TS. VŨ THỊ HẢI YẾN – Khoa Pháp luật Dân sự
Sự phát triển không
ngừng của khoa học kỹ thuật, những thành tựu mới của công nghiệp hóa, cơ
giới hóa đã làm thế giới ngày càng văn minh, hiện đại hơn. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy nó cũng kéo theo sự gia tăng các tai nạn mang tính
khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người, đe
dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản… của các chủ thể
trong xã hội. Có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống điện,
dây chuyền sản xuất trong nhà máy… bản thân hoạt động của nó luôn tiềm
ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù con người
luôn tìm mọi cách kiểm soát, vận hành nó một cách an toàn nhưng vẫn có
những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát
đó. Trong khoa học pháp lý xuất hiện thuật ngữ “nguồn nguy hiểm cao độ”
để chỉ những sự vật như vậy.
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành
vi và do lỗi của con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt
động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu
hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với
thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại,
pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường. Pháp luật dân sự thế
giới cũng như Việt Nam không có bất kỳ một khái niệm đầy đủ nào về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng có
thể hiểu một cách khái quát, đó là loại trách nhiệm phát sinh cho người
sở hữu, chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ khi hoạt động của nguồn nguy
hiểm cao độ gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh.
1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1.1. Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ
Khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 không đưa ra một
định nghĩa khái quát về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ có quy định mang
tính liệt kê: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông
vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động,
vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn
nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”.
Khái niệm cụ thể của những loại nguồn nguy hiểm
trên được quy định trong nhiều văn bản khác nhau[1]. Nguồn nguy hiểm cao
độ theo Điều 623 được hiểu là những vật đang tồn tại hiện hữu mà hoạt
động vận hành, sản xuất, vận chuyển, bảo quản… chúng luôn chứa đựng khả
năng gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh. Tính nguy
hiểm của nó còn thể hiện ở chỗ con người không thể kiểm soát được một
cách tuyệt đối nguy cơ gây thiệt hại.
Theo tinh thần Khoản 1 Điều 623, ngoài những loại
nguồn nguy hiểm cao độ đã được liệt kê trong điều này, còn có những loại
nguồn nguy hiểm cao độ khác theo quy định của pháp luật. Trong thực tế
có những sự vật chưa từng được pháp luật quy định là nguồn nguy hiểm cao
độ nhưng nếu có đầy đủ tính chất của nguồn nguy hiểm cao độ thì có được
coi là nguồn nguy hiểm cao độ không, ví dụ: hoạt động gây thiệt hại của
xe đạp điện, xe máy có dung tích xi lanh dưới 50 cm3 (khái niệm “phương
tiện giao thông vận tải cơ giới” trong các văn bản hiện nay không quy
định những phương tiện này là nguồn nguy hiểm cao độ), ong bò vẽ, rắn
độc, chó dại, trâu điên… Theo chúng tôi, khi xem xét sự vật gây thiệt
hại có phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không, cần căn cứ vào tính
chất của sự vật đó như: mức độ nguy hiểm; khả năng kiểm soát của con
người đối với sự vật; quy định của pháp luật liên quan đến việc trông
giữ, sử dụng… Xe đạp điện hay xe máy có dung tích xi lanh dưới 50cm3 là
những phương tiện giao thông có gắn động cơ, khi tham gia giao thông có
thể đạt vận tốc lớn, có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe,
tài sản người khác, vì vậy cần được xẹm là nguồn nguy hiểm cao độ. Đối
với trường hợp chó dại, trâu điên gây thiệt hại tới tính mạng, sức khỏe,
tài sản của con người, mặc dù rất nguy hiểm nhưng đây là những động vật
đã được thuần hóa, không còn mang tính chất hoang dã, không thể coi là
“thú dữ”. Mặt khác, BLDS đã có riêng điều luật quy định về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 625) áp dụng đối với chủ sở
hữu, người quản lý súc vật nên không thể áp dụng quy định về bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được. Trong khi đó, ong bò
vẽ, rắn độc mặc dù không phải là “thú dữ” (theo các định nghĩa trong từ
điển) nhưng phải coi là nguồn nguy hiểm cao độ vì đây là loại động vật
còn mang tính hoang dã, chưa được thuần hóa và có tính chất nguy hiểm
lớn. Theo chúng tôi, việc xác định một vật có được coi là nguồn nguy
hiểm cao độ hay không sẽ phải căn cứ vào các quy định của pháp luật và
tính chất của sự vật đó. Nguồn nguy hiểm cao độ không chỉ bao gồm những
sự vật được liệt kê tại Điều 623 Bộ luật dân sự mà còn bao gồm những sự
vật khác mà hoạt động của chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại
cho môi trường xung quanh, con người không thể hoàn toàn kiểm soát được
nguy cơ gây thiệt hại. Đối với nguồn nguy hiểm cao độ, pháp luật thường
có những quy định nghiêm ngặt trong việc trông giữ, vận hành, sử dụng,
vận chuyển… chúng để tránh gây thiệt hại. Vì vậy, xác định nguồn nguy
hiểm cao độ không chỉ căn cứ vào khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ tại
Điều 623 Bộ luật dân sự mà còn phải căn cứ vào các văn bản, các quy định
khác có liên quan.
Thiệt hại liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm rất
đa dạng và do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, chỉ áp dụng trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi thỏa mãn
hai dấu hiệu sau:
Thứ nhất: Những sự vật được coi là nguồn nguy
hiểm cao độ phải đang trong tình trạng vận hành, hoạt động như: phương
tiện giao thông vận tải cơ giới đang tham gia giao thông trên đường;
cháy, chập hệ thống tải điện; nhà máy công nghiệp đang hoạt động… Trường
hợp thiệt hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái
“tĩnh” – không hoạt động thì không thể coi là thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra, ví dụ: xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán
tính trượt xuống chân dốc gây thiệt hại; cột điện bị đổ trong lúc đang
thi công, chưa có điện; thú dữ chết thối rữa gây dịch bệnh…
Thứ hai: thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra.
Có quan điểm cho rằng các vật là vô tri vô giác, vì
vậy chúng không thể gây thiệt hại nếu không có sự tác động của con
người. Quan điểm này cho rằng đằng sau việc gây thiệt hại của một vật
bao giờ cũng có sự tác động của con người. Chiếc xe gây tai nạn là do
người lái xe làm cho nó chuyển động. Quan điểm này đánh đồng tất cả các
thiệt hại đều do con người gây ra, vì vậy các thiệt hại đều quy về một
nguyên tắc bồi thường thiệt hại nói chung.
Tuy nhiên, không phải mọi thiệt hại do vật gây ra đều
có sự tác động của con người. Nhiều trường hợp, hoạt động của nguồn
nguy hiểm cao độ nằm ngoài sự kiểm soát, chế ngự của con người và tự
thân nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại. Việc xác định thiệt hại là do
“tác động của người” hay “tác động của vật” có ý nghĩa vô cùng quan
trọng khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng do “tác động của con người”, do
hành vi của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc chung của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Hầu hết các vụ tai nạn, thiệt hại đều
có sự tham gia của vật với vai trò trung gian như là công cụ, phương
tiện mà con người sử dụng để gây thiệt hại như: đặt mìn để gây thiệt hại
cho người khác, để đánh cá; dùng súng sát thương người khác; lái xe
phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn; dùng chất độc để đầu độc người khác;
dùng nguồn điện để gài bẫy trộm; nhốt người vào chuồng hổ cho con thú
tấn công… Những trường hợp này thiệt hại hoàn toàn do hành vi có chủ ý
của con người chứ không phải do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt
hại.
Trường hợp thiệt hại xảy ra do hoạt động nội tại của
nguồn nguy hiểm cao độ, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm
soát của con người thì sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như: xe ô tô đang chạy với tốc độ cao đột
nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường
dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật…
Một điểm cần lưu ý là hoạt động gây thiệt hại của
nguồn nguy hiểm cao độ phải có tính trái pháp luật. Hoạt động của xe cần
trục, xe ủi… khi phá dỡ các công trình xây dựng trái phép không thể coi
là trái pháp luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính của nguồn nguy hiểm
cao độ mà việc gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là
trái pháp luật. Ví dụ, để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những
thiệt hại trên đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị
coi là trái pháp luật và ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi
thường.
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy
ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng,
tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 Bộ luật dân sự). Nói tóm lại, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trách
nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm
cao độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
1.2. Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh”.
Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy hiểm của nó
có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu,
vận hành, những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Có những chủ thể do mối
quan hệ sở hữu, lao động mà họ trực tiếp tiếp xúc với nguồn nguy hiểm
cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại
do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi
thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm
cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”- là những người khi
xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến
nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những
người này.
Do đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là những loại
tài sản có khả năng gây ra thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng
chúng, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những
thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín,
nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con
người nên không thuộc phạm vi tác động của nguồn nguy hiểm cao độ.
1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của nguồn nguy hiểm
cao độ là nguyên nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến
thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt động của nguồn nguy
hiểm cao độ. Khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, điểm mấu
chốt quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ
được áp dụng
1.4. Bàn về điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Theo quan điểm cổ điển, trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi có điều kiện lỗi. Lỗi là một trong bốn
điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ khi nào một người
do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của
người khác thì mới phải bồi thường. Cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu
bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Điều kiện
này trong nhiều trường hợp thực tế là không thể thực hiện được khi thiệt
hại xảy ra không phải do lỗi của ai cả. Khuynh hướng xác định trách
nhiệm bồi thường dựa trên ý niệm lỗi nhiều khi không bảo đảm được một
cách hiệu quả quyền lợi cho nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại
cho người bị thiệt hại là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng
Để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân chống
lại việc gây ra tai nạn, có quan điểm cho rằng trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong một số trường hợp có thể phát sinh mà không cần điều
kiện lỗi. Thực tế cho thấy các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi
nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người ngày càng gia tăng cùng
với sự phát triển của công nghiệp hóa, cơ giới hóa, đe dọa tới sự an
toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người. Nếu trong mọi trường
hợp xảy ra thiệt hại đều buộc người bị hại dẫn chứng lỗi thì không khác
gì gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi thường thiệt hại của nạn nhân. Vì
vậy, khi có việc gây thiệt hại, người bị thiệt hại được bảo đảm bồi
thường ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi. Bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những
trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi không
cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định
“Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”. Quy định này trên thực tế hiện nay dẫn đến ba cách hiểu khác nhau.
Quan điểm thứ nhất căn cứ vào nguyên nhân gây ra
thiệt hại, theo đó, nếu thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao
độ thì áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra bất kể có lỗi hay không có lỗi của người chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ. Như vậy, những thiệt hại do phương tiện giao
thông, công trình, thú dữ, do sử dụng vũ khí, chất nổ, chất cháy, điện…
gây ra đều được áp dụng trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra. Trường hợp thiệt hại do hành vi của con người, không liên quan
đến các loại nguồn nguy hiểm cao độ thì áp dụng nguyên tắc chung của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Việc xác định trách nhiệm theo quan
điểm này có ưu điểm bảo vệ được quyền lợi cho nạn nhân nhưng lại có
khuynh hướng đè nặng trách nhiệm cho người sở hữu, người chiếm hữu nguồn
nguy hiểm cao độ, bởi lẽ có nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra là do
hành vi trái pháp luật, do lỗi của người khác. Ví dụ: Do có mối thù với
A, B đã bí mật tháo phanh xe ô tô của A với mục đích gây tai nạn cho A.
Khi A đang lái xe trên đường, do xe mất phanh nên A gây tai nạn cho C là
người đang tham gia giao thông. Trong trường hợp này, A là chủ sở hữu
đồng thời là người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ nên theo quan
điểm trên, A có trách nhiệm bồi thường. Cách xác định trách nhiệm bồi
thường như vậy là không hợp lý và xác định không chính xác người phải
gánh chịu trách nhiệm bồi thường.
Quan điểm thứ hai cho rằng trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm hoàn toàn
loại trừ yếu tố lỗi của người sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm
cao độ. Nếu thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra nhưng có một phần lỗi của người đang trông giữ,
vận hành, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ thì áp dụng trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nói chung. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn không có lỗi
của con người thì mới áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra. Trên thực tế rất khó xác định thiệt hại xảy ra
hoàn toàn không có lỗi của con người và như vậy, dường như quy định về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khó có
thể áp dụng trên thực tế.
Quan điểm thứ ba theo hướng dung hòa hai quan điểm
trên. Nếu như các trường hợp bồi thường thiệt hại thông thường dựa trên
sự suy đoán lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra dựa trên sự suy đoán trách nhiệm đối với người có nghĩa vụ
quản lý nguồn nguy hiểm cao độ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi hoạt động gây thiệt
hại của nguồn nguy hiểm cao độ nằm ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển
của người chiếm hữu, vận hành và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt
hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con người trong việc
trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng
trách nhiệm này mà sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói
chung. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
không loại trừ khả năng thiệt hại cũng có thể có một phần lỗi của người
quản lý, trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ nhưng
hành vi của người trông giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải
nguyên nhân có tính quyết định đến thiệt hại. Chủ sở hữu, người đang
chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không được miễn trừ trách nhiệm bồi
thường kể cả trong trường hợp họ chứng minh được mình không có lỗi trong
việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ. Chúng tôi
đồng tình với quan điểm này bởi lẽ yếu tố lỗi không phải là một điều
kiện tiên quyết làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra. Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách
nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân
trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt
hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con
người (như xe đang chạy trên đường bất ngờ nổ lốp trước dẫn đến đổi
hưởng đột ngột gây thiệt hại) hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người
quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối
với thiệt hại (như trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh;
lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…).
Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển
nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này.
2. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Căn cứ vào khoản 2 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 và
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số
quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có
thể được áp dụng với các chủ thể sau:
- Chủ sở hữu;
- Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ;
- Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ.
Việc xác định ai trong số các chủ thể trên phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải
căn cứ vào từng trường hợp cụ thể.
Điều 165 Bộ luật dân sự quy định Nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu, theo đó “Chủ
sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản
nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước,
lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Khi có
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trước tiên người ta nghĩ đến
nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc tôn trọng và bảo vệ lợi ích chung,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, vì vậy, trách nhiệm bồi thường
trước hết được đặt ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng
minh được trách nhiệm thuộc về người khác. Chúng ta có thể xem xét các
trường hợp sau:
- Chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.
Theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu là người có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản theo ý chí của mình. Việc
thực hiện quyền sở hữu của chủ sở hữu không được gây tổn hại tới lợi ích
công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì vậy, nếu nguồn
nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác trong trường hợp chủ sở
hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thì trách
nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.
- Trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển
giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo ý
chí của chủ sở hữu
Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng luôn có các hình thức
thể hiện khác nhau: Chủ sở hữu có thể trực tiếp chiếm hữu, sử dụng để
khai thác công dụng của tài sản; chủ sở hữu cũng có thể chuyển giao
quyền chiếm hữu thực tế tài sản cho người khác và cho phép người này
được sử dụng tài sản của mình (cho thuê, cho mượn, chuyển giao theo
nghĩa vụ lao động…). Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển
giao cho người khác theo ý chí của chủ sở hữu, chủ sở hữu nguồn nguy
hiểm cao độ vẫn có quyền kiểm soát về mặt pháp lý (chiếm hữu pháp lý)
đối với tài sản. Khi cho thuê, cho mượn hay chuyển giao nguồn nguy hiểm
cao độ theo nghĩa vụ lao động, mặc dù chủ sở hữu không trực tiếp khai
thác công dụng của tài sản nhưng đó cũng là một hình thức chủ sở hữu
thực hiện quyền sử dụng tài sản, cụ thể là khai thác lợi ích kinh tế từ
tài sản. Bộ luật dân sự 2005 quy định “nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sư dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Tuy nhiên, nếu cho rằng khi chủ sở hữu đã chuyển giao nguồn nguy hiểm
cao độ cho người khác là chủ sở hữu hoàn toàn hết trách nhiệm, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ là không hợp lý. Quy định của Bộ luật dân sự 2005 hiện
nay hoàn toàn chưa phân định rõ ràng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong các trường hợp khác nhau. Nghị
quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự
2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mặc dù đã đưa ra được một số
ví dụ cụ thể mang tính chất hướng dẫn về vấn đề này nhưng lại chưa đưa
ra được các quy định mang tính chất khái quát chung.
Theo chúng tôi, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ có
thể chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thông qua hai hình thức
sau:
+ Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn
nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động. Trong trường hợp này, người
được chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ là những người làm công, ăn
lương, được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ để thực hiện
nhiệm vụ mà người chủ lao động giao cho. Giữa chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ và người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có
mối quan hệ lao động, được xác lập qua tuyển dụng hoặc ký kết hợp đồng
lao động. Mặc dù người lao động là người đang thực tế chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hoàn toàn dưới sự quản lý, điều hành của
chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ và vì lợi ích của chủ sở hữu nên phải
coi đây giống như trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang trực
tiếp chiếm hữu, sử dụng, theo đó, chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm khi
tài sản của mình gây thiệt hại cho người khác.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý một số trường hợp biệt lệ sau:
Thứ nhất: Người được giao chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động nhưng thiệt hại xảy ra
không phải trong lúc người đó thực hiện nhiệm vụ mà người sử dụng lao
động giao cho thì ai sẽ bồi thường. Ví dụ: Anh A là lái xe theo hợp đồng
của Công ty X, có nhiệm vụ đưa giám đốc đi họp hội nghị. Trong lúc chờ
giám đốc họp, A tranh thủ lái xe đi chơi thăm bạn bè. Xe bị mất lái
trong lúc A điều khiển xe đi chơi dẫn đến gây thiệt hại. Theo chúng tôi,
trong trường hợp này, thiệt hại xảy ra không phải trong lúc A đang thực
hiện nghĩa vụ lao động vì lợi ích của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao
độ. Vì vậy, A là người đang thực tế chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Thứ hai: Giữa người lao động và người sử dụng
lao động có thỏa thuận người lao động phải chịu mọi trách nhiệm khi
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại. Ví dụ: B là lái xe Taxi của
Công ty X. B đóng cổ phần vào Công ty X 20 000 000 (hai mươi triệu) và
được giao 1 xe Taxi. Giữa B và Công ty có ký thỏa thuận B phải chịu mọi
trách nhiệm khi xe của mình gây thiệt hại. Thỏa thuận này theo chúng tôi
là không trái pháp luật, đạo đức xã hội, cũng như không nhằm trốn tránh
việc bồi thường. Theo quy định pháp luật hiện nay, vấn đề gánh chịu
trách nhiệm bồi thường trong trường hợp các bên có thỏa thuận sẽ căn cứ
vào thỏa thuận tự nguyện giữa các bên. Tuy nhiên, theo chúng tôi, nếu
buộc người bị thiệt hại đòi người lái xe phải bồi thường trong trường
hợp tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là tương đối khó khăn. Mặt
khác, ô tô thuộc sở hữu của công ty và Công ty có trách nhiệm bảo đảm an
toàn tài sản thuộc sở hữu, quản lý của mình. Người lái xe chỉ là người
đang thực hiện một hoạt động của công ty, mang lại lợi nhuận cho công
ty, dưới sự giám sát, điều hành của công ty. Chúng tôi cho rằng trong
trường hợp này, để bảo đảm được lợi ích cho người bị thiệt hại, bảo đảm
thiệt hại được bồi thường nhanh chóng, cần xác định công ty phải bồi
thường với tư cách chủ sở hữu. Còn thỏa thuận giữa lái xe và công ty là
thỏa thuận bên trong nhằm đề cao trách nhiệm của người lái xe, đồng thời
là cơ sở pháp lý để công ty yêu cầu lái xe thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn.
Trên thực tế hiện nay có nhiều hãng Taxi hoạt động
theo phương thức người có xe có thể đăng ký tham gia vào hãng, hàng
tháng đóng một khoản tiền để được sử dụng bộ đàm, logo của hãng, được
điều hành đón khách, còn mọi chi phí, trách nhiệm liên quan đến xe cũng
như lợi nhuận thu được họ được hưởng. Trong trường hợp này người lái xe
là chủ sở hữu, đồng thời trực tiếp khai thác, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ nên theo chúng tôi, họ tự chịu trách nhiệm là hoàn toàn hợp lý.
+ Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự.
Chủ sở hữu có thể chuyển giao quyền chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho chủ thể khác thông qua hợp đồng: mượn,
thuê, cầm cố, gửi giữ… tài sản hoặc ủy quyền cho người khác quản lý tài
sản của mình. Đây là những hợp đồng dân sự được xác lập trên cơ sở tự
nguyện thỏa thuận, vì vậy sự cam kết thỏa thuận được coi như pháp luật
đối với các bên. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận đó. Trong trường hợp các
bên không có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thì áp dụng
nguyên tắc chung của pháp luật. Bên mượn, thuê, nhận cầm cố, nhận gửi
giữ, được ủy quyền quản lý tài sản là những người chiếm hữu, sử dụng tài
sản có căn cứ pháp luật, vì vậy họ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý
nhất định, trong đó có nghĩa vụ trông coi, quản lý nguồn nguy hiểm cao
độ, không để tài sản mình quản lý gây thiệt hại cho người khác. Trường
hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền chiếm hữu,
quản lý của họ, họ bị coi là có lỗi trong việc quản lý, sử dụng và phải
chịu trách nhiệm bồi thường.
- Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, Bộ luật dân sự 2005 phân định thành 2 trường hợp.
+ Nếu chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu nguồn
nguy hiểm cao độ hoàn toàn không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm
cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người chiếm hữu, sử dụng
trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy
hiểm cao độ sẽ được giải trừ khỏi trách nhiệm bồi thường nếu họ chứng
minh được đã tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ trong việc bảo quản, trông
giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp
luật.
+ Trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng hợp
pháp nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm
cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường
cùng người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
- Ngoài những trường hợp pháp luật quy định, trên
thực tế có trường hợp chủ sở hữu bắt buộc phải chuyển giao nguồn nguy
hiểm cao độ cho người khác theo quy định của pháp luật, ví dụ: người có
thẩm quyền của cơ quan nhà nước trưng dụng tài sản của các cá nhân, tổ
chức khi cần thiết để bảo vệ lợi ích chung; hoặc tạm thu giữ tài sản
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền… Trong những trường
hợp này, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ bắt
buộc chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản theo quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo chúng tôi, pháp luật nên quy định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng được chuyển giao cho cơ quan nhà
nước đó.
- Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên
gây thiệt hại thì ai có trách nhiệm bồi thường: ví dụ thú dữ trong rừng
tấn công gây thiệt hại cho người đi rừng? Theo quy định hiện nay, những
tài sản như vậy là một loại tài nguyên thiên nhiên và là tài sản thuộc
sở hữu nhà nươc, thuộc sự quản lý của bộ, ngành có liên quan. Tuy nhiên,
trên thực tế, chưa có văn bản nào quy định cơ quan quản lý Nhà nước
phải bồi thường và vì vậy, không ai phải chịu trách nhiệm bồi thường
trong những trường hợp này.
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Mặc dù Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi
hành bộ luật này (như Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP) đều dành ra những quy
định riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra, tuy nhiên vẫn còn nhiều quy định bất cập, gây ra những tranh
cãi, quan điểm khác nhau trên thực tế áp dụng. Sau đây là một số quy
định mà chúng tôi cho là bất cập, cần sửa đổi, hoàn thiện:
- Thứ nhất: Về khái niệm thế nào là nguồn nguy
hiểm cao độ. Như chúng tôi đã phân tích trong mục 1.1 của chuyên đề
này, khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ được quy định trong Khoản 1 Điều
623 theo hướng liệt kê, vì vậy không đầy đủ, thậm chí không thống nhất
với các quy định trong các văn bản pháp luật khác. Vì vậy, chúng tôi
kiến nghị không nên định nghĩa nguồn nguy hiểm cao độ theo hướng liệt kê
mà chỉ cần xác định tiêu chí chung để được coi là nguồn nguy hiểm cao
độ.
- Thứ hai: Về điều kiện áp dụng trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Hiện nay chưa có
quy định nào phân định cụ thể: khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường
thiệt hại nói chung và khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dẫn đến có
những cách hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế. Thực tiễn cho
thấy khi xét xử, nhiều trường hợp cứ thấy thiệt hại có liên quan đến
nguồn nguy hiểm cao độ là áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bất kể nguyên nhân gây thiệt hại là do
con người hay do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Thậm chí, Nghị
quyết 03/2006 còn đưa ra ví dụ để hướng dẫn cho trường hợp chủ sở hữu,
người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp: “Xe ô tô đang tham
gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật thì bất ngờ có người
lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị thương hoặc bị chết”.
Ví dụ này có thể dẫn đến cách hiểu loại trừ trường hợp người bị thiệt
hại cố ý lao vào xe ô tô tự tử thì mọi thiệt hại do xe ô tô gây ra đều
áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra. Như chúng tôi đã phân tích trong mục 1.1, cách hiểu như vậy rõ ràng
là không phù hợp.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần có quy định rõ ràng
về việc trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra chỉ phát sinh khi thiệt hại là do sự tác động tự thân của nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra.
- Thứ ba: Cần phân định cụ thể, rõ ràng trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường
hợp chủ sở hữu đã chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác
chiếm hữu, sử dụng, cụ thể là trường hợp chuyển giao theo quan hệ lao
động và chuyển giao theo quan hệ dân sự như mục 3.3 đã phân tích. Cụ
thể:
+ Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao
cho người khác theo nghĩa vụ lao động: Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra trong quá trình người lao động quản lý, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ theo nhiệm vụ được giao thì trách nhiệm bồi thường thuộc về
chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu người được giao quản lý, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động nhưng lại sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ vào mục đích khác không theo nhiệm vụ mà gây thiệt hại
thì họ phải tự chịu trách nhiệm.
+ Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao
cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước tiên căn cứ
vào sự thỏa thuận giữa các bên khi giao kết hợp đồng. Nếu các bên không
có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thì áp dụng nguyên
tắc chung của pháp luật, bên mượn, thuê, nhận cầm cố, nhận gửi giữ, được
ủy quyền quản lý tài sản là những người chiếm hữu, sử dụng tài sản có
căn cứ pháp luật, vì vậy họ có nghĩa vụ trông coi, quản lý nguồn nguy
hiểm cao độ, không để tài sản mình quản lý gây thiệt hại cho người khác.
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền
chiếm hữu, quản lý của họ thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
- Thứ tư: Pháp luật cần bổ sung quy định về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ trong tự nhiên gây ra cho các chủ thể khác; Trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước trong trường hợp cơ quan Nhà nước chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ thuộc sở hữu của các cá nhân, tổ chức để
phục vụ lợi ích công cộng như: trưng dụng, tạm giữ…
[1] Xem “Giáo trình Luật dân sự”, Tập 2, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân 2008 tr 308, 309
SOURCE: ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI “TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO TÀI SẢN GÂY THIỆT HẠI – VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”, MÃ SỐ: LH-08-05/ĐHL. HÀ NỘI NĂM 2009
CÁM ƠN TS. TRẦN THỊ HUỆ – CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI ĐÃ CHIA SẺ BÀI VIẾT
VIỆC SỬ DỤNG LẠI BÀI VIẾT PHẢI NHẬN ĐƯỢC SỰ ĐỒNG Ý CỦA TÁC GIẢ
CÁC CHUYÊN ĐỀ THUỘC ĐỀ TÀI
0 comments:
Post a Comment