I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC
1. Điều kiện tự nhiên
- Hy lạp nằm trên bán đảo Bankan, các đảo trên biển Êgiê và vùng đất phía Tây Tiểu A, giáp với đông Địa Trung Hải, đất đai cằn cổi và bị chia cắt thành nhiều khu vực nhỏ bởi đồi, núi, đèo, sông suối…
- La mã nằm trên bán đảo Italia, đất đai tương đối phì nhiêu.
- Cả Hy Lạp và La Mã đều có nhiều khoáng sản quý, nằm trong vùng khí hậu ôn đới.
Do đó:
- Cả Hy Lạp và La Mã có nhiều vịnh và hải cảng tốt, rất thuận lợi cho việc phát triển nghề thương nghiệp, đặc biệt là mậu dịch hàng hải.
- Kinh tế thủ công nghiệp rất phát triển.
- Kinh tế nông nghiệp kém phát triển, không đóng vai trò kinh tế chủ đạo của quốc gia.
- Ngoài ra, do địa hình của Hy Lạp bị chia cắt thành nhiều khu vực nhỏ nên xu hướng thống nhất về lãnh thổ và chính trị không đặt ra cấp thiết, lịch sử của Hy Lạp là lịch sử của các thành bang tồn tại độc lập với nhau.
2. Điều kiện kinh tế xã hội và quá trình hình thành nhà nước
a. Hy Lạp
- THỜI KỲ VĂN MINH TỐI CỔ CRET – MYXEN
- + Xã hội đã phân hoá giai cấp, nhà nước đã xuất hiện
- + Người Hy Lạp tràn vào tấn công và hủy hoại không kế thừa nền văn minh này.
- Thời kỳ hôme
- + Xã hội đang là xã hội thị tộc mạt kỳ
- + Cuối thời đại này, xã hội xuất hiện sự phân hoá giai cấp. Chế độ nô lệ hình thành nhưng còn mang tính gia trưởng
- THỜI KỲ THÀNH BANG
- + Kinh tế phát triển mạnh, làm cho chế độ tư hữu diễn
ra nhanh chóng, tư hữu cả về ruộng đất làm cho phân hoá xã hội diễn ra
mạnh mẽ:
- Những gia đình có thế lực trong công xã thị tộc trước kia như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự chiếm nhiều ruộng đất và tư liệu sản xuất, ngày càng trở nên giàu có trở thành giai cấp quý tộc thị tộc ( còn gọi là quý tộc chủ nô ruộng đất hay quý tộc cũ)
- Thương nhân, thợ thủ công, bình dân trong quá trình tìm vùng đất thực dân … ngày càng trở nên giàu có. Khi chế độ tư hữu ruộng đất xuất hiện, họ tậu được nhiều ruộng đất, nô lệ… trở thành tầng lớp quý tộc chủ nô công thương nghiệp hay còn gọi là quý tộc mới.
- Cùng với sự giàu có của quý tộc chủ nô là sự bần cùng của nông dân, họ giải quyết sự bần cùng của mình bằng 3 cách sau đây:
- Lĩnh canh ruộng đất của chủ nô để cày cấy hoặc đi làm thuê và trở thành tầng lớp bình dân Đêmôt
- Một số quá nghèo, bán mình làm nô lệ.
- Một số rời bỏ quê hương tìm vùng đất khác sinh sống. Họ vượt biển đến các đảo và vùng Tây Tiểu A, dần dần họ biến những vùng đất này thành thuộc địa, là nơi cung cấp nguyên vật liệu cho các ngành sản xuất trong nước và tiêu thụ hàng hoá từ chính quốc. Do đó, những người này ngày càng giàu có và gia nhập vào tầng lớp quý tộc chủ nô công thương nghiệp, làm cho tầng lớp này ngày càng đông hơn.
- + Do phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ nên mâu thuẫn giai cấp trở nên rất gay gắt. Trong đó, giai cấp chủ nô bóc lột sức lao động của nô lệ là chủ yếu. Quan hệ nô lệ ở hy lạp nói riêng và ở phương tây nói chung mang tính chất điển hình. Giai cấp nô lệ phản kháng lại sự áp bức bóc lột bằng nhiều cuộc nổi dậy, để dập tắt những cuộc đấu tranh đó, giai cấp chủ nô thiết lập ra nhà nước để quản lý và đàn áp giai cấp bị trị.
- + Nhận xét:
- Các nhà nước ở Hy Lạp xuất hiện vào khoảng thế kỷ 8 TCN, và tồn tại dưới dạng các nhà nước thành bang. Trong đó, có hai thành bang lớn, có vai trò quan trọng trong lịch sử của Hy Lạp là thành bang Spac và Aten.
- Quá trình hình thành nhà nước ở Hy Lạp là sự thoát thai trực tiếp từ các công xã thị tộc, do sự phân hóa giai cấp, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp, không bị tác động bởi yếu tố bên ngoài.
- + Các thành bang Hy Lạp biến thành chư hầu của đế quốc Makêđônia. Vua Makêđônia là Alechxăngđơ thống lĩnh quân đội tấn công Ba Tư, thôn tính được đế quốc này và một phần của Ấn Độ. Sau khi Alechxăngđơ chết, các tướng lĩnh của ông ta tranh giành quyền lực với nhau.
- + Vào thế kỷ 3 TCN, đế quốc Makêđônia bị chia thành 3 nước lớn:
- Makêđônia và Hy Lạp do dòng họ Antigôn cai trị
- Xini do dòng họ Xêlơcút cai trị
- Ai Cập do dòng họ Prôtêmê nắm chính quyền.
b. La Mã
- THỜI KỲ VƯƠNG CHÍNH
- + Vào thế kỷ 8 TCN, xã hội La Mã đang sống trong giai đoạn tan rã của công xã nguyên thủy.Trên đồng bằng Latium là nơi sinh sống của 3 bộ lạc, gọi họ là người Latinh. Mỗi bộ lạc có 10 bào tộc (Curi). Mỗi Curi lại chia thành 10 thị tộc.
- + Để quản lý xã hội, các bộ lạc cùng nhau thiết lập một tổ chức gồm các cơ quan sau:
- Đại hội nhân dân (Đại hội Curi): gồm tất cả các công dân nam của cả 3 bộ lạc. Có quyền quyết định các vấn đề quan trọng như tuyên chiến hay nghị hoà, thông qua hoặc bác bỏ những đạo luật do Viện nguyên lão thảo luận trước, bầu vua và các chức quan cao cấp khác, có vai trò là toà án tối cao. Khi tham gia đại hội, các công dân nam của mỗi Curi sẽ tập hợp lại thành một đơn vị. Khi biểu quyết, mỗi curi được quyền có một lá phiếu.
- Viện nguyên lão (Senat): gồm thủ lĩnh của 300 thị tộc. Mỗi thị tộc cử 1 người tham gia, thông thường là những người thuộc những gia đình giàu có, danh vọng nhất trong thị tộc. Viện nguyên lão có thẩm quyền quyết định các công việc quan trọng giữa hai kỳ họp của Đại hội nhân dân, thảo luận các đạo luật trước khi trình trước đại hội công dân.
Về sau, quyền lực của Viện nguyên lão dần dần lớn mạnh và trở thành cơ quan chính quyền trọng yếu của La Mã.
- Vua (rex): do Đại hội Curi bầu ra, thực tế chỉ là tù trưởng liên minh bộ lạc. Thời chiến là tổng tư lệnh quân đội, thời bình chỉ lo việc tế lễ và xét xử.
- + Thời kỳ này còn là thời kỳ dân chủ quân sự.
- THỜI KỲ CỘNG HOÀ
- + Vào thế kỷ ……….., người La Mã bị người Êtrucxơ thống trị. Do đó, các vua đều là người Êtrucxơ.
- + Do sự phát triển kinh tế hàng hoá và chính sách mở rộng xâm lược, nhiều cư dân mới đến sinh sống trên lãnh thổ La Mã. Những cư dân này không thuộc bộ tộc nào của người La Mã, do đó, không được xem là dân La Mã chính gốc nên họ không được hưởng bất kỳ quyền lực chính trị nào cả. Tuy nhiên, thân phận của họ không giống như nô lệ, họ là dân tự do, phải nộp thuế và đi lính cho người La Mã, có quyền tự do kinh doanh, được quyền sở hữu ruộng đất. Họ chính là tầng lớp bình dân Pơlep.
- + Khi lực lượng này lớn mạnh về kinh tế và quân đội, họ đấu tranh để đòi hưởng quyền chính trị. Trước tình thế đó, người La Mã phải nhượng bộ, thực hiện cải cách để đáp ứng yêu cầu của họ.
- + Giữa thế kỷ thứ 6 TCN, vua Xecvius Lutius tiến hành cải cách xã hội với những nội dung như sau:
- Ba bộ lạc trước kia bị xoá bỏ, thay vào đó là 4 bộ lạc mới, thực chất là 4 khu vực hành chính.
- Căn cứ theo tài sản, ruộng đất, ông chia dân cư thành 5 đăng cấp, cứ 5 năm đăng ký lại đẳng cấp một lần.
- Đẳng cấp 1: là những người có từ 20 jujêra đất trở lên. (1 jujêra đất = 52,5 ha)
- Đẳng cấp 2: là những người có từ 15 đến 20 jujêra đất.
- Đẳng cấp 3: là những người có từ 10 đến 15 jujêra đất.
- Đẳng cấp 4: là những người có từ 5 đến 10 jujêra đất.
- Đẳng cấp 5: là những người có từ 2,5 đến 5 jujêra đất.
- Bỏ đại hội Curi và thay vào đó là đại hội Xenturi. Đại hội Xenturi vừa là đại hội tổ chức theo đơn vị quân đội của các đẳng cấp vừa là đại hội mang tính chất hành chính, vì nó được quyền quyết định những vấn đề quan trọng, được quyền bầu ra những quan chức cao cấp trong bộ máy nhà nước.
- Đẳng cấp 1: được tổ chức thành 80 Xenturi bộ binh và 18 Xenturi kỵ binh.
- Đẳng cấp 2,3,4: mỗi đẳng cấp được tổ chức thành 20 Xenturi bộ binh
- Đẳng cấp 5: được tổ chức thành 30 Xenturi bộ binh
- Những người không có ruộng đất thì không được xếp vào đẳng cấp nào cả, tuy nhiên vẫn được tổ chức thành 5 Xenturi.
- Trong các kỳ đại hội, các Xenturi được quyền bỏ 1 là phiếu để thể hiện ý kiến của mình. Nếu có quá bán số phiếu tán thành thì vấn đề được thông qua. Như vậy, đẳng cấp 1 bao giờ cũng có số phiếu đông nhất.
- + Cuộc cải cách của vua Xecvius Lutius đánh dấu sự sụp đổ của chế độ công xã thị tộc và sự ra đời của nhà nước.
- + Song song với cuộc đấu tranh giữa bình dân Pơlép và quý tộc thị tộc, còn có cuộc đấu tranh của người La Mã nhằm lật đổ ách thống trị của người Êtrucxơ. Năm 509 TCN, người La Mã đánh đuổi vị vua cuối cùng của người Êtrucxơ là Taccanh II và thiết lập nhà nước La Mã.
- THỜI KỲ QUÂN CHỦ CHUYÊN CHẾ
c. Nhận xét
- + Nhà nước phương tây cổ đại ra đời do sự phân hoá xã hội thành giai cấp, là kết quả của sự thoát thai trực tiếp từ công xã thị tộc.
- + Do đặc điểm về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế nên chế độ tư hữu về ruộng đất sớm ra đời, là nguyên nhân hình thành nền chính thể cộng hòa ở các quốc gia chiếm hữu nô lệ phương tây.
II. TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1. Nhà nước Hy Lạp
a. Thành bang Spac
[*] Tổ chức xã hội
- Nhà nước Spac có quá trình hình thành khác biệt hơn so với đại đa số các thành bang còn lại của Hy Lạp, do đó, tổ chức bộ máy nhà nước của nó cũng khác so với các thành bang khác, đặc biệt là thành bang Aten.
- Vào giữa thế kỷ thứ 9 TCN, bộ lạc người Đôrian xâm nhập vào vùng đồng bằng Lacôni thuộc bán đảo Pêlôpône nơi sinh sống của người Akêan. Khi xâm nhập vào đây, người Đôrian có trình độ văn hoá, xã hội thấp kém hơn so với người Akêan, nhưng với đội quân hùng mạnh, được rèn luyện trong chiến đấu và cuộc sống du mục gian khổ, nên họ chiến thắng được người Akêan và làm chủ vùng đất này. Họ dồn đuổi một bộ phận khác đến miền trung và bắc Pêlôpône và nô dịch một bộ phận người Akêan:
- + Đất đai, dân cư vùng Lacôni thuộc quyền sở hữu chung của người chiến thắng. Mỗi gia đình người Đôrian được chia một mãnh đất bằng nhau (khoảng 20 ha).
- + Người Đôrian chủ trương duy trì tổ chức công xã thị tộc để thống trị những người có trình độ văn hoá cao hơn mình.
- Sau khi đã củng cố vững chắc nền thống trị ở vùng Lacôni, giữa thế kỷ 8 TCN, người Đôrian lại xâm nhập sang vùng đồng bằng Métxini và biến toàn bộ dân cư ở đây thành nô lệ, gọi là nô lệ Hillôt.
- Lúc này, trong xã hội Spac hình thành 3 hạng người khác nhau:
- + Người Spac (người Đôrian): là giai cấp thống trị, công việc của họ là cai trị và đánh giặc. Họ không phải lao động, tuy nhiên họ được nô lệ Hillôt nuôi sống bằng việc nộp lại ½ số hoa màu thu hoạch được trên phần đất được công xã chia. (người Spac không được quyền sở hữu mãnh đất mà họ được chia, họ chỉ được quyền hưởng hoa lợi thu trên mãnh đất đó). Toàn bộ đất đai và nô lệ thuộc quyền sở hữu chung của nhà nước.
- + Người Pêriet: là người Akêan bị chinh phục, họ là người tự do, có ruộng đất để cày cấy và tài sản riêng, nhưng không có quyền lợi về chính trị và không được quyền kết hôn với người Spac. Họ phải cống nạp và đi lính cho người Spac, nhưng trong quân đội họ được tổ chức thành đội ngũ riêng.
- + Người Hillôt: là nô lệ chung của cả xã hội người Spac, họ không lệ thuộc vào cá nhân chủ nô nào. Họ phải cày cấy trên những cánh đồng của người Spac và nộp ½ sản phẩm thu hoạch, phần còn lại họ được quyền giữ lại làm tài sản, (thân phận của họ giống nông nô trong thời kỳ phong kiến hơn).
- Hai Vua:
- + Đồng thời là thành viên của Hội đồng trưởng lão.
- + Chức vụ này theo chế độ thế tập, được tôn kính hết mực.
- + Tuy nhiên, quyền lực của nhà Vua bị hạn chế nhiều. Thời bình, vua chỉ lo việc tế lễ và xét xử; thời chiến, thì thống lĩnh quân đội.
- Hội đồng trưởng lão:
- + Gồm 30 vị bô lão từ 60 tuổi trở lên, là những quý tộc danh vọng nhất trong hàng ngũ quý tộc Spac.
- + Đây là cơ quan soạn thảo pháp luật và thảo luận trước mọi vấn đề trước khi đưa ra quyết định tại Đại hội nhân dân.
- Đại hội nhân dân:
- + Thành viên của đại hội gồm những công dân nam, người Spac từ 30 tuổi trở lên.
- + Đại hội chỉ được tổ chức khi có lệnh triệu tập của nhà vua.
- + Về hình thức, đây là cơ quan có quyền lực cao nhất, có quyền thông qua những văn bản luật do Hội đồng trưởng lão soạn thảo, có quyền phê chuẩn những nghị quyết của Hội đồng trưởng lão. Tuy nhiên, khi thông qua những vấn đề này, đại hội nhân dân không được quyền bàn bạc, thảo luận, họ chỉ được quyền biểu quyết bằng cách hô to : “Đồng ý” hay “Phản đối” hoặc đối với những vấn đề quan trọng thì được biểu quyết bằng cách xếp hàng. Do đó, Đại hội nhân dân chỉ có quyền lực vể mặt hình thức, trên thực tế, quyền lực thuộc về Hội đồng trưởng lão.
- Hội đồng 5 quan giám sát:
- + Về sau, do mâu thuẫn quý tộc và bình dân Spac ngày càng gay gắt, thể hiện thông qua mâu thuẫn giữa Hội đồng trưởng lão và Đại hội nhân dân. Giai cấp quý tộc Spac (Hội đồng trưởng lão) nắm quyền lực thực tế (quyền phân chia ruộng đất, quyền lực kinh tế…) nên trong cuộc đấu tranh này, giai cấp quý tộc Spac bảo vệ quyền lợi cho mình bằng cách thành lập một cơ quan mới, có nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ, bảo vệ nền cộng hoà quý tộc chủ nô, cơ quan đó là Hội đồng năm quan giám sát.
- + Thành viên của cơ quan này là những quý tộc bảo thủ nhất, danh vọng nhất của giai cấp quý tộc.
- + Có chức năng và quyền hạn rất lớn, là cơ quan lãnh đạo tối cao, nhằm tập trung quyền lực vào tay giai cấp quý tộc chủ nô:
- Giám sát vua, hội đồng trưởng lão.
- Triệu tập và chủ trì cuộc họp hội đồng trưởng lão, hội nghị công dân.
- Giải quyết mọi công việc quan trọng (ngoại giao, tài chính, tư pháp…)
- Kiểm tra tư cách công dân.
- Qua tổ chức bộ máy nhà nước, chúng ta có thể khẳng định rằng nhà nước Spac là nhà nước được tổ chức theo hình thức chính thể Cộng hoà Quý tộc Chủ nô.
b. Thành bang Aten
[*] Tổ chức xã hội
- Aten là một thành bang gồm 4 bộ lạc chung sống với nhau trên vùng đồng bằng Attic.
- Ban đầu nhà nước Aten cũng được tổ chức theo chính thể Cộng hoà Quý tộc Chủ nô, quyền lực tập trung vào tay giai cấp quý tộc thị tộc (quý tộc ruộng đất).
- Khi kinh tế phát triển, đặc biệt là kinh tế công thương nghiệp dần dần chiếm vai trò chủ đạo thì thế lực của quý tộc chủ nô công thương cũng dần phát triển theo. Họ liên kết với nông dân tự do đấu tranh với giai cấp quý tộc thị tộc để nắm quyền lực chính trị.
- Giai cấp quý tộc thị tộc buộc phải nhượng bộ, chấp nhận một vài đại diện của quý tộc công thương được đứng trong hàng ngũ quan lại. Thông qua cải cách xã hội, các vị quan chấp chính này dần dần chuyển nền cộng hòa quý tộc chủ nô thành nền cộng hoà dân chủ chủ nô.
+ Cải cách của Xôlông: Năm 594 TCN, Xôlông, một đại biểu của tầng lớp quý tộc công thương nghiệp được bầu vào chức quan chấp chính. Trong thời gian đương nhiệm, ông thựa hiện cải cách mang lại dân chủ cho rộng rãi dân chúng, xoá bỏ đặc quyền của quý tộc thị tộc:
- Bãi bỏ nợ nần cho dân chúng, nhổ hết các thể cầm cố ruộng đất, trả ruộng đất cho nông dân tự do, cấm việc biến dân tự do thành nô lệ vì nợ. Điều này làm cho lực lượng của dân tự do đông hơn và củng cố được địa vị của mình, do đó, sau này dân tự do là lực lượng ủng hộ cho quý tộc mới thực hiện các cuộc cải cách sau này.
- Thành lập Hội đồng 400 người. Mỗi bộ lạc được cử 100 người thuộc đẳng cấp 1,2,3 tham gia vào hội đồng này. Hội đồng này có quyền tư vấn cho Quan chấp chính, soạn thảo những nghị quyết trước khi đưa ra bàn bạc, quyết định tại Hội nghị công dân; giải quyết các công việc thường ngày khi Hội nghị công dân không họp.
- Căn cứ theo tài sản,
Xôlông chia dân cư thành 4 đẳng cấp. Người dân được hưởng quyền chính
trị tương ứng với đẳng cấp của mình (xoá bỏ đặc quyền của quý tộc thị
tộc):
- Đẳng cấp 1: gồm những người có thu nhập hàng name từ 500 mêđim thóc trở lên (1 mêđim = 52,5 lít). Đẳng cấp này được hưởng đầy đủ quyền chính trị, được ứng cử vào các chức quan cao cấp (quan chấp chính, thành viên hội đồng trưởng lão…)và có nghĩa vụ cung cấp tiền của cho nhà nước để xây dựng các hạm đội, các công trình công cộng,…
- Đẳng cấp 2: thu nhập hàng name từ 300 đến 500 mêđim thóc
- Đẳng cấp 3: thu nhập hàng name từ 200 đến 300 mêđim thóc.
- Đẳng cấp 2 và 3 được quyền ứng cử vào hội đồng 400 người.
- Đẳng cấp 4: có ít hoặc không có ruộng đất, đẳng cấp này chỉ được quyền tham gia vào hội nghị công dân, không được quyền tham gia vào các cơ quan khác.
- Thành lập toà án công dân. Tại toà án này, mọi công dân đếu được quyền bào chữa và kháng án.
- Bỏ 4 bộ lạc cũ và chia dân cư theo 3 khu vực. Mỗi khu vực chia thành 10 phân khu, và cứ 3 phân khu hợp lại thành một liên khu. Như vậy, ở aten lúc bấy giờ có tất cả là 10 liên khu.
- Vì 4 bộ lạc trước kia không cón nữa , do đó hội đồng 400 người cũng bị huỷ bỏ theo. Thay vào đó, clixten thành lập hội đồng 500 người. Mỗi một liên khu sẽ cử 50 người tham gia, không kể thuộc đẳng cấp nào.
- Thành lập Hội đồng 10 tướng lĩnh
- Để bảo vệ nền Cộng hoà Dân chủ và chống lại âm mưu thiết lập nền độc tài nên Clixten cón đặt ra luật bỏ phiếu bằng vỏ sò. Theo đó, nếu ai bị ghi tên trên hơn 6000 vỏ sò, tức bị hơn 6000 ý kiến cho là có âm mưu thiết lập nền độc tài thì sẽ bị trục xuất ra khỏi Hy Lạp trong vòng 10 năm.
- Bên cạnh đó, ông còn khuyến khích mọi người tham gia bảo vệ chế độ dân chủ bằng cách khen thưởng hoặc sẽ giải phóng thân phận cho nô lệ thành kiều dân hoặc từ kiều dân được công nhận là công dân Aten.
+ Cải cách của Pêriclet:
- Trả lương cho những người tham gia vào cơ quan nhà nước. Điều này tạo điều kiện cho dân nghèo có thể tham gia quản lý nhà nước.
- Thay chế độ bầu bằng chế độ bóc thăm để chọn ra nhân viên nhà nước.
- Hội nghị công dân:
- + Thành viên: toàn thể công dân nam người aten (có cha và mẹ đều là người aten) từ 18 tuổi trở lên.
- + Hoạt động và quyền hạn:
- Cứ 10 ngày họp 1 lần. Trong buổi họp, các công dân có quyền tự do bàn bạc, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, bầu những chức quan cao cấp, giám sát các cơ quan khác thông qua các đạo luật, ban hoặc tước quyền công dân…
- Hội đồng 500 người:
- + Chia thành 10 ủy ban. Một ủy ban gồm 50 người cua một liên khu, hoạt động trong thời gian 1/10 năm tức 36 đến 39 ngày. Tên của các thành viên của ủy ban này được lập thành một danh sách và theo danh sách đó, mọi người theo thứ tự của bản danh sách đảm nhiệm chức vụ chủ tịch ủy ban một ngày.
- + Quyền hạn, nhiệm vụ:
- Thi hành những quyết nghị của hội nghị công dân
- Giải quyết những vấn đề quan trọng giữa hai kỳ họp của hội nghị công dân.
- Giám sát công việc của các viên chức nhà nước
- Quản lý tài chính
- Thảo luận những vấn đề quan trọng trước khi trình ra quyết định tại hội nghị công dân.
- Hội đồng 10 tướng lĩnh:
- + Thành viên của hội đồng này không được cấp lương và được bầu ra tại hội nghị công dân bằng cách biểu quyết giơ tay.
- + Quyền hạn, nhiệm vụ: thống lĩnh quân đội, chịu sự giám sát của hội nghị công dân.
- Toà bồi thẩm:
- + Là cơ quan xét xử và giám sát tư pháp cao nhất.
- + Mọi công dân nam từ 30 tuổi trở lên được quyền ứng cử để trở thành thẩm phán. Hội nghị công dân sẽ bầu ra các thẩm phán bằng cách bỏ phiếu.
[*] Nhận xét:
- Bộ máy nhà nước của Aten được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực vào hội nghị công dân, nghĩa là dành cho toàn thể công dân Aten quyền dân chủ. Do đó, có thể kết luận rằng nhà nước Aten được tổ chức theo hình thức chính thể Cộng hoà Dân chủ Chủ nô.
- Tuy nhiên, nền Cộng hoà Dân chủ này còn có những hạn chế của nó, như:
- + Chỉ những công dân nam Aten (có cha và mẹ đều là người Aten) từ 18 tuổi trở lên mới quyền tham gia vào Hội nghị công dân, còn phụ nữ, kiều dân và nô lệ thì không có quyền này. Trong khi tỷ lệ dân kiều dân và nô lệ chiếm một con số khá lớn.
- + Các cuộc họp của Hội nghị công dân đa số đều được tổ chức tại thành Aten, do đó, các công dân Aten sinh sống ở những vùng nông thôn xa xôi không có điều kiện để thường xuyên tham gia Hội nghị. Chỉ có một bộ phận nhỏ công dân Aten sinh sống tại thành Aten và các vùng nông thôn lân cận mới thỉnh thoảng tham gia vào cuộc họp của Hội nghị công dân. Chỉ có những cuộc họp bỏ phiếu bằng vỏ sò thì mới tập trung đông đảo công dân tham gia.
2. Nhà nước La Mã
- Viện nguyên lão:
- + Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Thành viên của Hội đồng này gồm từ 300 đến 600 người, có lúc lên đến 900 người. Họ là những quý tộc giàu sang, có thế lực do đại hội Xenturi bầu ra.
- + Quyền hạn, nhiệm vụ:
- Phê chuẩn các chức quan cao cấp do Đại hội Xenturi bầu ra.
- Đề ra và chỉ đạo việc thực hiện các chính sách đối nội và đối ngoại
- Điều tra sơ bộ và thành lập phiên toà xét xử đối với những vụ án quan trọng.
- Giải thích pháp luật và kiến nghị xây dựng những đạo luật mới.
- Hội đồng quan chấp chính:
- + Gồm 2 quan chấp chính do Đại hội Xenturi bầu ra, có nhiệm kỳ 1 năm.
- + Quyền hạn, nhiệm vụ:
- Là tổng chỉ huy quân đội
- Có quyền triệu tập Viện nguyên lão và Đại hội công dân (Đại hội Xenturi và Đại hội nhân dân)
- Chỉ đạo thực hiện những quyềt nghị của Viện nguyên lão, Đại hội công dân.
- Sa thải các quan lại cấp dưới.
- Hội đồng quan án:
- + Ban đầu có 2 người, sau tăng lên thành7 người, do đại hội Xenturi bầu ra.
- + Nhiệm vụ, quyền hạn:
- Giải quyết những vấn đề liên quan đến dân sự, hình sự.
- Khi Quan Chấp chính vắng mặt, Hội đồng Quan án sẽ đảm nhiệm công việc của Quan Chấp chính.
- Viện giám sát (viện quan bảo dân):
- + Được hình thành do sự đấu tranh của bình dân với quý tộc.
- + Thành viên của Viện giám sát có từ 2 đến 7 người, do Hội nghị Nhân dân bầu ra.
- + Nhiệm vụ, quyền hạn:
- Phủ quyết những quyết nghị của Viện nguyên lão.
- Có quyền giữ và lấp phúc cung các quan lại
- + Tuy nhiên, quyền lực của các cơ quan này chỉ hạn chế ở thành phố, chưa có hiệu quả ở những vùng nông thôn xa xôi. Quyền lực của cơ quan này mang tính chất hình thức và hoạt động cầm chừng, không thường xuyên, không bảo vệ được quyền lợi cho tầng lớp bình dân.
- Đại hội công dân:
- + Đại hội Xenturi: có quyền giải quyết những vấn đề quan trọng như chiến tranh và hoà bình, bầu ra các chức quan cao cấp
- + Đại hội nhân dân: không có thực quyền, tồn tại mang tính hình hình thức.
[*] Nhận xét
- Khi được bầu đảm nhiệm các chức vụ trong bộ máy nhà nước, người dân không được trả lương mà còn phải chi một khoảng tiền nhất định cho các quan chức cấp trên, để đóng góp cho nhà nước xây dựng các công trình công cộng, xây dựng quân đội… do đó, dân nghèo không thể trở thành viên chức nhà nước.
- Qua bộ máy nhà nước của La Mã, chúng ta có thể thấy rằng quyền lực nhà nước được tập trung vào Viện nguyên lão (quý tộc). Do đó, hình thức chính thể của La Mã là Cộng hoà Quý tộc Chủ nô.
0 comments:
Post a Comment