là những người có quyền năng đối với bất động sản lân cận
hoặc đối với chiếc xe đó…
Quyền năng bề ngoài ấy được các nhà luật học La Mã gọi là quyền chiếm hữu, phân biệt với quyền sở hữu, là quyền năng bên trong hay quyền năng pháp lý, đối với tài sản.
Về mặt cấu trúc, quyền sở hữu được hình dung là sự hội tụ của ba yếu tố: usus (tạm gọi là dùng), fructus (khai thác sức sinh lợi) và abusus (định đoạt). Trong khi đó quyền chiếm hữu được xây dựng bằng hai tố tố cơ bản: corpus (tạm gọi là yếu tố vật chất) và animus (yếu tố tâm lý)
Corpus và animus. Corpus,
yếu tố vật chất hay yếu tố khách quan, được hiểu là việc thực hiện trên
thực tế các hành vi mang tính chất thể hiện quyền năng đối với tài sản.
Chiếm hữu trong tư cách chủ sở hữu, người chiếm hữu thực hiện các hành
vi tương ứng với các quyền dùng, khai thác lợi ích từ tài sản và định
đoạt tài sản. Corpus thường được các nhà luật học La Mã cổ đại
phân tích thành việc xác lập, thực hiện các giao dịch mang tính vật chất
tác động lên tài sản, chẳng hạn cày cấy, trồng trọt trên ruộng đất, cất
giữ đồ đạc trong tủ…2.
Animus, yếu tố tâm lý hay yếu tố chủ quan,
được hiểu là thái độ tâm lý thể hiện thành cung cách cư xử phù hợp với
các quyền năng mà người chiếm hữu tự cho là có được đối với tài sản.
Chiếm hữu trong tư cách chủ sở hữu, người chiếm hữu bộc lộ dáng vẻ của
một người có các quyền năng dùng, khai thác giá trị kinh tế của tài sản
và định đoạt tài sản.
Sự cần thiết xây dựng và hoàn thiện chế định chiếm hữu.
Nhắc lại rằng không phải lúc nào, khi đứng trước mặt một người đang nắm
giữ một vật, người ta luôn tự hỏi người nắm giữ thực sự có quyền gì đối
với vật đó. Trái lại, trong đại đa số trường hợp thực tiễn, mọi người
thừa nhận mối quan hệ chiếm hữu ấy và chấp nhận xác lập, thực hiện giao
tiếp thích ứng với người chiếm hữu.
Trong nhiều trường hợp xung đột, khủng hoảng liên
quan đến việc sử dụng tài sản, vấn đề ai thực sự có quyền đối với tài
sản cũng không nhất thiết được đặt ra. A và B là hai người láng giềng,
chiếm hữu hai bất động sản liền kề. A trồng cây lấn sang không gian
thuộc bất động sản của B. Pháp luật thừa nhận cho B trong trường hợp này
có quyền yêu cầu A tôn trọng quyền của mình đối với phần không gian
tranh chấp. Thẩm phán có thể ra bản án buộc A phải loại bỏ các phần cây trồng lấn sang không gian thuộc bất động sản của B. Cần nhấn mạnh rằng khi thụ lý vụ án, thẩm phán không cần và cũng không có quyền yêu cầu B chứng minh tư cách
chủ sở hữu vì đơn giản, B đang sử dụng bất động sản một cách bình yên
thì bị người khác quấy nhiễu; cần bảo vệ B để lập lại trật tự xã hội. Có
thể rồi sau này, cũng chính thẩm phán đó thụ lý một vụ án do C khởi
kiện để tranh chấp với B về quyền sở hữu bất động sản đó và cuối cùng
xác định được rằng B không phải là chủ sở hữu đích thực của bất động
sản. Nhưng, ngay cả trong trường hợp đó, thẩm phán cũng không bị coi là
đã từng bảo vệ một người không có tư cách chủ sở hữu.
Người làm luật, về phần mình, cũng không cần băn
khoăn tự hỏi liệu trong những tình huống xảy ra xung đột, khủng hoảng
đó, pháp luật có tỏ ra quá dễ dãi khi chấp nhận dành cho chủ thể sự bảo
hộ mà không cần kiểm tra để biết liệu chủ thể có xứng đáng thụ hưởng sự
bảo hộ ấy. Bởi trên thực tế, đa số người chiếm hữu là chủ sở hữu đích
thực; bảo vệ người chiếm hữu, trên nguyên tắc, được coi là bảo vệ chủ sở
hữu. Sự nhầm lẫn, như trong trường hợp nêu trên, chỉ là ngoại lệ chấp
nhận được, một sự cố cá biệt trong cuộc sống dân sự.
Về mặt lý thuyết, nếu có một hệ thống pháp lý nào cho
phép thiết lập được bằng chứng tuyệt đối về quyền sở hữu, thì nhà chức
trách sẽ có điều kiện xác định người nào có tư cách và người nào không
có, trong quan hệ với tài sản. Nhưng ngay cả trong trường hợp người
chiếm hữu không phải là chủ sở hữu, thì việc tạm thời bảo vệ tình trạng
chiếm hữu của người đó trong quan hệ với tài sản chống lại hành vi xâm
hại của người khác cũng cần thiết về phương diện bảo đảm trật tự xã hội.
Giả sử, trong ví dụ trên, A trồng cây lấn sang phần
không gian thuộc bất động sản của B vì cho rằng phần không gian ấy,
nghĩa là phần đất dưới đó, là của mình, thì, theo yêu cầu của B, thẩm
phán vẫn có quyền buộc A triệt hạ các phần cây cối phát triển trái phép.
Lý do để thẩm phán can thiệp là: A đang sống trong xã hội có tổ chức;
nếu muốn tranh chấp với B về quyền sở hữu bất động sản, thì A phải tiến
hành tranh chấp theo đúng quy định của pháp luật, nghĩa là trước toà án;
A không thể tự dùng lực lượng vật chất của riêng mình để thiết lập công
lý cho mình. Có thể rồi sau khi đánh giá các chứng cứ, thẩm phán xác
định chính A mới là chủ sở hữu phần không gian tranh chấp ấy. Khi đó, A
có quyền trồng cây cũng như tất cả các quyền khác của một chủ sở hữu3. Nhưng, cho đến thời điểm ấy, các bên phải đứng yên ở vị trí quen thuộc của mình và nhất là không được manh động.
1.2. Luật châu Âu
1.2.1. Các quan niệm trái ngược về cấu trúc quan hệ chiếm hữu
Học thuyết về chiếm hữu trong luật cổ La Mã được các
nhà luật học châu Âu thời cận đại phát hiện và vận dụng trong quá trình
xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật tài sản. Từ các kết quả giải
thích khác biệt về cấu trúc quan hệ chiếm hữu được người La Mã nhìn
nhận, các nhà luật học Châu Âu cận đại chia thành hai nhóm, tương ứng
với hai trường phái.
Trường phái chiếm hữu chủ quan (subjective possession).
Trường phái này do Savigny, một nhà triết học luật của Đức đại diện.
Theo trường phái này, thì yếu tố cơ bản, quyết định sự xác lập quan hệ
chiếm hữu là animus. Lý lẽ được đưa ra là corpus, yếu
tố vật chất, thể hiện thành các hành vi tác động cụ thể lên tài sản, có
thể được thực hiện bởi người này, người nọ với những tư cách rất khác
biệt: nếu chủ sở hữu nhà có thể sử dụng nhà để ở, thì người thuê nhà
cũng có thể làm giống hệt như thế. Trong khi đó, người thuê nhà không
thể có được trạng thái tâm lý giống như chủ sở hữu nhà trong quá trình
tác động lên tài sản bằng các giao tiếp vật chất. Với quan niệm ấy, thì
sự chiếm hữu đích thực phải là sự nắm giữ tài sản theo cung cách thực tế
của một chủ sở hữu.
Trường phái chiếm hữu khách quan (objective possession).
Trường phái này do Ihering, cũng là một nhà triết học luật của Đức đại
diện. Đối với trường phái này, thì điều quan trọng bậc nhất để quan hệ
chiếm hữu được xác lập là phải có hành vi tác động vật chất lên tài sản,
nghĩa là phải có corpus. Thực ra Ihering không phủ nhận hoàn
toàn ý nghĩa, tác dụng của yếu tố tâm lý; tuy nhiên, ông cho rằng nó
được thể hiện trong bản thân hành vi vật chất, trong corpus:
khi một chủ thể tác động lên một tài sản bằng cách thực hiện một hành vi
vật chất nào đó, thì bản thân hành vi đó bao hàm quyền năng của chủ thể
đối với tài sản.
1.2.2. Giải pháp trong luật các nước tiêu biểu
Luật của Pháp. Trường phái chiếm hữu chủ
quan thống trị trong luật học của Pháp. Bởi vậy, đối với người Pháp,
quan hệ chiếm hữu chỉ được xác lập một khi chủ thể thực sự có thái độ
tâm lý của người có quyền năng của riêng mình đối với tài sản chứ không
đi vay mượn quyền năng của người khác. Chấp nhận quan niệm chiếm hữu chủ
quan, người Pháp chỉ coi là có tình trạng chiếm hữu một khi người nắm
giữ tài sản tự xưng là chủ sở hữu tài sản4; trong trường hợp
người nắm giữ tài sản thể hiện một tư thế khác với tư thế chủ sở hữu,
chẳng hạn, của một người thuê, mượn, thì luật của Pháp chỉ ghi nhận tình
trạng cầm giữ tạm thời (détention précaire).
Giải pháp ấy, dẫn đến sự phân biệt hai loại người nắm
giữ tài sản với hai tư cách khác biệt, tất yếu dẫn đến vấn đề: làm thế
nào, khi đứng trước một người đang nắm giữ một tài sản, có thể xác định
đó là người chiếm hữu hay chỉ là người cầm giữ tạm thời? Để giải quyết
vấn đề này, người làm luật của Pháp sử dụng hai công cụ. Một mặt, theo
BLDS Pháp Điều 2250, bất kỳ người nào đang nắm giữ tài sản đều được suy
đoán là người chiếm hữu, cho đến khi có ai khác chứng minh được rằng
người này chỉ là người nắm giữ tài sản của người khác, tức là chỉ cầm
giữ tạm thời. Mặt khác, theo Điều 2251, người nào đã mang tư cách người
cầm giữ tạm thời, thì luôn được suy đoán là chỉ có tư cách đó chứ không
thể “tự hô biến” thành người chiếm hữu, dù bao nhiêu thời gian có trôi
qua, trừ trường hợp chứng minh được rằng mình đã trở thành chủ sở hữu
bằng các con đường hợp pháp.
Luật của Đức. Những người soạn thảo BLDS Đức
chịu ảnh hưởng của học thuyết Ihering về chiếm hữu. Bởi vậy, chiếm hữu
trong luật của Đức được định nghĩa là một quyền thực tế đối với tài sản
(Điều 854). Tất cả những ai thực hiện việc nắm giữ tài sản để phục vụ
lợi ích của riêng mình đều được thừa nhận có tư cách người chiếm hữu.
Bởi vậy, chỉ không coi là có quan hệ chiếm hữu những trường hợp nắm giữ
tài sản bởi những người hoàn toàn phụ thuộc vào mệnh lệnh của người
khác, như người lái xe cho chủ, người quản gia, thủ quỹ… Trong khi đó,
người thuê, mượn tài sản, người nhận ký gửi đều được trao tư cách người
chiếm hữu.
1.2.3. Hiệu lực của sự chiếm hữu
Một khi được xác lập, quan hệ chiếm hữu được pháp
luật thừa nhận và phát sinh hiệu lực pháp luật một cách độc lập với quan
hệ sở hữu. Trong một thời gian dài, luật của Pháp và luật của Đức có
nhiều điểm khác biệt trong việc xác định thái độ của xã hội đối với
người chiếm hữu; tuy nhiên, từ hơn 30 năm nay, sự khác biệt ấy đã dần
dần bị xoá nhoà.
Trong khung cảnh của luật thực định Pháp và Đức, quan
hệ chiếm hữu được thừa nhận ở ba điểm đáng chú ý nhất: 1. Nó có tác
dụng tạo ra sự suy đoán có lợi cho người chiếm hữu mỗi khi có tranh chấp
về quyền đối với tài sản; 2. Nó cho phép người chiếm hữu được hưởng sự
bảo vệ chống moi quấy nhiễu từ bên ngoài; 3. Nó cho phép người chiếm
hữu, trong những hoàn cảnh được dự kiến, xác lập quyền sở hữu theo thời
hiệu.
Suy đoán có quyền. Trong trường hợp vấn đề
ai trong những người liên quan là người thực sự có quyền đối với tài sản
được đặt ra, thì trước hết, người đang chiếm hữu tài sản đương nhiên
được pháp luật suy đoán là người có quyền. Điều đó có nghĩa, ai khác cho
rằng chính mình mới là người có quyền đối với tài sản thì phải tiến
hành khởi kiện để tranh chấp và phải chứng minh. Về phần mình, người
chiếm hữu có quyền cứ ngồi yên: nếu bên kia trình được bằng chứng thuyết
phục, thì họ thắng kiện và được thừa nhận là chủ sở hữu; còn nếu không,
thì tư cách chủ sở hữu tiếp tục ở lại với người chiếm hữu.
Bảo vệ quyền chiếm hữu. Người chiếm hữu được
pháp luật bảo vệ chống lại mọi sự xâm hại vật chất từ bên ngoài, còn
gọi là quấy nhiễu, đối với tình trạng chiếm hữu của mình. Có thể coi vụ A
lấn chiếm không gian thuộc bất động sản do B chiếm hữu, nêu trên, là
một ví dụ tiêu biểu về quấy nhiễu sự chiếm hữu trong cuộc sống dân sự.
Nói chung, một hành vi gọi là quấy nhiễu sự chiếm
hữu một khi nó được thực hiện một cách cố ý và tác động trực tiếp đến
tình trạng chiếm hữu đang tồn tại. Theo yêu cầu của người chiếm
hữu, trong khuôn khổ một vụ kiện về bảo vệ sự chiếm hữu (possessory
action), thẩm phán có thể buộc người quấy nhiễu phải chấm dứt việc quấy
nhiễu và tái lập tình trạng ban đầu.
Thực ra, nếu muốn, người chiếm hữu mà bị quấy nhiễu
có thể tiến hành tranh chấp luôn về quyền với người quấy nhiễu sự chiếm
hữu của mình, bằng một vụ kiện về quyền (petitory action). Luật mở ra
cho người chiếm hữu hai khả năng kiện cáo để lựa chọn.
Cũng có thể chính người quấy nhiễu có khả năng, điều
kiện và mong muốn tranh chấp với người chiếm hữu về quyền đối với tài
sản. Nhưng một khi, thay vì kiện trước toà án, người này lại đi quấy
nhiễu người chiếm hữu và bị người sau này kiện, thì người quấy nhiễu
phải đi theo vụ kiện của người chiếm hữu, chứ không được kiện ngược.
Trong một kịch bản điển hình, một người cho rằng mình có quyền sở hữu
đối với phần đất đang bị người khác chiếm hữu và chủ động xây dựng,
trồng cây trên phần đất đó; người chiếm hữu kiện ra toà yêu cầu bảo vệ
tình trạng chiếm hữu của mình bằng một possessory action; thẩm
phán yêu cầu người quấy nhiễu ngưng việc xây dựng, trồng cây và khôi
phục tình trạng ban đầu; người quấy nhiễu phải chấp hành bản án, rồi sau
dó, nếu muốn, có thể tiến hành một vụ tranh chấp về quyền với người
chiếm hữu bằng một petitory action.
Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Người
chiếm hữu trong tư thế của một chủ sở hữu, dù không phải là chủ sở hữu
đích thực, thì sau một thời gian có thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó.
Giải pháp này được ghi nhận cả trong trường hợp chiếm hữu không ngay
tình, nhưng tất nhiên, thời gian thử thách đối với người này phải dài
hơn so với người chiếm hữu ngay tình, có thể gấp đôi, gấp ba, tuỳ theo
sự đánh giá của người làm luật về chất lượng đạo đức của sự chiếm hữu
không ngay tình.
2. Suy nghĩ về xây dựng chế định chiếm hữu trong luật Việt Nam
2.1. Nhận dạng những điểm bất hợp lý
Bước 1: ghi nhận khái niệm chiếm hữu có căn cứ pháp luật.
Nhắc lại trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, chiếm hữu là một
phần nội dung của quyền sở hữu. Bởi vậy, để đánh giá chất lượng pháp lý
của sự chiếm hữu, người ta phải dựa vào chất lượng pháp lý của mối quan
hệ giữa chủ sở hữu và người chiếm hữu, chứ không dựa vào sự tồn tại của
corpus vàanimus. Trên nguyên tắc, việc chiếm hữu phải
có dấu ấn tích cực của chủ sở hữu đích thực mới được pháp luật thừa
nhận và bảo vệ. Dấu ấn ấy được ghi nhận ở ba cấp độ của tình trạng được
gọi là chiếm hữu có căn cứ pháp luật (BLDS Điều 183):
- Cấp độ 1 (tuyệt đối): chủ sở hữu tự mình chiếm hữu;
- Cấp độ 2 (tương đối): người khác chiếm hữu với sự chấp nhận của chủ sở hữu, như trường hợp cho thuê tài sản;
- Cấp độ 3 (bất đắc dĩ): người khác chiếm hữu sau khi
chủ sở hữu đã mất sự kiểm soát vật chất đối với tài sản do một nguyên
nhân nào đó, như trường hợp chủ sở hữu đánh rơi đồ vật, rồi người khác
nhặt được.
Bước 2: ghi nhận sự đồng nhất của các cơ chế bảo vệ đối với các quan hệ khác biệt
do không xây dựng chế định chiếm hữu độc lập với chế định sở hữu mà
luật cũng không có hệ thống bảo vệ tình trạng chiếm hữu phân biệt với hệ
thống bảo vệ quyền sở hữu. Trong khung cảnh của luật thực định Việt
Nam, chủ sở hữu và người chiếm hữu có căn cứ pháp luật được bảo vệ theo
cùng một cơ chế đặc trưng bởi hai biện pháp: kiện đòi lại tài sản (Điều
256) và kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở việc thực
hiện quyền đối với tài sản (Điều 259)5.
Để được hưởng sự bảo vệ, điều kiện cần thiết là các
nguyên đơn phải chứng minh cho được tư cách của mình, nghĩa là phải xuất
trình các bằng chứng cho thấy mình là chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu
có căn cứ pháp luật. Đáng chú ý là điều kiện này được đặt ra cả trong
trường hợp kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở việc
thực hiện quyền đối với tài sản. Cứ hình dung: một người đang khai thác
một phần đất một cách bình yên; một người khác đến cắm dùi bên cạnh rồi
bắt đầu tiến hành lấn chiếm; người bị lấn chiếm kiện, yêu cầu chấm dứt
hành vi lấn chiếm; theo yêu cầu của thẩm phán, người đi kiện phải chứng
minh được quyền của mình đối với tài sản, thuộc một trong ba cấp độ nêu
trên, thì mới được bảo vệ.
Nhưng chứng minh như thế nào, thì mới coi là chấp nhận được?
Bước 3: phát hiện sự bế tắc của hệ thống bảo vệ.
Ở các nước tiên tiến, một khi có tranh chấp về quyền đối với tài sản,
thì, như đã biết, người chiếm hữu thực tại được suy đoán là người có
quyền và được miễn trách nhiệm chứng minh. Điều đó cũng có nghĩa rằng,
một khi bên kia không chứng minh được quyền của mình một cách thuyết
phục, thì phải chấp nhận thua kiện. Tất nhiên, một khi bên đi kiện buộc
phải rút lui, thì người chiếm hữu tiếp tục ở lại với tài sản. Song chẳng
ai nói rằng người chiếm hữu ở lại sau vụ tranh chấp, vì đó chính là chủ
sở hữu đích thực, tuyệt đối. Đơn giản, bức tranh quan hệ sở hữu mà bên
tranh chấp với người chiếm hữu giới thiệu tỏ ra không đáng tin cậy hơn
bức tranh đang có. Không có lý do gì luật pháp, thẩm phán lại đi đánh
đổi cái đang tồn tại mà nhận lấy cái mới không tốt hơn, để tạo rủi ro
mất trật tự.
Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, một khi
ai đó có hành vi tác động lên một tài sản rồi dẫn đến xung đột, thì các
bên sẽ phải lao vào cuộc chiến về quyền và phải dùng vũ khí chứng cứ để
giành lấy quyền về cho mình. Người làm luật, về phần mình, chỉ có hai
cách để giải quyết xung đột.
Hoặc, xây dựng hệ thống đăng ký xác lập quyền, cho
phép thiết lập bằng chứng tuyệt đối, không thể đảo ngược về quyền. Với
hệ thống này, thì mọi xung đột nhằm tranh giành quyền đều được giải
quyết nhanh, gọn. Người làm luật Việt Nam dường như rất muốn có một hệ
thống như thế, nếu không được đối với tất cả mọi loại tài sản, thì ít
nhất là đối với quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, việc
xây dựng hệ thống này không khả thi ở Việt Nam6.
Hoặc, cứ để cho thẩm phán tự mình đánh giá chứng cứ
và quyết định. Trong điều kiện không thể có chứng cứ tuyệt đối, thẩm
phán buộc phải yêu cầu các bên đi ngược dòng thời gian để dựng lại lịch
sử về quyền của mình, và cứ đi mãi: người chiếm hữu gọi là hợp pháp, nếu
được chủ sở hữu đích thực uỷ quyền quản lý; chủ sở hữu, về phần mình,
có quyền sở hữu do mua lại tài sản của chủ sở hữu trước đó; người trước
đó thì có được tài sản do thừa kế;… Đây chính là cách giải quyết xung
đột được chấp nhận trong luật Việt Nam hiện hành. Thực ra, chẳng có ai
trong cơ chế giải quyết này đi được đến điểm tận cùng của chứng cứ. Thẩm
phán buộc phải dừng câu chuyện ở một thời điểm nào đó và tuyên bố quyền
sở hữu thuộc về một người nào đó. Sau này, nếu một tranh chấp mới lại
nổ ra, thì có khi thẩm phán, tuỳ theo chất lượng của chứng cứ mới, lại
tước quyền sở hữu của người đã thắng kiện, rồi trao nó cho người khác.
2.2. Biện pháp khắc phục những điểm bất hợp lý
Nhìn nhận quan hệ chiếm hữu theo đúng bản chất. Căn
nguyên của sự bất hợp lý nói trên trong cơ chế bảo vệ quyền sở hữu đang
vận hành ở Việt Nam, không gì khác, chính là việc thừa nhận chiếm hữu
như là một phần nội dung của quyền sở hữu. Yêu cầu số một đối với việc
hoàn thiện pháp luật sở hữu, bởi vậy, là tách quyền chiếm hữu ra khỏi quyền sở hữu và trả nó về vị trí thích hợp.
Nói rõ hơn, cần thừa nhận chiếm hữu như là một
quan hệ thực tế giữa chủ thể và tài sản, là sự bộc lộ ra bên ngoài một
quyền năng đối với tài sản. Sự bộc lộ ấy có thể phản ánh trung thực
nội dung bên trong của các quyền mà chủ thể có được đối với tài sản
liên quan, nhưng cũng có thể không. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng
cần đặt vấn đề liệu chủ thể thực sự có hay không có quyền. Nếu việc
chiếm hữu đang diễn ra công khai và bình yên, thì quan hệ chiếm hữu được
pháp luật thừa nhận và bảo vệ, như là một phần của trật tự xã hội. Và
cũng vì một quan hệ chiếm hữu đang tồn tại và vận hành công khai, bình
yên là phù hợp với trật tự xã hội, mà người chiếm hữu cần được ưu tiên
bảo vệ cả trong trường hợp có sự tranh chấp về quyền đối với tài sản:
người này phải được suy đoán là có quyền; ai nói ngược lại, thì phải
chứng minh.
Bởi vậy, cần viết lại các chương, điều tương ứng
trong BLDS của Việt Nam, cũng như cần xây dựng mới một chương riêng về
quyền chiếm hữu. Các mô hình của Pháp, Đức là những bài học tốt để tham
khảo.
Chú thích:
(1) Có thể xem: F. Terré va Ph. Simler, Droit
civil. Les biens, Précis Dalloz, Paris, 1999, tr. 45 và kế tiếp; Ph.
Malaurie và Laurent Aynès, Droit civil. Les biens, Cujas, Paris, 1998,
tr. 136 và kế tiếp; Lawson và Rudden, The Law of property, Clarendon
Presse-Oxford, 1982, tr. 120 và kế tiếp.
(2) Luật học phương Tây hiện đại còn coi các hành
vi pháp lý như cho thuê, cho mượn, cũng là một phần của corpus: G.
Cornu, Droit civil. Introduction. Les personnes. Les biens,
Montchrestien, Paris, 1990, tr. 355.
(3) Quyền này, một khi được thừa nhận, tồn tại từ
thời điểm A xác lập quyền sở hữu đối với toàn bộ bất động sản của mình,
trong đó có phần được tranh chấp. Điều này cũng có nghĩa rằng việc
trước đây A buộc phải triệt bỏ phần cây cối phát triển trong phần không
gian tranh chấp thực sự gây ra cho A một thiệt hại vật chất mà A có
quyền yêu cầu bồi thường. Nhưng đó là chuyện khác.
(4) Việc tự xưng có thể được thực hiện bằng thái độ ứng xử chứ không nhất thiết bằng lời nói.
(5) Trong các điều luật về bảo vệ quyền sở hữu có
nhắc đến một nhân vật gọi “người chiếm hữu hợp pháp”. Nhân vật này
không xuất hiện trong các điều luật từ 182 đến 191 liên quan đến quyền
chiếm hữu.
Có ý kiến cho rằng, người chiếm hữu hợp pháp là
danh xưng dùng để chỉ người chiếm hữu có căn cứ pháp luật theo Điều 183
và người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình theo Điều
189. Tuy nhiên, các biện pháp bảo vệ người chiếm hữu hợp pháp theo Điều
256 (kiện đòi lại tài sản) và Điều 259 (yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt
hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền chiếm hữu
hợp pháp) là những biện pháp chỉ được thực hiện trên cơ sở kiểm tra tư
cách của người chiếm hữu. Một cách hợp lý, một khi người chiếm hữu không
có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình được thẩm tra tư cách, thì tình
trạng chiếm hữu không có căn cứ pháp luật cũng bộc lộ; khi đó, sự ngay
tình cũng phải chấm dứt.
Bởi vậy, người chiếm hữu hợp pháp được nhắc đến trong các điều luật ấy chỉ có thể là người chiếm hữu có căn cứ pháp luật.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment