PHẠM THỊ DUYÊN THẢO – Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Sau Cách mạng Pháp năm
1789, việc phân chia quyền lực ở nước Pháp được thực hiện triệt để. Tòa
án có vai trò rất lớn, thẩm phán đã từng được ví như “cái miệng của pháp
luật”. Trong Bộ Dân luật Pháp 1804 (thường được gọi là Bộ luật
Napoleon), có một nguyên tắc đặc biệt nổi tiếng, đó là nguyên tắc thẩm
phán không được phép nại vào lý do không có luật hay luật không rõ ràng
để từ chối giải quyết vụ việc. Nếu vi phạm nguyên tắc này, thẩm phán sẽ
phải chịu trách nhiệm. Thẩm phán có quyền, đồng thời có nghĩa vụ giải
thích luật (Điều 4, Bộ Dân luật Pháp). Tất nhiên, trong thực tế từng vụ
việc cụ thể có thể tác động nhất định đến mức độ và phạm vi quyền lực
của thẩm phán trong việc ra các phán quyết. Nguyên tắc này tồn tại cho
đến cuối thế kỷ XX. Điều đó cho thấy sự phát triển của hệ thống tư pháp,
vai trò của thẩm phán, cũng như các giá trị mà nguyên tắc này mang lại.
Cũng như hầu hết các quốc gia khác, Pháp cho rằng, lý
do phải tiến hành giải thích một văn bản pháp luật là vì trong quá
trình lập pháp, nhà lập pháp không thể lường trước được tất cả những
tình huống cũng như những khó khăn khi mang văn bản pháp luật vào cuộc
sống, sự tương thích của văn bản với thực tế không cao, nghĩa của các
đạo luật không phải luôn rõ ràng, và việc áp dụng pháp luật gây tranh
cãi… Do vậy, việc giải thích pháp luật là thực sự cần thiết.
Ở Pháp, Nghị viện cũng có thể giải thích các đạo luật
của chính họ bằng cách đưa ra một đạo luật sau đó, gọi là đạo luật mang
tính giải thích. Tuy nhiên, các thẩm phán rất miễn cưỡng áp dụng các
đạo luật này (đặc biệt là các quy định mang tính hồi tố), mặc dù chúng
chỉ chiếm một số lượng không đáng kể. Các nghị sĩ cũng thường xuyên đưa
ra những câu hỏi liên quan đến giải thích đạo luật tới các Bộ trưởng, và
sự trả lời của Bộ trưởng thường là chỉ bày tỏ quan điểm và phụ thuộc
vào sự giải thích tối cao của Tòa án.
Giải thích đạo luật cũng có thể được thực hiện thông
qua các thông tư của Chính phủ, tuy nhiên, những thông tư mang tính giải
thích này không có tác động pháp lý lên các cá nhân và thẩm phán, chúng
không ràng buộc các thẩm phán về ý nghĩa và phạm vi của các điều khoản
pháp lý mà họ đang giải thích. Tuy vậy, các thông tư này vẫn thường
xuyên được các luật gia và các thẩm phán xem xét trong thực tế.
Từ sự ra đời của một đạo luật năm 1991, các thẩm
phán của Tòa án cấp thấp hơn có thể yêu cầu các Tòa án cấp cao hơn hướng
dẫn về các điều khoản pháp lý khó của luật hiện hành trước khi áp dụng
nó.
Pháp luật của Pháp không dự trữ điều khoản của sự
giải thích, vì vậy thẩm phán phải tìm cách giải thích, bình luận các đạo
luật dựa trên những phương pháp khác nhau. Có thể kể đến một số phương
pháp giải thích pháp luật cơ bản của Pháp như sau:
Phương pháp giải thích có tính chất bình luận
Phương pháp này được đánh giá là đã tạo nên lịch sử
lập pháp Pháp. Phương pháp bình luận đề cao việc nghiên cứu văn bản pháp
luật một cách thận trọng và cho rằng, việc đó sẽ đủ để tạo ra các giải
pháp cho bất kỳ trường hợp nào trong thực tế áp dụng. Phương pháp có
tính bình luận nhấn mạnh đến khía cạnh ý định của người lập pháp. Nếu
pháp luật sáng tỏ, thẩm phán phải áp dụng pháp luật mà không cần phải
giải thích, nếu luật pháp mơ hồ, tối nghĩa, thẩm phán sẽ phải nghiên cứu
để tìm hiểu ý định của nhà lập pháp và khi ý định của nhà lập pháp được
làm rõ thì các điều khoản pháp luật mơ hồ sẽ được làm sáng tỏ.
Phương pháp giải thích tiếp cận lịch sử lập pháp
Tiếp cận lịch sử lập pháp được sử dụng khác nhau ở
mỗi giai đoạn lịch sử của pháp luật, có thời kỳ nó được coi là phương
pháp chủ yếu để giải thích đạo luật. Phương pháp này không có nghĩa là
các thẩm phán thừa nhận “tính quyền lực” của lịch sử lập pháp, nhưng ưu
điểm nổi trội mà phương pháp này mang lại, đó là “bằng chứng về nghĩa”
của đạo luật.
Phương pháp giải thích mang tính lịch sử là một kiểu
giải thích thuộc mục đích luận, phương pháp này được biết đến như một sự
“mềm hóa” đối với văn bản pháp luật.
Vào khoảng thời gian Hiến pháp năm 1791 được thông
qua, các thẩm phán đã đề cập đến những câu hỏi của giải thích pháp luật
liên quan đến hoạt động lập pháp, đây là một vấn đề mà ở các Tòa án
không có được sự thống nhất. Tiến trình này được gọi là référé
législatif (dự thảo lập pháp). Tuy nhiên, nó bị ngừng năm 1937 vì người
ta thấy rằng, các giải thích được tạo ra bởi sự quyết định của lập pháp
rất ngẫu hứng, thường bị ảnh hưởng bởi các cân nhắc chính trị và sự
thiếu độc lập cần thiết của Tòa án để giải quyết các vấn đề thực sự tồn
tại. Trước đó, năm 1935, Henri Capital, một giáo sư luật nổi tiếng của
Pháp đã viết một bài chống lại việc sử dụng phương pháp dùng lịch sử của
lập pháp trong giải thích đạo luật. Ông cho rằng, Nghị viện đã thảo
luận dẫn dắt đến việc nhấn mạnh quan điểm cá nhân, hơn là cái nhìn thông
thường của tinh thần pháp luật.
Những năm 1970, đây là giai đoạn mới mà xuất hiện
những cải cách trong hoạt động lập pháp. Hầu hết Bộ luật Napoleon được
thay thế bằng Luật Dân sự (với các chế định cơ bản như giám hộ, hôn nhân
gia đình, quyền của cha mẹ, ly hôn) và Luật Thương mại (luật nghiệp
đoàn, phá sản). Những thay đổi này tạo nên sự hồi phục ấn tượng của
phương pháp tiếp cận lịch sử lập pháp và phương pháp giải thích có tính
chất bình luận.
Phương pháp giải thích có tính mục đích xã hội
Còn gọi là phương pháp tính khách quan, phương pháp
này đề cập đến tính khách quan của đạo luật, xuất hiện khi một thẩm phán
sử dụng phương pháp giải thích theo nghĩa đen nhận ra rằng, nghiên cứu ý
chí của cơ quan lập pháp đôi khi không có hiệu quả trước sự thay đổi
của xã hội từ khi luật được ban hành. Do đó, cần phải cân nhắc sự cần
thiết phải nghiên cứu quá trình phát triển liên tục của xã hội và cho
phép một thẩm phán sửa lại văn bản cho thích hợp với nhu cầu của xã hội
trên cơ sở phù hợp với thời gian, và có cân nhắc đến các nghiên cứu của
lập pháp.
Phương pháp lập luận logic
Là phương pháp được sử dụng khi giải quyết những khó
khăn gặp phải trong thực tế áp dụng các đạo luật. Nếu văn bản không đề
cập đến trường hợp cần xem xét trong thực tế hoặc có những thiếu sót về
nội dung liên quan, người ta sẽ áp dụng phán quyết của một trường hợp
tương tự; khi lập luận đối ngược, chủ thể giải thích sẽ đưa đến kết quả
đối nghịch với những quy định của văn bản; khi lập luận theo cách quy
nạp, chủ thể giải thích sẽ sử dụng những phán quyết được đưa ra trong
nhiều trường hợp khác; còn khi lập luận theo cách suy diễn, chủ thể giải
thích sẽ bắt đầu với những cái cơ bản được nhà lập pháp đặt ra, sau đó
mới mở rộng nó ra các trường hợp khác.
Phương pháp giải thích theo nghĩa đen của văn bản
Phương pháp này tập trung vào giải thích nghĩa ngôn
ngữ tại văn bản, phương pháp này thịnh hành vào giai đoạn cuối thế kỷ
XIX, các thẩm phán khi giải thích đạo luật, họ hầu như tập trung vào
nghĩa đen của văn bản, tức là chỉ căn cứ vào ý nghĩa câu chữ, ngôn ngữ
thể hiện tại văn bản hơn là một sự giải thích hợp tình, hợp lý.
Phương pháp giải thích mang tính nghiên cứu khoa học tự do
Phương pháp này xuất hiện khi một số quy định của các
bộ luật đã trở nên lỗi thời, bên cạnh đó cuộc cách mạng công nghiệp,
cũng như những thay đổi trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Luận
điểm của phương pháp này cho rằng: Liệu lịch sử lập pháp có mang tính
định hướng cho ý định lập pháp? Và khi đối mặt với một sự khó hiểu hoặc
một lỗ hổng trong luật, một thẩm phán phải trở thành một nhà lập pháp,
thẩm phán phải giải thích đạo luật trên cơ sở lấp đầy khoảng trống hoặc
làm sáng tỏ sự khó hiểu đó trên cơ sở nghiên cứu lịch sử, nhu cầu của xã
hội, tư tưởng hiện thời, luật so sánh, và cả sự tiến triển của Hiến
pháp. Xu hướng này đã phát triển ra một số quốc gia như Đức, Thụy Sỹ (Bộ
luật Dân sự Thụy Sỹ năm 1907). Lý do để một thẩm phán có quyền lực to
lớn như vậy là do có những trường hợp trong thực tế cả pháp luật và
phong tục đều không đề cập đến việc giải quyết các tranh chấp (nếu có)
xảy ra. Phương pháp này đã đem lại thay đổi sâu sắc cách các thẩm phán
cân nhắc các đạo luật trong các quốc gia theo hệ thống Civil law. Tuy
nhiên, trong thực tế, giai đoạn đầu, các thẩm phán không chấp nhận như
vậy, mặc dù họ có quyền tự do với các văn bản nhưng chính họ chưa thực
sự thoát khỏi văn bản.
Ngày nay, các thẩm phán sử dụng các phương pháp giải
thích đa dạng (như đã nói ở trên) để giải thích luật. Họ đôi khi mạnh
dạn giải thích một văn bản nhất định bằng cách đưa ra một nghĩa đối lập
với sự giải thích thông thường có thể cung cấp. Đôi khi các thẩm phán
giải thích văn bản theo nghĩa đen của nó. Họ luôn luôn cố gắng quy trì
sự hài hòa giữa hoạt động lập pháp với thời điểm áp dụng cũng như sự cần
thiết của vấn đề.
Các thẩm phán thông thường giải thích luật và thực
hiện nó cho mỗi trường hợp cụ thể, riêng biệt, trên cơ sở sự hợp tình,
hợp lý, sự công bằng, lương tâm và nhu cầu xã hội hơn là tuyệt đối hóa
các phương pháp giải thích.
Hiện tại, có thể tổng hợp về phương pháp giải thích pháp luật ở Pháp như sau:
1. Khi một văn bản rõ ràng, nó nên được thực hiện và
không cần giải thích, ngoại trừ việc thực hiện mà không có sự giải thích
đó sẽ đưa đến một kết quả vô lý.
2. Khi văn bản có nhiều hơn một nghĩa hoặc nghĩa không rõ ràng, thẩm phán sẽ tìm kiếm ý định của nhà lập pháp. Do vậy, một thẩm phán trước tiên phải nghiên cứu văn bản một cách cẩn thận, và cân nhắc lời dẫn giải trong văn bản. Phạm vi
được xem xét có thể là một chương hoặc toàn bộ đạo luật vì thông
thường, một điều khoản không rõ ràng chỉ xuất hiện khi cách ly văn bản
với ngữ cảnh của nó.
3. Nếu sự nghiên cứu về văn bản luật nói trên (ở nội
dung 2) không đem lại sự sáng tỏ, rõ ràng, các Tòa án thường tìm kiếm
những thuật ngữ chuyên ngành đã được sử dụng trong quá khứ để khám phá ý
định của nhà lập pháp. Tòa án Tối cao Pháp đồng ý với quá trình này
nhưng cũng tuyên bố rằng những thuật ngữ chuyên ngành đó (thường được
các Tòa án sử dụng trong thực tế) không bao giờ trói buộc các thẩm phán.
(Rene David gọi quá trình này là phương pháp giải thích mang tính lịch
sử).
4. Khi văn bản không trực tiếp cung cấp giải pháp cho
một cuộc tranh luận, các thẩm phán thường cần bắt đầu ít nhất từ một
văn bản mà các thẩm phán sẽ dựa vào đó để xác định nguyên tắc mới mà họ
sẽ đưa ra. Các thẩm phán của Pháp trong các trường hợp hầu như đều viện
dẫn đến một văn bản luật khi đưa ra phán quyết của mình. Việc Tòa án
không viện dẫn đến một văn bản pháp luật nào là hiếm gặp. Đôi khi, các
Tòa án viện dẫn từ một nguyên tắc chung cơ bản của luật.
5. Nếu lịch sử lập pháp lộn xộn, không tường minh,
hoặc pháp luật quá lạc hậu, các thẩm phán sẽ xem xét những sự cân nhắc
khác và sử dụng cái mà các học giả gọi là phương pháp giải thích mang
tính mục đích luận. Cách tiếp cận này phần lớn được sử dụng bởi Tòa án
Tối cao, Tòa Phá án, và Hội đồng Nhà nước (Conseil dEtat) hơn là Tòa án
cấp dưới.
Có thể khái quát, Tòa án ngày nay sử dụng chủ yếu
phương pháp có tính chất bình luận và các phương pháp thuộc về lịch sử
lập pháp để giải thích văn bản hiện tại, tuy nhiên đối với các văn bản
đã lỗi thời và không thể nhấn mạnh rõ ý định của lập pháp thì sử dụng
phương pháp giải thích mang tính mục đích luận1.
Như vậy, qua một số phương pháp giải thích pháp luật
trên đây, cho thấy bề dày, ý nghĩa và sự linh hoạt, mềm dẻo của hoạt
động giải thích pháp luật ở Pháp, vai trò chủ yếu, quyết định của Tòa án
– thẩm phán trong việc giải thích pháp luật, sự phát triển không ngừng,
cũng như sự chủ động, quả quyết của chủ thể giải thích trong việc sử
dụng và nắm bắt các phương pháp giải thích…
Xây dựng và hoàn thiện một cơ chế về giải thích pháp
luật ở Việt Nam thiết nghĩ phải có sự tham khảo, học tập trên nhiều
phương diện, trong đó cần tính đến sự hợp lý và hiệu quả của các phương
pháp giải thích pháp luật.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
0 comments:
Post a Comment