2009-2010 sẽ được nhớ
đến như những năm mà Trung Quốc đã trở nên khó cho thế giới đối phó, khi
Bắc Kinh biểu lộ cách hành xử ngày càng cứng rắn vàhung hăng với nhiều
nước láng giềng châu Á, cũng như với Mỹ và Liên minh châu Âu. Ngay cả
những quan hệ của họ ở châu Phi và Mỹ – La tinh cũng trở nên khá căng
thẳng, làm trầm trọng thêm sự suy giảm hình ảnh của họ khắp thế giới từ
năm 2007.[1] Hành vi khó chịu của Bắc Kinh khiến nhiều nhà quan sát phân
vân: sự cứng rắn mới ấy sẽ kéo dài bao lâu. Đó là một xu hướng tạm thời
hay lâu dài? Nếu đó là một sự chuyển hướng lâu dài và trong chính bản
chất của Trung Quốc thiên về hướng kiên quyết và kiêu căng hơn thì các
quốc gia khác nên đáp ứng ra sao?
Cái mà thế giới đang chứng kiến trong dáng dấp mới
của Trung Quốc một phần là sản phẩm của một cuộc tranh luận nội bộ kịch
liệt đang diễn ra, và biểu thị một sự đồng thuận đang có giữa các thành
phần tương đối khá bảo thủ và thành phần dân tộc chủ nghĩa ở chỗ cả hai
đều muốn chính sách của Trung Quốc phải cứng rắn hơn, và Trung Quốc phải
tung sức mạnh ra xung quanh một cách có chọn lọc. Mặc dù hiện tại dường
như có một sự thoả thuận trong nước, Trung Quốcvẫn còn là một cường
quốc đang trỗi dậy bị tự giằng xé sâu sắc, với một số “nhân thân”
(identity) quốc tế cạnh tranh nhau. Chưa bao giờ lại có nhiều tiếng nói
và diễn viên tham gia vào một tiến trình hoạch định chính sách đối ngoại
phức tạp như nay.[2] Vì thế, chính sách đối ngoại của Trung Quốc
thường tỏ ra có nhiều “chỗ nhấn” khác nhau và trái ngược nhau. Hiểu được
các “nhân thân” đang cạnh tranh với nhau này là vô cùng cần thiết để dự
đoán hành vi ngày càngmâu thuẫn và đa chiều của Bắc Kinh sẽ như thế nào
trên sân khấu thế giới. Mỗi định hướng sẽ có những hàm ý khác nhau đối
với chính sách của Mỹ và các quốc gia khác.
Tranh luận rộng rãi trong một môi trường bị kềm hãm
Không nước nào có những tranh luận nội bộ rộng rãi,
rôm rả, và đa dạng về vai trò của nước ấy như một cường quốc đang trỗi
dậy như những tranh luận ở Trung Quốc trong thập kỷ vừa qua. Các câu
lạc bộ chính thức, bán chính thức và không chính thức ở Trung Quốc, tất
cả đều sôi nổi tranh luận về những cơ hội,những nguy cơ, những rủi ro,
và những trách nhiệm của một cường quốc chính yếu.[3] Tất nhiên, vẫn
còn một bộ phận trong quan điểm của nhà nước thậm chí phủ nhận Trung
Quốc là một cường quốc chính, lý luận rằng quốc gia này vẫn còn là một
nước (xã hội chủ nghĩa) đang phát triển. Một nhóm quan điểm đáng kể khác phủ nhận Trung Quốc là một cường quốc toàn cầu,
cho rằng Trung Quốc giỏi lắm cũng chỉ là một cường quốc trong khu vực.
Dù các “nhân thân” quen thuộc này tiếp tục được phân giải trong các diễn
từ và văn kiện chính thức của nhà nước, đa số những cuộc tranh luận gần
đây ở Trung Quốc nhìn nhận rằng nước này là một cường quốc chính yếu,
hoặc ít nhất cũng rõ ràng là đang trên đường trở thành một cường quốc
chính yếu. Do đó, tranh luận trong những năm gần đây đã chuyển sang vấn
đề: Trung Quốc sẽ là cường quốc chính yếu loại nào.
Rất ít, nếu có, quốc gia nào khác (đang là cường
quốc chính yếu hoặc muốn trở thành cường quốc) có những tranh luận về
chính quốc gia ấy như đang diễn ra ở Trung Quốc. Thậm chí có một loạt
sách “Làm thế nào” được xuất bản ở Trung Quốc về cách trở thành một đại
cường.[4] Dù phần lớn các cuộc tranh luận như thế diễn ra trong các
cộng đồng chính sách và học thuật bán chính thức, chúng cũng lan ra xã
hội khoáng đại qua sự kiện đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV –
TV mạch kín) chiếu loạt phim tư liệu12-phần “Nước lớn trỗi dậy” (Đại quốc quật khởi),
phát hình nhiều lần, và được hàng trăm triệu người Trung Quốc theo dõi.
Bộ phim này mô tả những điều kiện đưa các đại cường hiện đại khác (Bồ
Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp, Anh, Đức, Nga, Liên Xô, Nhật Bản và
Mỹ) trỗi lên, với mục đích xác định bối cảnh sự trỗi dậy của chính Trung
Quốc và rút ra những kinh nghiệm từ lịch sử. Mặc dù bộ phim này tập
trung chủ yếu vào các điều kiện đã đưa đến trỗi dậy (và suy vong) của
các đại cường, chủ đề của đoạn kết tập cuối cùng của bộ phim là làm thế
nào để tránh “cái bẫy bất đối xứng” thường tái diễn giữa một cường quốc
chủ yếu đã hình thành và cường quốc mới bắt đầu trỗi dậy, khi mà “cường
quốc mới” thách thức vị trí bá quyền của “cường quốc đương vị” trong hệ
thống quốc tế, gây căng thẳng, cạnh tranh, xung đột, thậm chí chiến
tranh.[5] Loạt phim CCTV này được phát hình sau khi các học giả trình
bày một loạt bài giảng về chủ đề này cho Bộ Chính trị Đảng Cộng sản
Trung Quốc trong những năm 2005-2006. Như vậy, trong những năm gần đây,
quần chúng lẫn giới tinh hoa Trung Quốc đều lưu tâm đến dự kiến các tình
huống khó xử của một cường quốc đang lên.
Dù môi trường trí thức bị kềm kẹp phần nào bởi những
hạn chế mà các cơ quan tuyên truyền áp đặt, tranh luận về nhân thân quốc
tế của Trung Quốc vẫn rất sôi nổi và đa dạng, mở ra các cửa sổ hệ trọng
cho ta thấy lối suy nghĩ của người Trung Quốc về những nước khác, về
khu vực, về các vấn đề quốc tế, và đặc biệt làvề vai trò đang chuyển
biến của chính Trung Quốc như một cường quốc mới nổi trong các vấn đề
của thế giới. Quan trọng nhất, nó cho thấy nhiều nhân thân đa dạng, đôi
khi mâu thuẫn nhau, hiện hữu trong thế giới quan của người Trung Quốc,
nó cũng cho thấy các quan điểm kình chống nhau về vai trò của Trung
Quốctrên thế giới. Trung Quốc hiện tại không có một nhân thân quốc tế
duy nhất, mà là một loạt nhân thân cạnh tranh nhau.
Tìm biết nội dung và bề rộng của cuộc tranh luận tư
tưởng bên trong Trung Quốc như thế là điều then chốt để thấu hiểu những
gì mà chính người Trung Quốcđang trăn trở, khi quốc gia của họ được đưa
nhanh vào đấu trường quốc tế. Rõ ràng là Trung Quốc thiếu chuẩn bị cho
địa vị quốc tế mới của họ, và sự mauchóng trỗi dậy của nước này
đã đến nhanh hơn dự kiến. Đối với người Trung Quốc, quả là bỡ ngỡ khi
phải thình lình đối mặt với một loạt câu hỏi hoàn toàn mới và với những
đòi hỏi từ bên ngoài về vị thế quốc tế, vai trò, và trách nhiệm của quốc
gia của họ. Vậy, các chuyên gia ngoại vụ của Trung Quốc nhìn thế giới
và vai trò ngày hôm nay của Trung Quốc trong đó như thế nào?
Phân loại các thảo luận về nhân thân quốc tế của Trung Quốc
Dễ thấy rõ là có nhiều trường phái, nhiều “khuynh
hướng” tư tưởng và phân tích khác nhau, trong những tranh luận ở Trung
Quốc.[6] Mặc dù, về phương diện trí thức, những trường phái này là dị
biệt, nhưng sẽ là sai lầm nếu xem chúng như không có chỗ nào giống nhau,
đôi khi chúng trái ngược nhau, nhưng đôi khi cũng bổ túc cho nhau. Hơn
nữa, cá nhân các học giả chuyên về quan hệ quốc tế và các quan chức ở
Trung Quốc thường là các nhà tư tưởng “không câu nệ” (eclectic) ở chỗ,
dù cắm rễ sâu chắc ở một trường phái nào đó, họ vẫn thường đưa ra các
quan điểm thuộc các trường phái khác. Họ chấp nhận sự phức tạp của nhận
thức. Ta cũng thấy rằng các nhóm tư tưởng không tương quan với các tổ
chức. Mặc dù sẽ thuận tiện nếu có thể dán nhãn một tổ chức này là theo
“chủ nghĩa hiện thực” hoặc tổ chức kia là có tư duy “toàn cầu”, nhưng
không đơn giản như vậy. Các trường phái tư tưởng đan chéo nhau trong các
tổ chức.
Một hậu quả của những nhân thân quốc tế cạnh tranh
nhau là: chính sách đối ngoại của Trung Quốc phản ánh nhiều thành tố
cùng lúc. Điều này được thể hiện trong các chính sách chính thức của các
nhóm đại quốc thị quan kiện (cường quốc là chìa khoá), chu biên thị thủ yếu (khu vực xung quanh là quan trọng hàng đầu), phát triển trung quốc gia thị cơ sở (các nước đang phát triển là nền tảng), và đa biên thị trọng yếu vũ đài (các
diễn đàn đa phương là sàn diễn quan trọng). Mặc dù đây là những định
hướng chính sách khác nhau rõ rệt, chúng không nhất thiết loại trừ lẫn
nhau. Qua sự đọc và trao đổi của tác giả (bài này) với cộng đồng (các
nhà nghiên cứu Trung Quốc về) quan hệ quốc tế, hiển hiện bảy quan điềm
khác hẳn nhau. Bảy quan điểm này có thể xếp dọc theo một phổ (spectrum,
như quang phổ — Chú thích của người dịch), từ đây gọi là “phổ tư
tưởng”. “Phổ” này trải dài từ khuynh hướng “biệt lập” ở cực trái, đến
khuynh hướng hoàn toàn tham gia vào sự quản trị toàn cầu ở cực phải.
Giữa hai thái cực ấy là những trường phái tư tưởng khác, từ khá “thực
tế” đến khá “phóng khoáng” (liberal)
1. Chủ nghĩa Bản địa (Nativism)
Ở một cực của “phổ trường phái” là “chủ nghĩa bản
địa”. Phái này gồm những người có tư tưởng dân túy, bài ngoại, dân tộc,
và Mác-xít. Họ ngờ vực thế giới bên ngoài, mong muốn quốc gia tự chủ,
nghi ngờ các tổ chức quốc tế, và cho rằng Trung Quốc không nên năng động
trên thế giới. Họ kịch liệt chỉ trích phương Tây, đặc biệt là Mỹ.
Nhóm này mang nặng định hướng Mác-xít truyền thống. Những người có tư
tưởng bản địa cấu thành một liên minh lỏng lẻo có chân trong nhiều tổ
chức; thực ra một số trong những người cổ vũ hàng đầu của trường phái
này hoạt động như các chuyên gia độc lập. Trong chừng mực mà họ có một
tổ chức trụ sở, nhiều người làm việc trong các viện nghiên cứu thuộc
Trung ương Đảng có liên hệ đến lịch sử và tư tưởng hệ của Đảng, và trong
Học viện Chủ nghĩa Mác của Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc
(CASS: Chinese Academy of Social Sciences).
Những người theo chủ nghĩa bản địa là anh em sinh đôi
của “cánh tả mới” (tân tả phái) trong các cuộc tranh luận về chính sách
nội bộ của Trung Quốc. Cả hai đều tin rằng chính sách “cải tổ và mở
cửa” trong 30 năm qua của Trung Quốc đã phải trả giá bằng sự nguyên vẹn
(integrity) của chủ nghĩa xã hội, sự bào mòn văn hoá Trung Quốc bởi
những ảnh hưởng tiêu cực ngoại lai, và làm thiệt hại chủ quyền và quyền
tự quyết của Trung Quốc trong các vấn đề thế giới. Họ tin rằng nếu
không bao giờ mở cửa với thế giới thì Trung Quốc sẽ không mất đi những
yếu tố này. Theo họ, cải cách trong nước chắc chắn sẽ dẫn đến sự phục
hồi chủ nghĩa tư bản ở Trung Quốc, và “diễn biến hoà bình” ̶ chính sách
theo đó phương Tây nổ lực biến đổi Trung Quốc một cách hoà bình để làm
suy yếu sự thống trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc – đang trở thành mối
đe doạ chính trong nước. Về mặt này, các cuộc “cách mạng màu” ở Ukraine
và Trung Á đã gây ra mối quan ngại sâu sắc đối với những người theo chủ
nghĩa bản địa. Vì vậy, họ ủng hộ cho ưu tiên chính của chính sách phải
là để chống diễn biến hoà bình và đóng cửa Trung Quốc lại.
Các ví dụ sớm về dòng tư tưởng này xuất hiện trong những năm 1990 với trường phái “Trung Quốc có thể nói không” (Trung Quốc khả dĩ thuyết bất). Biểu hiện gần đây hơn là sự bùng phát trong các cuốn sách phổ biến có thể được mô tả như là “văn học bất mãn”: Trung Quốc không sung sướng (Trung Quốc bất cao hưng), Ở Trung Quốc ai không sung sướng? (Thuỳ tại Trung Quốc bất cao hưng) và Tại sao Trung Quốc không sung sướng? (Trung Quốc vi thập yêu bất cao hưng)[7]. Nhóm sau này bao gồm một số tác giả đã đóng góp cho quyển Trung Quốc có thể nói không.
Đối với những vấn đề quốc tế, những người theo chủ
nghĩa bản địa tin rằng hệ thống quốc tế là bất công và có lợi hơn cho
các nước giàu đế quốc chủ nghĩa. Vì vậy, họ cho rằng các nước đang phát
triển không thể xoá nghèo chỉ bằng lao động cực nhọc – cần một sự thay
đổi cơ bản trong trật tự thế giới để bắt buộc phải có một sự tái phân
bố thu nhập và các nguồn lực từ Bắc tới Nam. Về vấn đề này, họ có cùng
quan điểm với trường phái “phương Nam toàn cầu” (xem dưới đây). Là những
người Mácxít – Lêninnít lão luyện, những người theo chủ nghĩa bản địa
cũng lập luận rằng “toàn cầu hoá” thực tế là một quá trình quốc tế hoá
tư bản, tương tự như mô tả của Lênin về chủ nghĩa đế quốc.[8]
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2010 đã củng
cố thêm dòng tư tưởng này, với nhiều người cho rằng “chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước” (“state-monopoly capitalism” ̶ quốc gia lũng đoạn tư bản chủ nghĩa) đã
cuối cùng đưa kinh tế thế giới đến bờ vực của thảm hoạ, y như tiên đoán
của Lênin năm 1917. Phương Ninh (Fang Ning), Giám đốc Học viện Khoa
học Chính trị CASS, cho rằng khởi điểm của hiện tượng này thực ra là từ
chiến tranh Iraq năm 2003, đánh dấu sự xuất hiện một kỷ nguyên của “chủ
nghĩa đế quốc mới”. Đối với Phương Ninh và những người khác, cuộc chiến
này cho thấy kỷ nguyên “hoà bình và phát triển” mà Đặng Tiểu Bình khởi
xướng đã kết thúc.[9] Chính sách đối ngoại của chính quyền George W.
Bush đã dẫn đến sự hồi sinh các nghiên cứu về quan hệ quốc tế trên tinh
thần chủ nghĩa Marx – hay chính xác hơn là chủ nghĩa tân Lênin – và một
số bài báo và sách về “chủ nghĩa đế quốc mới.”[10] Mặc dù chúng nhai lại
phần lớn các phân tích từ những năm 1980[11], những nghiên cứu mới này
đi xa hơn trong việc mổ xẻ cả sự phát triển mới trong “chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước” lẫn trật tự quốc tế. Các tác giả này cũng cáo buộc
chính sách của Trung Quốc đối với Mỹ là quá đỗi mềm yếu, và cho rằng
“quan hệ đối tác chiến lược Trung-Mỹ” là một ảo tưởng. Những người theo
chủ nghĩa bản địa bao gồm các thành phần cực siêu (hyper) dân tộc chủ
nghĩa vànhững phần tử chống Mỹ dữ dội (mặc dù không đến mức thoá mạ như
thấy trên Internet Trung Quốc).
2. Chủ nghĩa hiện thực với đặc trưng Trung Quốc
Những người theo “hiện thực chủ nghĩa” ở Trung Quốc
là nhóm có ưu thế trong tranh luận về các quan hệ quốc tế và vai trò
toàn cầu hiện nay (nếu không là vĩnh viễn) của Trung Quốc. Cội rễ của
chủ nghĩa hiện thực là đã có sâu trong thế giới quan của giới trí thức
Trung Quốc trong nhiều thế kỷ,[12] ngay cả trong thời xã hội chủ nghĩa
của quốc gia này. Những người Trung Quốc theo chủ nghĩa hiện thực lấy
nhà nước-quốc gia làm đơn vị phân tích cốt lõi, xem chủ quyền quốc gia
là tối thượng, và bác bỏ những lập luận cho rằng các vấn đề “liên quốc
gia” (transnational) là xuyên qua biên giới. Giống như những người theo
chủ nghĩa hiện thực ở những nơi khác, họ có xu hướng xem môi trường quốc
tế là vô chủ và không thể đoán trước được, do đó cho rằng quan trọng
hơn cả là xây dựng một nhà nước hùng mạnh để có thể vạch một hành trình
theo cách riêng của mình trên thế giới và cưỡng lại những sức ép bên
ngoài.
Những người theo chủ nghĩa hiện thực ở Trung Quốc có
thể được chia thành các phe “công” và “thủ”, cũng như “cứng” và “mềm”.
Mỗi phe đều tin rằng nhà nước phải bồi đắp sức mạnh riêng của mình, cái
phân biệt giữa phe này và phe khác là về mục đích mà nhà nước sử dụng
sức mạnh ấy. Những người chủ nghĩa hiện thực “quyền lực cứng” lập luận
rằng đó là để tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia (tổng hợp quốc lực)
– đặc biệt là về quân sự và kinh tế ̶ trong khi chủ nghĩa hiện thực
“quyền lực mềm” thì nhấn mạnh ngoại giao và sức mạnh văn hoá. Những
người theo chủ nghĩa hiện thực “công” thì cho rằng Trung Quốc nên sử
dụng ảnh hưởng quân sự, kinh tế và ngoại giao mà Trung Quốc vừa tạo lập
cốt là để ép buộc các nước khác hướng về những mục tiêu mà Trung Quốc
mong muốn. Họ tin rằng quyền lực sẽ không đáng giá bao nhiêu nếu không
được sử dụng. Trong cách suy nghĩ của họ, Trung Quốc nên, chẳng hạn,
dùng đòn bẩy công trái phiếu của chính phủ Mỹ (mà Trung Quốc có trong
tay) để buộc Washington ngừng bán vũ khí cho Đài Loan, hoặc trừng phạt
những công ty lớn của Mỹ bán vũ khí cho Đài Bắc. Họ muốn Trung Quốc
thiết lập một sự hiện diện quân sự (đặc biệt là hải quân) rộng hơn nhiều
ở Tây Thái Bình Dương nhằm buộc Mỹ chấm dứt các hoạt động gần bờ biển
của Trung Quốc. Những người chủ nghĩa hiện thực “thủ” đồng ý rằng Trung
Quốc nên có quân đội hùng cường, nhưng họ cho rằng nên giữ “thuốc súng
khô” và sử dụng nó chủ yếu để ngăn chặn sự xâm lược và độc lập của Đài
Loan.
Thảo luận với những người chủ nghĩa hiện thực cho
thấy một sự thất vọng nào đó: họ muốn Trung Quốc sử dụng sức mạnh mới
phát của quốc gia này, nhưng cảm thấy bị kềm hãm trong việc ấy. Một
người đã nói: “Khi tư thế của Trung Quốc ở nước ngoài tăng lên, đầu tư
và lợi ích của chúng ta ở nước ngoài sẽ tăng theo. Chúng ta cần suy nghĩ
làm sao để bảo vệ công dân, đầu tư và lợi ích của chúng ta. Một cách là
hành xử như một nước đế quốc với các chính sách pháo hạm ̶ nhưng với
lịch sử đã qua của chúng ta, điều này là không khả thi.”[13]
Cũng có một yếu tố “trả thù” nào đó trong suy nghĩ
của họ. Rất nhiều người chủ nghĩa hiện thực ôm giữ một cảm giác sâu sắc
về sự bị đối đãi bất công trong thời gian bạc nhược lâu dài của Trung
Quốc. Họ tin rằng bây giờ Trung Quốc là hùng cường thì quốc gia này
phải trả đũa những nước đã sai trái với Trung Quốc trong quá khứ. Trần
Đinh Lập, Hiệu trưởng Trường Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Phục Đán,
Thượng Hải và là một chuyên gia an ninh hàng đầu, giải thích rằng “trong
10-20 năm, Trung Quốc sẽ là một nước xuất khẩu lớn về công nghệ cao –
Trung Quốc có thể áp đặt những hạn chế có tính trừng phạt lên những nước
trước đây áp đặt các hạn chế ấy lên chúng ta!”.[14] Trong một dịp khác,
ông Lập khẳng định rằng “Trung Quốc là một cường quốc lớn, chúng ta có
thể xử lý một đối một với bất cứ quốc gia nào khác. Không ai có thể cố
lãnh đạo chúng ta, không ai được quyền bảo chúng ta phải làm gì.”[15]
Ta có thể thấy những người theo chủ nghĩa hiện thực
khắp trong quân đội và trong một số trường đại học và các nhóm chuyên
gia. Hiện đang lan tràn các tạp chí và sách của Quân đội Giải phóng
Nhân dân (PLA) với ngôn từ của chủ nghĩa hiện thực cứng. Một số học giả
dân sự, chẳng hạn như Diêm Học Thông của Đại học Thanh Hoa và Chương
Nhuy Trang của Đại học Nam Khai (cả hai đều là nghiên cứu sinh tiến sĩ
của nhà chủ nghĩa hiện thực hàng đầu Mỹ là Kenneth Waltz ở Đại học
California, Berkeley), tự xưng là những người kiên định theo chủ nghĩa
hiện thực. Ông Thông giữ một lập trường diều hâu trên nhiều vấn đề. Đối
với ông, “trỗi dậy hoà bình” là một chủ thuyết nguy hiểm bởi vì nó đưa
cho các đối thủ tiềm năng (trong đó có Đài Loan) thông điệp rằng Trung
Quốc sẽ không hành động một cách quyết liệt để bảo vệ chủ quyền quốc gia
và lợi ích của Trung Quốc. Trong quá khứ, ông Thông đã lập luận rằng
Trung Quốc cần dựa vào sự sử dụng vũ lực khi cần thiết, và không do dự,
để phản ứng lại động thái Đài Loan về hướng độc lập trên luật pháp.[16]
Quyển Trung Quốc trỗi dậy của ông Thông năm 1997 là một tuyên ngôn để xây dựng và sử dụng quyền lực cứng và toàn diện của Trung Quốc.[17]
Đối với Chương Nhuy Trang, quan điểm “phát triển hoà
bình”, cùng với “thế giới đa cực” và các chủ đề “quan hệ đối tác chiến
lược Mỹ -Trung Quốc”, là tiêu biểu của những ý tưởng sai lầm, đánh giá
không đúng tình hình quốc tế và có thể đưa đến những lỗi lầm về chính
sách cho Trung Quốc. Ông Trang biện minh cho một chính sách quyết đoán
hơn nhiều đối với Mỹ, nói rằng “Mỹ đã làm tổn hại lợi ích của Trung Quốc
trong một thời gian dài. Trung Quốc nên không thoả mãn, không
phải là thoả mãn, với tình trạng hiện nay của quan hệ Mỹ -Trung. Đó
không phải là một mối quan hệ trong điều kiện tốt. Nếu Trung Quốc không
phản đối Mỹ, Mỹ sẽ không tôn trọng lợi ích của Trung Quốc và Trung Quốc
sẽ trở thành con rối của Mỹ.”[18] Ông Thông cũng cho rằng đa cực là một
quan điểm quá lạc quan về trật tự sau Chiến tranh Lạnh, đánh giá thấp
những thách thức khó khăn mà Trung Quốc phải đối mặt từ bá quyền Mỹ, và
làm suy yếu sự cảnh giác của Trung Quốc.[19]
Về các phương diện này, những người theo chủ nghĩa
hiện thực là những kẻ bi quan về môi trường bên ngoài Trung Quốc, quan
hệ với Đài Loan, và Mỹ. Trên hết, họ có một định nghĩa hẹp và tự quy
chiếu đến lợi ích quốc gia Trung Quốc, bác bỏ các khái niệm và các chính
sách toàn cầu hoá, những thử thách xuyên quốc gia, và quản trị thế
giới. Những người ủng hộ chủ nghĩa hiện thực của Trung Quốc có xu hướng
lập luận (như người theo chủ nghĩa bản địa) rằng nỗ lực của phương Tây
để lôi kéo Trung Quốc tham gia nhiều hơn vào quản lý và quản trị thế
giới là một cái bẫy nguy hiểm nhằm trói Trung Quốc lại, tận dụng tài
nguyên của Trung Quốc đến mức cạn kiệt, và làm chậm sự phát triển của
nước này. Tuy nhiên, chủ nghĩa hiện thực không phải là một trường phái
theo chủ nghĩa cô lập ̶ nó chỉ đơn giản lập luận cho một định nghĩa
cứng rắn về lợi ích quốc gia của chỉ Trung Quốc và việc bảo vệ các lợi
ích quốc gia của nước này.
3. Trường phái “Các Cường Quốc Chính”
Một nhóm có thể được nhận diện như là trường phái
“các cường quốc chính.” Những thành viên của nhóm này có xu hướng cho
rằng Trung Quốc cần tập trung ngoại giao của mình trong việc điều tiết
các mối quan hệ của Trung Quốc với các cường quốc lớn trên thế giới và
các khối – Mỹ, Nga, có thể là Liên minh châu Âu – trong khi chú ý tương
đối ít hơn đến các nước đang phát triển hoặc chủ nghĩa đa phương: “Đại quốc thị thủ yếu”
(các cường quốc có tầm quan trọng hàng đầu) là khẩu hiệu của họ. Không
ngạc nhiên, các học giả thuộc trường phái này là chuyên gia về Mỹ, Nga,
và Liên minh châu Âu. Điều thú vị là những nhà phân tích này không xem
Ấn Độ, Nhật Bản, hoặc Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) là “cường
quốc”, mặc dù họ chắc chắn xem Trung Quốc là một cường quốc.
Trường phái này lập luận rằng không có quan hệ mật
thiết và ổn định với các cường quốc thì sẽ bất lợi cho một loạt các lợi
ích của Trung Quốc và sẽ làm phức tạp thêm các mối quan hệ khác của
Trung Quốc trong khu vực. Cuộc vận động hiện đại hoá của Trung Quốc rõ
ràng là một trong những lý do cho định hướng của trường phái này – các
cường quốc phương Tây (Mỹ và Liên minh châu Âu) là nguồn chính của các
công nghệ tiên tiến cũng như vốn và đầu tư. Nga là một trường hợp riêng
biệt, nhưng quốc gia này được xem như một nhà cung cấp lớn về các nguồn
năng lượng và thiết bị quân sự, một nơi để đầu tư, và quan yếu đối với
an ninh quốc gia của Trung Quốc. Các nhà phân tích trong nhóm này thường
xác định quan hệ Trung-Mỹ là “chìa khoá của chìa khoá”, do đó lập luận
rằng việc duy trì mối quan hệ hài hoà với Washington nên là ưu tiên hàng
đầu trong ngoại giao Trung Quốc. Hầu hết các thành viên của trường phái
này thuộc cộng đồng Hoa Kỳ học của Trung Quốc, những cá nhân, chẳng hạn
như Vương Tập Tư (Đại học Bắc Kinh), Kim Xán Vinh (Đại học Nhân dân),
Ngô Tâm Bá (Đại học Phục Đán), và Thôi Lý Như (Viện Quan hệ Quốc tế
Đương đại Trung Quốc). Nhóm này đã chiếm ưu thế trong nhiệm kỳ chủ tịch
Trung Quốc của Giang Trạch Dân, trong thời gian này ông Giang đã theo
thực hành một chính sách “Mỹ – trước hết”; tuy nhiên ảnh hưởng của nhóm
này yếu đi trong thời Hồ Cẩm Đào, người theo một chính sách đối ngoại đa
dạng hơn.
Tuy nhiên vài người trong trường phái này tin rằng
chính sách đối ngoại của Trung Quốc nên chú ý nhiều đến Nga. Phan Duy
của Đại học Bắc Kinh nhìn thấy Mỹ như là một ngõ cụt đối với Trung Quốc
và nói rằng tìm kiếm một quan hệ đối tác chiến lược Trung-Mỹ là mơ
tưởng, bất lợi nhiều hơn có lợi.[20] Phan Duy và các nhà tư tưởng có
cùng suy nghĩ cho rằng chính sách đối ngoại của Trung Quốc phải được
điều chỉnh và hướng tới một mối quan hệ chặt chẽ hơn với Moscow. Những
người chỉ trích này đòi hỏi một chính sách cứng rắn hơn đối với Mỹ (do
đó chia sẻ quan điểm với các người theo chủ nghĩa bản địa và chủ nghĩa
hiện thực). Như chủ nghĩa bản địa và chủ nghĩa hiện thực, họ cũng hoài
nghi các dòng tư tưởng do Đặng Tiểu Bình khởi xướng và đã được áp dụng
trong 30 năm qua, tức là đặt trọng tâm vào mở cửa với các cường quốc
phát triển ở phương Tây.[21]
Cho đến vài năm trước đây, một nhóm của trường phái
này còn cho rằng Trung Quốc nên coi trọng Liên minh châu Âu (EU) trong
chính sách ngoại giao của Trung Quốc, bởi vì EU là một trụ cột quan
trọng trong một thế giới đa cực, nhưng tiếng nói của nhóm này đã biến
mất từ năm 2008 với sự vô tổ chức ở Brussels và sự bất lực trong chính
sách đối ngoại và an ninh của EU. Các nhà phân tích Trung Quốc đã bị
thất vọng và trở nên vỡ mộng và gạt bỏ EU, sau khi đã hi vọng trong một
thời gian dài rằng EU sẽ trở thành một “cường quốc mới nổi lên” (tân hưng đại quốc) trong các vấn đề thế giới.
Mặc dù các học giả và các nhà bình luận còn tranh
luận về sự khôn ngoan của “định hướng cường quốc chính”, họ chỉ ra rằng
phần lớn các lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc, và các nhà hoạch định
chính sách, là thực dụng về nhu cầu và lợi ích quốc gia của Trung Quốc
và do đó vẫn còn chấp nhận một định hướng cường quốc chính. Logic của
họ là sẽ là quá tốn kém để Trung Quốc có quan hệ căng thẳng với bất kỳ
cường quốc nào trong ba cường quốc nói trên. Tuy nhiên, rõ ràng là đã
có một sự “tái định hướng” tách khỏi cách tập trung “độc chiếm”’ vào Mỹ
(như đã được thực hành trong thời Giang Trạch Dân) hướng tới một chính
sách cân bằng hơn và toàn cầu hơn thời Hồ Cẩm Đào.
4. Châu Á trước hết
Có một nhóm nằm giữa “phổ trường phái” biện hộ cho sự
tập trung ngoại giao của Trung Quốc nhắm vào vùng ngoại vi kế cận của
nước này và các láng giềng châu Á. Trường phái “châu Á trước hết” tin
rằng nếu vùng xung quanh Trung Quốc không ổn định thì đó sẽ là một trở
ngại chính cho sự phát triển của đất nước họ và an ninh quốc gia. Do đó
ưu tiên nên được đặt vào việc xây dựng các quan hệ và một môi trường ổn
định khắp xung quanh ngoại vi của Trung Quốc. Nhưmột học giả nói, “Mỗi
cường quốc phải bảo vệ sân sau của chính mình.”[22] Trong bối cảnh
này, các học giả Trung Quốc thảo luận các xu hướng khu vực (regional
trends) khác nhau, gồm cả kiến trúc đa phương đang biến đổi trong khu
vực, vai trò của Mỹ, vai trò của Ấn Độ, vấn đề Bắc Triều Tiên, vai trò
của ASEAN, các vấn đề an ninh phi truyền thống và các chủ đề châu Á
khác. Những thảo luận này diễn ra mà không có sự chia tách đáng kể và
phân dòng tranh luận. Không ngạc nhiên, trường phái này gồm phần lớn là
các chuyên gia châu Á (và không phải những người nghiên cứu về các phần
khác của thế giới hay quan hệ quốc tế).
Trường phái “Châu Á trước hết” lúc đầu có tác động
đến chính sách đối ngoại của Trung Quốc vào cuối những năm 1990. Sau
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 và “Cuộc tranh luận về hoà bình
và phát triển” năm 1999 (với kết luận rằng Trung Quốc đã quá thụ động
đối với vùng ngoại vi của họ), Trung Quốc bắt đầu coi trọng ngoại giao
với các nước xung quanh (chu biên ngoại giao) rất nhiều hơn
nữa.[23] Bắc Kinh bắt đầu một thời kỳ chủ động lâu dài của ngoại giao và
hợp tác khu vực với khẩu hiệu “xây dựng láng giềng tốt, làm cho các
nước láng giềng thịnh vượng, và làm cho họ cảm thấy an toàn” (mục lân, phúc lân, an lân).
Chiến lược “châu Á trước hết” đạt được nhiều kết quả trong hơn một thập
kỷ sau năm 1997, khi Trung Quốc tìm cách để cải thiện vượt bậc và ổn
định các mối quan hệ khắp xung quanh ngoại vi của họ. Tuy nhiên, từ năm
2009, nhiều căng thẳng khác nhau đã xuất hiện giữa Trung Quốc và các
nước láng giềng trong khu vực khi Bắc Kinh chuyển sang một giọng điệu và
tư thế quyết đoán hơn, đôi khi hiếu chiến và hách dịch. Va chạm tăng
lên với ASEAN về biển Đông và về việc xây dựng thể chế khu vực đa
phương, căng thẳng gắt hơn với Ấn Độ trong tranh chấp lãnh thổ và chính
trị, cãi cọ với Nhật tháng 9 năm 2010 về vụ thuyền đánh cá xâm nhập vào
vùng biển tranh chấp, và làm xấu hơn quan hệ Trung-Hàn sau sự cố
Cheonan, tất cả đã làm căng thẳng quan hệ của Bắc Kinh với các nước láng
giềng. Những căng thẳng mới xảy ra này đã làm tổn hại đáng kể hình ảnh
của Trung Quốc trong khu vực và đã làm mất đi khá nhiều những quan hệ
tích cực đã được xây dựng trong thập kỷ trước đó.
Những người thúc đẩy “chủ nghĩa khu vực đa phương” và
xây dựng cộng đồng Đông Á, như một việc khác với một chiến lược nhắm
nhiều hơn vào (cá thể từng) quốc gia, là một phân nhóm quan trọng của
trường phái “Châu Á trước hết”. Những cá nhân này là những người theo
“chủ thuyết tạo dựng (constructivism) với đặc trưng Trung Quốc” lấy cảm
hứng (về mặt tri thức) từ “chủ thuyết tạo dựng về quan hệ quốc tế” ở
nước ngoài. Họ chú trọng cách hành xử quy chuẩn, thay vì luật pháp quốc
tế, và thúc đẩy việc thể chế hoá cách hành xử hợp tác và tập thể. Giáo
sư Tần Á Thanh của Đại học Ngoại giao Trung Quốc và Trương Uẩn Lĩnh của
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc (CASS) là tiên phong trong phong
trào này, và đã từng góp phần đáng kể vào việc xây dựng chủ thuyết thể
chế hoá khu vực ở châu Á, và gia tăng sự tham gia của Trung Quốc trong
các tổ chức như thế.
Những người chú trọng mối quan hệ của Trung Quốc
trong khu vực châu Á không phải hoàn toàn không để ý đến các quan hệ với
các vùng hoặc quốc gia khác; đối với họ đó là vấn đề về cân bằng. Họ
lập luận để ủng hộ việc không xem thường châu Á so với các cường quốc
hay các quan hệ của Trung Quốc với thế giới đang phát triển.
5. Trường phái Phương Nam toàn cầu
Trường phái “Phương Nam toàn cầu” (Global South) tin
rằng nhân thân quốc tế và trách nhiệm chính của Trung Quốc là nằm trong
thế giới của các nước đang phát triển. Quan điểm của nhóm này có nhiều
liên hệ với việc, từ lâu, Trung Quốc tự coi mình là một quốc gia đang
phát triển (phát triển trung quốc gia). Các thành viên của trường
phái này lập luận rằng Trung Quốc nên đặt ưu tiên cho những nước đang
phát triển nào mà lâu năm đã là đối tác và khách hàng của Trung Quốc;
tối thiểu, những tác giả này lập luận, Trung Quốc nên có một chính sách
đối ngoại cân bằng hơn, để ý đến những nước này, và ủng hộ lợi ích của
những nước ấy. Chủ thuyết này đuợc bộc lộ qua việc Trung Quốc hỗ trợ
mạnh mẽ các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc, Diễn
đàn về Hợp tác Trung Quốc-Châu Phi (FOCAC), việc cải tổ của các tổ chức
tài chính quốc tế, các lợi ích của các nước đang phát triển trong G-20,
đưa ra các chương trình “viện trợ không ràng buộc” và giảm nợ, và đặt
gánh nặng về sự biến đổi khí hậu lên các nước phát triển.
Trong cộng đồng (nghiên cứu về) các quan hệ quốc tế ở
Trung Quốc, luôn có một sự căng thẳng giữa những người mà công việc
nghiên cứu tập trung vào các nước phát triển phương Bắc và những người
nghiên cứu các nước phương Nam. Từ những năm 1990, nhóm các nhà phân
tích Trung Quốc về phương Nam ngày càng nhận thấy sự khác biệt và phân
hoá xảy ra trong thế giới đang phát triển. Họ nhận ra rằng các nước đang
phát triển có thể được phân ra làm nhiều loại khác nhau, và thường rất
khó gom những nước này lại với nhau một cách đơn giản. Các nước đang
phát triển có thể duy trì quan hệ tốt, bình thường, hoặc (trong một số
trường hợp) thù địch với Trung Quốc. Mặc dù hợp tác giữa Trung Quốc và
các nước này nói chung là tốt, nhiều va chạm mới cũng đang lộ ra.
Về mặt kinh tế, các nhà phân tích của trường phái này
cho rằng các nước đang phát triển đã tách ra làm ba nhóm. Nhóm thứ
nhất là các nền kinh tế “công nghiệp hoá mới”, như Brazil, Chile, Nam
Phi, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. Nhóm thứ hai là các nước đang phát triển có
thu nhập trung bình như Mexico hoặc Thái Lan, với GDP bình quân đầu
người xê xích giữa $800 và $7.000. Nhóm thứ ba là các nước kém phát
triển (thường ở vùng cận Sahara châu Phi và Nam Á). Vì sự khác biệt giữa
các nước là khá đáng kể, các nhà phân tích này cho rằng Trung Quốc cần
thiết lập nhiều chính sách nhắm riêng đến ít nhất là ba nhóm nước đang
phát triển khác nhau này, thay vì một tiếp cận chung chung.[24] Tuy
nhiên, đối với những người ủng hộ trường phái tư tưởng này, Trung Quốc
nên tiếp tục xem mình như là một nước đang phát triển, và vì thế bắt
buộc phải hợp tác với các nước đang phát triển vì sự phát triển chung và
những lập trường quốc tế chung, ngay cả sau khi Trung Quốc đã lên được
vị thế một cường quốc toàn cầu.[25]
Theo quan điểm này, Trung Quốc cần tiếp tục cách nhìn
tự thân và sự đoàn kết Nam-Nam, vì đuờng lối ấy sẽ đem lại sự ủng hộ
ngoại giao không thể thiếu để Trung Quốc kháng cự phương Tây về các vấn
đề như Tây Tạng, Đài Loan, nhân quyền, thay đổi khí hậu, vv. Không ngạc
nhiên, trường phái này là một cổ động viên trung kiên cho nhóm
Brazil-Nga-Ấn Độ-Trung Quốc (BRIC: Brazil Russia India China) , và cũng
ủng hộ mạnh mẽ G-20 như một công cụ để phân phối lại quyền lực và nguồn
lực từ Bắc qua Nam. Theo những cách này, Trung Quốc là một cường quốc
xét lại, không là cường quốc hiện trạng.
6. Chủ thuyết “đa phương chọn lọc”
Đi về phía bên phải của “phổ trường phái” (xem hình),
trường phái “đa phương chọn lọc” (selective multilateralism) tin rằng
Trung Quốc nên mở rộng dần dần sự tham gia toàn cầu của quốc gia này,
nhưng có chọn lọc, và chỉ trong những vấn đề liên hệ trực tiếp đến lợi
ích an ninh quốc gia của Trung Quốc. Trường phái này có nhiều biến thể
và nhiều phe nhỏ. Một phe thì lý luận rằng Trung Quốc chỉ nên tham gia
vào các hoạt động được Liên Hiệp Quốc ủy nhiệm, một phe khác thì cho
rằng Trung Quốc chỉ nên tham gia vào khu cực xung quanh lãnh thổ của
mình và không ra quá xa, một phe khác nữa thì tin rằng Trung Quốc không
nên tự hạn chế việc tham gia vào các hoạt động đa quốc gia (khác với đa
phương) cùng với các cường quốc lớn khác.
Nội bộ trường phái này cũng có nhiều tranh luận rất
sôi nổi về vấn đề cai quản thế giới. Nhiều người đặt câu hỏi liệu Trung
Quốc có nghĩa vụ và khả năng đóng góp không. Nhiều người chỉ đơn giản
cho rằng Trung Quốc chưa sẵn sàng và không có khả năng tham gia toàn
diện vào việc quản trị thế giới. Một chuyên gia hàng đầu thẳng thừng
khẳng định: “Trung Quốc thậm chí chưa thể quản lý chính mình thì làm sao
có thể quản lý thế giới?”[26] Nhiều người rất nghi ngờ việc hoạt động
quá nhiều ở nước ngoài. Hầu hết các nhà phân tích Trung Quốc tin (và có
sự đồng thuận của tất cả các trường phái về điều này) rằng toàn bộ khái
niệm “cai quản thế giới” là cái bẫy mà phương Tây giăng ra để làm suy
yếu chủ quyền của Trung Quốc và dụ dỗ nước này vào một loạt các vướng
bận ở nước ngoài không ăn nhằm gì đến Trung Quốc.[27] Có một nhận định
rộng rãi rằng Mỹ và EU kêu gọi Trung Quốc là “cường quốc có trách nhiệm”
(phụ trách nhiệm đích đại quốc) hoặc “cổ đông quốc tế có trách
nhiệm” chỉ là mưu mẹo mới nhất để ghìm lại và làm suy yếu quyền lực của
Trung Quốc. Như một quan chức đã nói: “Trong những năm 1980, các bạn
[Mỹ] đã cố phá hoại chúng tôi về chính trị, trong những năm 1990, các
bạn đã cố kềm chế chúng tôi về chiến lược, trong thập kỷ này, các bạn
đang cố đẩy chúng tôi làm quá sức của mình về mặt quốc tế.”[28] Một học
giả khác nhận định “quản trị thế giới là một khái niệm phương Tây.
Phương Tây nhấn mạnh ‘quản trị’, trong khi Trung Quốc đặt nặng chiều
kích ‘toàn cầu’. Chúng tôi quan tâm nhiều đến sự bình đẳng trong tham
gia hơn là đến quản trị.” Đây là điều mà Trung Quốc muốn nói qua cụm từ
“dân chủ quốc tế.” Không những nhiều người xem quản trị thế giới như
một cái bẫy cho Trung Quốc, họ còn đặt câu hỏi về khái niệm “cường quốc
có trách nhiệm”. Một nhà phân tích la to: “Trách nhiệm với ai? Theo
chuẩn mực của ai? Của Mỹ? Không đời nào!”[29]
Dù nghi ngờ, những người phái “đa phương chọn lọc”
tin rằng Trung Quốc cần làm nhiều hơn để đóng góp vào việc quản trị thế
giới, tương xứng với vị thế và quyền lực mới phát của quốc gia này,
nhưng làm điều đó một cách có chọn lựa. Nhánh “đa phương chọn lọc” này
cho rằng Trung Quốc cần tiếp tục tuân thủ các chỉ đạo của Đặng Tiểu Bình
năm 1989 để “duy trì dáng vẻ thấp, che giấu cái rực rỡ, không cần dẫn
đầu, nhưng làm một số điều gì đó” (thao quang dưỡng hối, bất đương đầu, hữu sở tác vi).
Châm ngôn của Đặng Tiểu Bình đã thu hút nhiều sự chú ý ở phương Tây như
là một kế hoạch phác thảo để che giấu sự phát triển sức mạnh của Trung
Quốc. Hơn 20 năm sau đó, quy tắc của Đặng Tiểu Bình vẫn còn tiếp tục gây
tranh cãi căng thẳng giữa các chuyên gia về quan hệ quốc tế ở Trung
Quốc, khi các học giả và các quan chức đấu vật nhau về câu hỏi: Chính
xác, Trung Quốc nên hoạt động đến mức độ nào trên sân khấu thế giới.
Một học giả nói, “Ở cấp độ chiến lược, tất cả mọi người đều đồng ý là
chúng ta nên tiếp tục tuân theo quan niệm thao quang dưỡng hối
của Đặng Tiểu Bình, nhưng về mặt chiến thuật có nhiều quan điểm khác
nhau. Một số người nghĩ rằng Trung Quốc là chỉ biết phản ứng, trong khi
những người khác nghĩ rằng Trung Quốc nên chủ động hơn.”[30] Một số học
giả khác đã thách thức tính thích ứng hiện nay của các quan điểm của
Đặng Tiểu Bình, và cho rằng các quan điểm của họ Đặng đã lỗi thời và
không phù hợp với vị thế quốc tế mới có của Trung Quốc. Họ lập luận rằng
Trung Quốc nên “làm nhiều điều hơn” (đa sự tác vi), trong khi một số học giả khác lại cho rằng Trung Quốc nên “không làm gì cả” (vô sự tác vi). Chẳng hạn, đầu những năm 2000 Hiệp Tự Thành của Đại học Bắc Kinh lập luận rằng quan niệm thao quang dưỡng hối là
quá mơ hồ để có thể dùng như một chiến lược toàn diện, hoặc một chiến
lược lớn, cho Trung Quốc; đối với nhiều người nước ngoài quan niệm này
ám chỉ một ý đồ nham hiểm. Theo học giả này, một kế hoạch tốt hơn cho
Trung Quốc là cải thiện tính minh bạch của quốc gia này chứ không phải
che giấu khả năng của Trung Quốc. Những người khác phản biện, cho rằng
sự mơ hồ mới đích xác là chiến lược khôn ngoan nhất cho Trung Quốc ở
giai đoạn phát triển hiện nay. Tuy nhiên, sự đồng thuận chủ đạo vẫn cho
rằng cụm từ này vẫn là một nguyên tắc chỉ đạo chiến lược thích hợp cho
ngoại giao Trung Quốc.
Tại cuộc họp thường niên năm 2010 của Hội Quan hệ
Quốc tế Trung Quốc tại Lan Châu, các đại biểu thảo luận sôi nổi xung
quanh vấn đề liệu mô thức này có tiếp tục hiệu quả không, và kết luận
rằng nó vẫn còn là một hướng dẫn tốt cho ngoại giao Trung Quốc. Theo kết
quả của kết luận vĩ mô này, các đại biểu đưa ra chín khuyến nghị chính
sách chủ yếu khác: không đối đầu với Hoa Kỳ, không thách thức hệ thống
quốc tế nói chung, không dùng hệ tư tưởng để chỉ đạo chính sách đối
ngoại, không là kẻ đứng đầu của “phe chống phương Tây”; không tranh
chấp với phần lớn các nước, ngay cả khi Trung Quốc đúng; học cách thoả
hiệp và nhượng bộ, và học cách chơi trò lợi ích hỗ tương; không nhượng
bộ những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc liên quan tới thống nhất đất
nước; cung cấp “hàng công cộng” (public goods) trong các khu vực cần
thiết của vấn đề quốc tế; và thay đổi hình ảnh quốc tế của Trung Quốc
bằng cách tận dụng các sự kiện quan trọng trên thế giới.[31]
Một chiến lược như vậy phù hợp với chính sách ngoại
giao cốt lõi của Trung Quốc trong suốt thời gian sau năm 1978. Như Chủ
tịch Viện Quan hệ Quốc tếĐương đại Trung Quốc (CICIR: Chinese Institute
of Contemporary International Relations) Thôi Lý Như giải thích: “Trong
khoảng 30 năm qua, ngoại giao của Trung Quốc có tính phòng thủ và thụ
động trong hầu hết mọi lĩnh vực ̶ chính sách đối ngoại của Trung Quốc
đã được thực hiện các thoả hiệp, tránh đối đầu, tìm kiếm những điểm
tương đồng chung, và dè chừng các khác biệt. Nhưng một quốc gia yếu ớt
thì không có chính sách đối ngoại, vì vậy chúng ta tìm cách xây dựng đất
nước của chúng ta thế nào để củng cố ngoại giao của chúng ta.”[32]
Liên quan đến quản trị thế giới, các học giả Trung Quốc cũng sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa đa phương (đa biên chủ nghĩa),
nhưng với một quan niệm rất khác với quan niệm thường được sử dụng ở
phương Tây. Như ghi nhận của một học giả: “Đối với Trung Quốc, chủ
nghĩa đa phương là một công cụ và chiến thuật, không là
một cơ chế liên chính phủ hoặc sự xếp đặt có tính tổ chức. Trung Quốc
cũng lo ngại rằng chủ nghĩa đa phương là một công cụ để các nước khác
kềm chế Trung Quốc. Từ những năm 1990, Trung Quốc đã sử dụng chủ nghĩa
đa phương để giải quyết những vấn đề song phương ̶ về mặt này các cuộc
họp đa phương là một sàn diễn (vũ đài) hữu ích để thương lượng
song phương. Nhưng chúng tôi vẫn không thoải mái với chủ nghĩa đa
phương, và thích chủ nghĩa song phương và đa cực hơn.”[33]
Quan điểm chính thức về quản trị thế giới theo Bộ trưởng Ngoại giao Dương Khiết Trì là:
Một Trung Quốc phát triển hơn sẽ thực hiện nhiều
trách nhiệm quốc tế hơn và sẽ không bao giờ theo đuổi những lợi ích làm
thiệt hại nước khác. Chúng tôi biết rõ rằng trong thế giới tùy thuộc lẫn
nhau này, tương lai của Trung Quốc liên quan chặt chẽ với thế giới. Lợi
ích riêng của chúng tôi và lợi ích của những nước khác sẽ được phục vụ
cách tốt nhất khi chúng ta làm việc cùng nhau để mở rộng lợi ích chung,
chia sẻ trách nhiệm, và tìm kiếm những kết quả mà các bên đều thắng
(win-win). Chính vì vậy trong khi tập trung vào sự phát triển của chính
mình, Trung Quốc đang đảm trách ngày càng nhiều hơn các trách nhiệm quốc
tế tương xứng với sức mạnh và vị thế của mình.[34]
Trong bối cảnh cuộc tranh luận rôm rả này về quản trị
thế giới, trường phái “đa phương chọn lọc” thường tránh tăng gia việc
can dự toàn cầu của Trung Quốc, nhưng nhìn nhận rằng Trung Quốc phải
được thấy như là đang góp phần quản trị thế giới. Góp phần quản trị thế
giới là một chiến thuật, không phải là một triết lý.
Những người ủng hộ phái này không phải là những người theo thuyết Thể
chế phóng khoáng (liberal institutionalists), nói đúng hơn thì họ có vẻ
là một phiên bản quốc tế của những người chủ nghĩa hiện thực. Chủ nghĩa
đa phương chọn lọc cảnh giác với các vướng bận ngoài nước, nhưng thừa
nhận rằng Trung Quốc không nên bị xem là người đi xe không trả tiền
(free riders) trong cộng đồng quốc tế. Trên thực tế, chủ nghĩa đa phương
chọn lọc có xu hướng không ủng hộ chủ nghĩa đa phương nói cách ngắn
gọn, theo nghĩa các thể chế quốc tế, vì những người ủng hộ chủ nghĩa đa
phương chọn lọc sẽ thoải mái hơn khi làm việc trong các nhóm gồm một số
ít quốc gia, họp lại chỉ để giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó. Lập
trường này của họ phản ánh sự khó chịu nói chung của Trung Quốc đối với
các tổ chức, định chế thế giới, bởi lẽ những tổ chức và định chế này có
khả năng hạn chế sự độc lập và quyền tự do hành động của Trung Quốc.
Như vậy, trường phái “đa phương chọn lọc” tán thành
việc Trung Quốc tham gia nhiều hơn vào các hoạt động gìn giữ hoà bình
Liên Hiệp Quốc (Trung Quốc hiện có 2 155 nhân viên gìn giữ hoà bình điều
động trong 11 trong số 19 hoạt động toàn cầu hiện nay của LHQ), góp
phần cứu trợ các thiên tai (sóng thần Đông Nam Á 2004, động đất Pakistan
2005, bão ở Việt Nam 2007, động đất Haiti 2010, động đất Chile 2010),
chống cướp biển quốc tế ở Vịnh Aden, và tham gia ngoại giao về các vấn
đề Bắc Triều Tiên và hạt nhân Iran, nhưng họ tránh can dự sâu hơn ở các
khu vực nhạy cảm và nhiều rủi ro như Iraq và Afghanistan. Và họ hầu như
bác bỏ toàn bộ chương trình nghị sự an ninh xuyên quốc gia phi truyền
thống. Vẫn còn là một tâm lý miễn cưỡng mạnh mẽ đối với việc tham gia
vào các hoạt động an ninh quốc tế vì các lý do nhân đạo.
7. Chủ nghĩa toàn cầu
Ở đầu cuối cùng của “phổ trường phái” là trường phái
“toàn cầu” (Globalism). Những người theo trường phái này có xu hướng
tin rằng Trung Quốc phải chen vai gánh vác trách nhiệm để giải quyết một
loạt vấn đề quản trị thế giới tương xứng với tầm vóc, sức mạnh, và ảnh
hưởng của Trung Quốc. Trường phái này là tương đương với các trường phái
“chủ nghĩa thể chế phóng khoáng” (liberal institutionalism) ở phương
Tây. Ở Trung Quốc, đây là một nhóm rất “không câu nệ” (eclectic) bao gồm
các cá nhân môn đồ của “trường phái tạo dựng” (constructivism) lẫn
“trường phái Anh” (English school) về quan hệ quốc tế. Về mặt triết lý,
những người ủng hộ có xu hướng nghiêng về chủ nghĩa nhân đạo, ủng hộ
toàn cầu hoá, ít đặt nặng vấn đề chủ quyền quốc gia, và tin rằng những
thách thức xuyên quốc gia đòi hỏi quan hệ đối tác xuyên quốc gia. Họ
quan tâm đến quyền lực mềm – không phải cứng ̶ và đặt niềm tin vào
ngoại giao và quan hệ đối tác liên khu vực. Họ ủng hộ và tin tưởng nhiều
hơn vào các thể chế đa phương hơn là những người đa phương chọn lọc.
Trường phái “toàn cầu” nghĩ rằng, với sự trỗi dậy
toàn cầu của mình, Trung Quốc có phận sự đóng góp nhiều hơn nữa vào việc
quản trị thế giới và hành xử như một cường quốc có trách nhiệm (phụ trách nhiệm đích đại quốc)
trên trường quốc tế. Về bản chất, những người “toàn cầu” là những
người theo chủ nghĩa “thể chế tùy thuộc nhau” (interdependence
institunationalism), những người chấp nhận toàn cầu hoá và chủ thuyết
xuyên quốc gia như là nền tảng phân tích của họ.Cũng như các đối tác
phương Tây của họ, những người này nhìn nhận rằng trong thời đại toàn
cầu hoá, chủ quyền có những giới hạn của nó khi các thử thách “phi
truyền thống” thường xuyên vượt qua các biên giới chủ quyền và phải được
đối phó theo cách thức đa phương. Do đó, phần lớn phân tích của họ tập
trung vào những vấn đề như an ninh phi truyền thống chẳng hạn như an
ninh con người, an ninh kinh tế, chống khủng bố, y tế công cộng, tội
phạm có tổ chức, buôn lậu, tấn công trên mạng, cướp biển, v.v… Thật thú
vị là có một cộng đồng đang lớn mạnh bên trong quân đội Trung Quốc cũng
nghiên cứu các chủ đề này, được mô tả một cách hoa mỹ là “các hoạt động
quân sự không chiến tranh.”
Những người “toàn cầu” là người mạnh mẽ ủng hộ Liên
Hiệp Quốc và vai trò tích cực của Trung Quốc trong Hội đồng Bảo an. Họ
cũng là những người ủng hộ mạnh mẽ sự tham gia của Trung Quốc trong các
nhóm ngoại giao khu vực trên toàn thế giới. Trung Quốc tham gia một cách
chính yếu vào việc khởi xuất sự hình thành của các nhóm đối thoại mới,
như Diễn đàn về Hợp tác Trung Quốc-Châu Phi, Diễn đàn hợp tác Trung
Quốc-Á Rập, và Diễn đàn Đông Á-Mỹ Latin, và đã trở thành một quan sát
viên hoặc thành viên chính thức của nhiều nhóm đối thoại đang có. Ở Mỹ
La tinh, Trung Quốc đã tổ chức 17 vòng đối thoại với tập đoàn Rio và đã
thành lập một cơ chế đối thoại với các nhóm thị trường chung Mercosur,
Cộng đồng Caribbé, và Hội nghị châu Mỹ La tinh cùng với những tổ chức
khác.
Những người “toàn cầu” thu hút những bạn đồng sàng
khá lạ. Chẳng hạn, Diêm Học Thông nhà chủ nghĩa hiện thực nổi bật, Viện
trưởng Viện Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Thanh Hoa, tin rằng Trung
Quốc cần can dự nhiều hơn nữa vào các tổ chức quốc tế và nên tung sức
mạnh của mình ra xung quanh, tương xứng với tư thế toàn cầu mới của
mình.
Những người “toàn cầu”cũng tỏ ra ham chuộng quyền lực
mềm. Dòng tư tưởng này có xu hướng cho rằng, từ nền văn hoá và triết lý
truyền thống của Trung Quốc, quốc gia này có nhiều thứ để đóng góp vào
các chuẩn mực quốc tế. Môn Hồng Hoa (Men Honghua) của Trường Đảng Trung
ương (và Cao đẳng Quản trị Thanh Hải), “khoa trưởng” của những nghiên
cứu quyền lực mềm ở Trung Quốc, lập luận rằng bốn giá trị then chốt tư
tưởng của Khổng Mạnh là đặc biệt thích hợp: hoà (hoà hợp), đức (đạo đức); lễ (lễ nghi), và nhân (nhân từ).[35]
Mặc dù những người theo chủ nghĩa toàn cầu tiếp tục
có một tiếng nói trong công chúng nhưng âm hưởng của họ đã giảm đi đáng
kể. Đến cuối năm 2009 và sang năm 2010, nhóm này dường như bị lu mờ cả
trong Bộ Ngoại giao lẫn giới học thuật, khi sự mất lòng tin về quản trị
thế giới tăng trên toàn “phổ tư tưởng” và Trung Quốc bắt đầu theo đuổi
một chính sách toàn cầu có nhiều màu sắc chủ nghĩa hiện thực và quan tâm
tới chính mình hơn.
Những điều rút ra cho chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc
Trên đây là phân loại các ý kiến của giới tinh hoa ở
Trung Quốc ngày nay về vai trò quốc tế của nước này. Sự kiện Trung Quốc
có một cuộc tranh luận đa dạng như thế cho thấy rằng nước này có nhiều
nhân thân quốc tế và một nhân cách phân liệt (schizophrenic
personality). Tranh luận này cũng không nói gì về hàng triệu cư dân
mạng của Trung Quốc đang rất lớn giọng, chủ động, và nằm trọn trong phe chủ nghĩa bản địa
trong không gian mạng. Chính phủ Trung Quốc là khá nhạy cảm với phần
công luận này, vì phần lớn là dân tộc chủ nghĩa cực đoan và chỉ trích
chính phủ là “yếu” hoặc “mềm” khi đối mặt với các sức ép và sự nhục mạ
của nước ngoài. Các quan chức Bộ Ngoại giao nhanh nhẩu vạch ra rằng đây
là một đám đông mà họ phải liên tục dò chừng, phản ứng, và cố gắng để
kiểm soát. Chủ nghĩa dân tộc đại chúng này chỉ càng củng cố thêm trọng
tâm của phe chủ nghĩa bản địa ̶ chủ nghĩa hiện thực trong giới tinh
hoa.
Từ các trường phái này, riêng rẽ hay gộp chung, có
thể rút ra nhiều bài học về chính sách. Về từng trường phái, điều quan
trọng là nhận ra rằng tiếng nói củachủ nghĩa bản địa là có, và
rằng những cảm tính dân tộc chủ nghĩa đang gia tăng, nhưng không nên
phóng đại ảnh hưởng của chúng. Chúng tạo ra “nhiều sấm nhưng ít mưa” (lôi thanh đa, vũ điểm thiểu),
theo một câu tục ngữ Trung Quốc cổ đại. Mặc dù Mỹ nên nhạy cảm để không
đối kháng và kích động các thành phần này trong nền chính trị Trung
Quốc, thực sự thì Mỹ cũng không làm được gì nhiều để dìm sự bài ngoại
này xuống, vì nó có động lực chính trong xã hội Trung Quốc.
Chủ nghĩa hiện thực có ảnh hưởng phần lớn đến ý
kiến của giới ưu tú và là trọng tâm trong các cuộc tranh luận của Trung
Quốc ngày nay, với những hậu quả được bàn luận dưới đây.
Trường phái các cường quốc chính yếu là con
ách chủ bài cho Mỹ. Mỹ vẫn có tính sống còn đối với các lợi ích quốc gia
của Trung Quốc qua một loạt vấn đề, từ tăng trưởng kinh tế đến ổn định
chính trị, an ninh khu vực, Đài Loan. Trung Quốc không cần, và không tìm
kiếm một mối quan hệ thù địch với Mỹ. May mắn thay, phần lớn những
người ủng hộ trường phái này là quan chức chính phủ, dường như bao gồm
cả chính Chủ tịch Hồ Cẩm Đào.[36] Mặc dù họ có thể ngờ vực và không
thích nước Mỹ, những quan chức này đủ thực dụng để nhận ra tầm quan
trọng có tính trung tâm của Mỹ đối với nhiều ưu tiên trong nội bộ Trung
Quốc, cũng như những ưu tiên của Trung Quốc trong khu vực và toàn cầu.
Trong khi đó, những người gắn bó với thuyết châu Á trước hết
có rất nhiều việc phải làm. Các quan hệ khu vực của Trung Quốc ̶ từ
Nhật Bản và Hàn Quốc cho đến ASEAN và Ấn Độ ̶ đã bị va đập trong những
tháng gần đây. Đây có thể là tin tốt cho nước Mỹ, vì chính quyền Obama
đã làm việc cật lực để tăng cường quan hệ của Washington xung quanh toàn
vùng ngoại vi của Trung Quốc[37].
Đối với các trường phái toàn cầu phương Nam,
Washington cần nhận ra trò chơi mà Bắc Kinh đang chơi rất khéo léo. Sự
có mặt của Trung Quốc ở châu Phi vượt xa Mỹ, là rộng lớn hơn trên lục
địa Âu Á, và đang gia tăng ở Trung Đông và Mỹ La Tinh. Washington cần
nhận ra rằng có một cuộc cạnh tranh đang chớm nở với Trung Quốc về ảnh
hưởng toàn cầu, và nên tăng cường sự hiện diện và ngoại giao của mình
trên toàn thế giới để cạnh tranh với Bắc Kinh trong các “khu vực ở giữa”
và với “những quốc gia trung cường” (không là đại cường nhưng cũng
không là nhỏ bé). Ngoài ra, Washington đã lôi kéo Bắc Kinh tham gia vào
một loạt các cuộc đối thoại khu vực trực tiếp qua “vòng chiến lược”
(strategic track) Đối thoại chiến lược và kinh tế Mỹ-Trung Quốc (SAED),
song những cuộc đối thoại này cần phải được đào sâu thêm và tăng tần
số. Chúng là diễn đàn quan trọng để cả hai bên biểu lộ các lợi ích của
mỗi bên, sự công bằng, các chính sách, và các ưu tiên. Cũng sẽ là hữu
ích để thiết lập một loạt các cuộc đối thoại “vòng II” chuyên sâu giữa
các chuyên gia khu vực từ cả hai nước. Cuối cùng, Mỹ cần phải nhận thức
các chương trình nghị sự phân phối lại và xét lại mà Bắc Kinh đang theo
đuổi trong các tổ chức quốc tế như G-20 và qua việc hình thành các nhóm
như BRIC.
Liên quan đến trường phái đa phương chọn lọc,
Mỹ phải hiểu rằng trường phái này đang thúc đẩy cho một sự tham gia có
tính tự lợi, tính chiến thuật, và tính chọn lọc trong sự quản trị thế
giới. Trung Quốc không chia sẻ nhiều lắm các tiền đề về trật tự tự do
toàn cầu, mặc dù nước này đã được hưởng lợi lớn từ trật tự ấy.[38] Mặc
dù điều này vẫn cho phép, chẳng hạn, một sự hợp tác Trung-Mỹ, hạn chế
nhưng hữu ích, trong vấn đề các chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên
và Iran, Washington không nên ngây thơ về động lực và sự hoài nghi tổng
quát liên quan đến quản trị thế giới của Bắc Kinh. Trung Quốc sẽ tự
tham gia vào các vấn đề quốc tế chỉ khi nó có lợi cho Trung Quốc, hơn là vì bất kỳ cam kết triết lý rộng lớn nào (bất kể quan hệ “anh em” Nam-Nam của Trung Quốc).
Cuối cùng, dù chẳng may, Washington phải nhìn nhận rằng chủ thuyết toàn cầu
đã thua trong cuộc tranh luận bên trong Trung Quốc và tiếng nói của chủ
thuyết này đã đi vào im lặng từ năm 2008. Tuy nhiên, điều này không có
nghĩa là Mỹ (cũng như Liên minh châu Âu và những nước khác) nên ngưng
thúc giục Trung Quốc phải chen vai gánh trách nhiệm quốc tế lớn hơn và
đóng góp vào (cái mà các nhà kinh tế gọi là) “hàng công cộng”[39] toàn
cầu trong khi công khai nhắc nhở cộng đồng toàn cầu mức độ ít oi mà
Trung Quốc thực sự đang đóng góp (so với tầm cỡ và sức mạnh của quốc gia
này). Ví dụ, có 48 quốc gia được điều động như một phần của Lực lượng
Hỗ trợ An ninh Quốc tế (ISAF) tại Afghanistan, nhưng Trung Quốc không
nằm trong số đó. Trung Quốc chỉ đứng thứ 14 như một nước đóng góp cho
các hoạt động gìn giữ hoà bình Liên Hợp Quốc (mặc dù là thành viên đầu
tiên trong số các thành viên thường trực Hội đồng Bảo an).Trung Quốc có
nền kinh tế quốc dân lớn thứ hai thế giới, nhưng không nằm trong 10 nước
đóng góp hàng đầu cho ngân sách hàng năm của Liên Hợp Quốc. Trung Quốc
chủ yếu tiếp tục “đi xe miễn phí” và chỉ đóng góp cho quản trị thế giới
vừa đủ mức cần thiết để đánh lạc hướng những lời chỉ trích của phương
Tây. Mặc dù có thể chỉ làm Trung Quốc nghi ngờ thêm, phương Tây vẫn nên
tiếp tục thúc giục Bắc Kinh nhiều hơn, và công khai vạch trần những đóng
góp nhỏ bé của Trung Quốc, nhưng cũng nên hạ thấp kỳ vọng của mình về
những gì có thể trông mong từ một nhà nước chỉ tự quan tâm hạn hẹp đến
chính mình.[40] Tuy nhiên, Washington chắc chắn nên mời gọi sự hợp tác
“đa quốc gia có chọn lọc” của Bắc Kinh về các vấn đề có dính líu đến lợi
ích của Trung Quốc.
Gộp chúng với nhau, những trường phái tư tưởng này
cũng có những hàm ý cho chính sách. Cộng đồng quốc tế phải hiểu rằng
nhân thân quốc tế của Trung Quốc là không cố định. Nó dễ biến chuyển, là
một tiến trình còn đang tiếp diễn, và được tranh luận không ngừng. Như
vậy, Mỹ và những nước khác có thể tạo ảnh hưởng đến các cuộc tranh luận
đang diễn ra (cũng như kết quả về chính sách) thông qua cả hành động lẫn
lời nói, cả tiêu cực lẫn tích cực. Lời nói mạnh bạo và hành động cứng
rắn của Mỹ có thể có một tác dụng gia tăng lên Trung Quốc, tạo ra cách
hành xử hung hăng hơn, phá rối hơn, từ Bắc Kinh, vì sẽ có nhiều tiếng
nói trong nước đẩy chính phủ kiên quyết chống lại Washington. Tuy nhiên,
các phát biểu và khuyến khích có tính hoà huỡn hơn để Trung Quốc hành
động như “một cổ đông quốc tế có trách nhiệm” và trở nên tham gia sâu
rộng hơn vào việc quản trị thế giới cũng sẽ làm trầm trọng thêm sự ngờ
vực của Trung Quốc và không có khả năng đem đến các kết quả như dự định.
Do đó, Washington và phương Tây bị vướng vào một câu hỏi thật sự hóc
búa: cứng rắn với Trung Quốc sẽ có khả năng làm Trung Quốc cứng rắn hơn
trong phản ứng của họ, nhưng hoà huỡn sẽ chỉ làm tăng định hướng tự
quan tâm “Trung Quốc trước hết” của những người theo chủ nghĩa hiện
thực.
Tương thích Chủ nghĩa hiện thực Trung Quốc với Chủ nghĩa hiện thực Mỹ?
Như bài này đã vạch ra, hiện nay trọng tâm của “phổ
tư tưởng” Trung Quốc không nằm ở giữa hoặc về phía “đa phương chọn
lọc”/“toàn cầu” của phổ. Đúng hơn, nó nằm phía cuối bên trái, neo ở khối
chủ nghĩa hiện thực nhưng với sức kéo mạnh mẽ từ khối chủ nghĩa bản địa
và với ảnh hưởng yếu hơn từ các trường phái cường quốc lớn và phương
Nam toàn cầu. Các quan chức chính phủ trong Bộ Ngoại giao, Ban Quốc tế
của Trung ương Đảng và Văn phòng Ngoại giao nằm giữa (một cách thực
dụng) hai truờng phái “Cường quốc Chính yếu” và “phương Nam toàn cầu”,
nhưng họ phải đáp ứng tiếng nói của nhóm bản địa và chủ nghĩa hiện thực
trong xã hội, quân đội, và Đảng Cộng sản.
Những gì thế giới nhìn thấy ở Trung Quốc từ năm 2009
là một quốc gia ngày càng nghiêng về chủ nghĩa hiện thực, chỉ quan tâm
đến chính mình một các hạn hẹp, tìm cách tối đa hoá quyền lực toàn diện
của nước họ. Sự phục hồi nhanh chóng của Trung Quốc từ cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu, nhu cầu tiêu thụ năng lượng gia tăng, chủ nghĩa dân
tộc trỗi dậy, một sự chuyển tiếp lãnh đạo lờ mờ, và việc mất lòng tin
vào chính quyền Obama theo sau quyết định của Tổng thống Obama tiếp đức
Đạt Lai Lạt Ma tại Nhà Trắng 2010 và bán 6 tỉ USD vũ khí cho Đài Loan đã
đổ dầu vào xu hướng này. Cách hành xử đối ngoại ấy đượcphản chiếu
trong cuộc tranh luận trong nước của Trung Quốc.
Tư thế chủ nghĩa hiện thực của Trung Quốc rơi ngay
vào tay các phe chủ nghĩa hiện thực và bảo thủ ở Mỹ, những phe có xu
hướng xem Trung Quốc như một cường quốc quân sự đang lên, một cường quốc
kinh tế trọng thương, một cường quốc quyết đoán hơn trong khu vực,
nhưng là một đối tác ít hợp tác toàn cầu.Ngay cả những nhà phân tích Mỹ
có xu hướng xem Trung Quốc với một cách nhìn hoà dịu hơn, những người đã
từng hi vọng một Trung Quốc “trưởng thành” trên sân khấu quốc tế sẽ có
tinh thần hợp tác hơn, tính chất “quốc tế” (internationalist) hơn, cũng
ngày càng vỡ mộng bởi cách hành xử gần đây của Bắc Kinh. Nhưng các
chuyên gia về Trung Quốc không nên hoàn toàn ngạc nhiên bởi cách hành xử
như thế, vì nó chỉ phản ánh quan tâm duy nhất trong sáu thập kỷ của
Đảng Cộng sản, chính phủ, quân đội, và xã hội Trung Quốc là tăng cường
toàn diện bản thân Trung Quốc và trở thành một siêu cường trên thế giới.
Chỉ cần nhìn thoạt qua thì điều này gợi ý ngay rằng
Mỹ phải đối phó với một Trung Quốc theo chủ nghĩa hiện thực với các
phương pháp của chủ nghĩa hiện thực: bằng cách điều động ra xa (nước Mỹ)
một thế quân sự hùng mạnh ở Tây Thái Bình Dương, “lập hàng rào chiến
lược” với các liên minh đã củng cố và quan hệ đối tác an ninh xung quanh
khắp các vùng ngoại vi của Trung Quốc, sử dụng đòn bẩy của các chính
sách kinh tế và thương mại cứng rắn, tận dụng sức mạnh Mỹ và các công cụ
ngoại giao, và giảm bớt kỳ vọng vào sự hợp tác của Trung Quốc về các
vấn đề toàn cầu.
Có một logic nào đó và nhiều cám dỗ để đương đầu với
Trung Quốc theo những cách nói trên. Nhưng một đáp ứng kiểu chủ nghĩa
hiện thực sẽ chỉ đóng góp vào một chu kỳ “tác động – phản ứng” vô tận,
thêm dầu vào lửa trong tình trạng lưỡng nan về an ninh tiếp tục tồn tại
trong quan hệ Mỹ-Trung, và có thể tạo ra một quan hệ thù địch mà không
bên nào cần hoặc muốn. Các chính sách cứng rắn của Mỹ sẽ chỉ làm mạnh
thêm chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc, gia tăng sự ương ngạnh của Trung
Quốc, thậm chí hướng Bắc Kinh tập trung vào việc xây dựng quyền lực cứng
của họ nhiều hơn, và làm cho sự hợp tác với Trung Quốc về các vấn đề
quốc tế ngày càng khó khăn. Một vài yếu tố, chẳng hạn như duy trì mạnh
mẽ các đồng minh và quan hệ đối tác liên minh của Mỹ ở châu Á, là thận
trọng một cách khôn ngoan, nhưng nếu “việc xây dựng hàng rào chiến lược”
đòi hỏi một sự bung ra quá nhiều về quân sự, nó có thể phản tác dụng.
Các chính sách kinh tế khó khăn cũng có một ý nghĩa nào đó, đặc biệt là
khi Chính phủ Mỹ cong mình về phía sau để cố vỗ về Bắc Kinh nâng cao giá
đồng tiền của mình và hạ thấp các rào cản thương mại và đầu tư. Nhưng
các hành động mạnh mẽ của Mỹ sẽ gặp các hành động chống trả của Trung
Quốc, và cả hai bên có thể vô tình rơi vào một cuộc chiến tranh thương
mại rất dễ dàng. Thay vì buông mình vào thế đáp ứng mặc định có tính chủ
nghĩa hiện thực đối với với Trung Quốc, Washington cần phải tinh khôn
hơn và hoạch định một chiến lược phức tạp hơn.[41]
Cuộc tranh luận luận sôi nổi ở Trung Quốc về vai trò
quốc tế của nước này sẽ tiếp tục chuyển biến. Khi như vậy, nuớc này có
nhiều khả năng sẽ trở nên ít đa dạng, và phân cực nhiều hơn, vì quan
điểm chủ nghĩa hiện thực / chủ nghĩa bản địa có thể cứng thêm. Một sự
cố nào đó cũng có thể ảnh hưởng lớn đến cuộc tranh luận, chẳng hạn như
nếu một đại sứ quán Trung Quốc bị chiếm giữ, hoặc một số lớn công nhân
bị sát hại, hoặc một tàu hải quân Trung Quốc bị tấn công. Tuy nhiên
trong tương lai gần, cộng đồng quốc tế nên dự kiến một sự đa dạng về
tiếng nói và về những người ủng hộ chính sách, trong lúc cách hành xử
của Trung Quốc có vẻ thiếu nhất quán, và phát những tín hiệu mâu thuẫn,
nhưng với tính chất mà chủ nghĩa hiện thực là ưu thế, và gây khó khăn
*David Shambaugh là Giáo sư Khoa học Chính trị và
các Vấn đề Quốc tế, và Giám đốc Chương trình về Chính sách của Trung
Quốc tại Đại học George Washington, đồng thời cũng là thành viên không
thường trực về Chính sách đối ngoại của Viện Brookings. Bài viết này
dựa trên các kết quả nghiên cứu của chương trình “Cách nhìn thế giới của
các Cường quốc có tham vọng” của Trung tâm Sigur về Châu Á học tại Đại
học George Washington.
Chú thích:
[1] Xem ‘‘Views of China’s Influence,’’ World Public Opinion.org, January 2009,http://ww.worldpublicopinion.org/pipa/images/feb09/BBCEvals/BBCEvals2.htm ; and ‘‘Global Views of United States Improve While Other Countries Decline,’’ BBC News, April 18, 2010, http://news.bbc.co.uk/2/shared/bsp/hi/pdfs/160410bbcwspoll.pdf.
[2] Về vấn đề này, xem Linda Jakobson and Dean Knox,
‘‘New Foreign Policy Actors in China,’’ SIPRI Policy Paper, no. 26
(Stockholm: Stockholm International Peace Research Institute, 2010), http://books.sipri.org/files/PP/SIPRIPP26.pdf.
[3] Cho một đánh giá mới đây, xem Zhu Liqun,
‘‘China’s Foreign Policy Debates,’’ Chaillot Papers (Paris: Institute
for Security Studies European Union, September 2010); cho một đánh giá
trước đây, xem Daniel Lynch, ‘‘Chinese Thinking on the Future of
International Relations: Realism as the Ti, Rationalism as the Yong?,’’
The China Quarterly 197 (March 2009): pp. 87 —107.
[4] Xem, chẳng hạn, Tiết Dũng, Chẩm ma dạng tố đại
quốc? [How to be a Great Power] (Bắc Kinh: Trung tín xuất bản xã, 2009);
và Đỗ Đức Phú, Đại Quốc pháp tắc [The Rules for Great Nations] (Bắc
Kinh: Trung Quốc Hoa kiều xuất bản xã, 2009).
[5] Xem thêm Robert Gilpin, War and Change in Global Politics (Cambridge: Cambridge University Press, 1983).
[6] Tốt hơn nên nghĩ các nhóm này như “các xu hướng
phân tích” hơn là các trường phái tư tưởng cứng nhắc. Công trình đi đầu
về “phân tích khuynh hướng” là của H. Gordon Skilling and William
Griffiths, Interest Groups in Soviet Politics (Princeton: Princeton
University Press, 1973).
[7] Vương Hiểu Đông và các cộng sự., Trung Quốc bất
cao hưng [China is Unhappy] (Bắc Kinh: Giang Tô nhân dân xuất bản xã,
2009); và Hạ Hùng Phi,Trung Quốc vi thập yêu bất cao hưng? [ Why is
China Unhappy?] (Bắc Kinh: Thế giới tri thức xuất bản xã, 2009).
[8] Trương Văn Mộc, ‘‘Thế giới lịch sử trung đích
cường quốc chi lộ, dữ trung quốc đích tuyển trạch’’ [Con đường của các
cường quốc lớn in lịch sửthế giớ và sự lựa chọn của Trung Quốc],trong
Chiếc lược & tham tác [Strategy and Exploration], ed. Quách Thụ Dũng
(Bắc Kinh: Thế giới tri thức xuất bản xã, 2008), pp. 33, 54.
[9] Phương Ninh, ‘‘Tân đế quốc chủ nghĩa chiến lược
& Trung Quốc đích chiến lược tuyển trạch’’ [The New Imperialism and
China’s Strategic Choice], trong Chiến lược giảng toạ [Lectures on
Strategy], ed. Quách Thụ Dũng (Bắc Kinh: Peking University Press, 2006),
pp. 132—133.
[10] Xem Vương Kính Tùng, Đế quốc chủ nghĩa lịch sử
đích tối hậu giai đoạn: Đương đại đế quốc chủ nghĩa đích hình thành hoà
phát triển xu thế [Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của lịch sử:
Các xu hướng hình thành và phát triển của chủ gnhĩa đế quốc đương đại]
(Bắc Kinh: Xã hội khoa học văn trích xuất bản xã, 2008).
[11] Xem David Shambaugh, Beautiful Imperialist:
China Perceives America, 1972—1990 (Princeton: Princeton University
Press, 1990).
[12] Xem Alastair Iain Johnston, Cultural Realism:
Strategic Culture and Grand Strategy in Chinese Culture (Princeton:
Princeton University Press, 1998).
[13] Scholar at China Reform Forum, interview with author, Beijing, January 20, 2010.
[14] Shen Dingli (Trầm Đinh Lập), presentation at the New Zealand Institute of International Affairs, June 28, 2010.
[15] Shen Dingli (Trầm Đinh Lập), trình bày tại Hội
nghị bàn tròn với các chuyên gia đối ngoại về Trung Quốc, Wellington,
New Zealand, June 29, 2010.
[16] Yan Xuetong (Diêm Học Thông), ‘‘An Analysis of
the Advantages and Disadvantages of Containing Legal Taiwan Independence
by Force,’’ Strategy and Management 3 (2004): pp. 1 —5.
[17] Diêm Học Thông, Trung Quốc quật khởi (Thiên Tân: Nhân dân xuất bản xã, 1997).
[18] Chương Nhuỵ Trang, phát biểu tại hội nghị ở ĐH Trung Sơn, Quảng Châu, May 7, 2010.
[19] Chương Nhuỵ Trang, ‘‘Chonggu Zhongguo waijiao
suochu zhi guoji huanjingheping yu fazhan bingfei dangdai shijie zhuti’’
[Reassessing the International Environment of China’s Foreign Affairs -
Peace and Development are Not the Main Theme of Today’s World],
Strategy and Management 1 (2001): pp. 20 —30
[20] Xem Phan Duy, ‘‘Dạ đàm hoà bình diễn biến’’ [Again Discussing Peaceful Rise], http://www.360doc.com/content/07/0831/17/41440_708164.shtml; 
vàPhan Duy, ‘‘Địa cầu thượng tòng lai một phát sinh quá hoà bình quật
khởi giá chủng sự” [Chưa bao giờ có chuyện “trỗi dậy trong hoà bình”
trong quá khứ thế giới], http://www.360doc.com/content/09/1102/17/346405_828157.shtml.
[21] Scholar, interview with author, Beijing, March 25, 2010.
[22] Xem Vương Dật Chu, Trung Quốc Ngoại giao tân cao
địa [Chính sách Ngoại giao của Trung Quốc] (Bắc Kinh: China Academy of
Social Science Press, 2008, p.7.
[23] Xem David Shambaugh, ‘‘China Engages Asia:
Reshaping the Regional Order,’’ International Security 29, no. 3 (Winter
2004/2005): pp. 64 —99.
[24] . Du Tân Thiên ‘‘Trung quốc ứng cải biến kì đối
phát triển trung quốc gia chiến lược [Trung Quốc phải thay đổi chiến
lược đối với các nước đang phát triển], Strategy and Management 3
(2003): pp. 40 —45..
[25] Hoàn Cầu, ed., Bách vấn Trung Quốc vị lai: Trung
Quốc tinh anh đối thoại toàn cầu [Một trăm câu hỏi về tương lai Trung
Quốc: Đối thoại với các phần tử tinh hoa] (Bắc kinh: Tân Hoa Xã, 2009),
p. 12.
[26] Scholar, interview with author, Quảng Châu, May 7, 2010.
[27] Xem, chẳng hạn, phát biểu của Trần Hàm Hi, Đại
học Quảng Đông – khoa Đối ngoại tại hội nghị ở ĐH Trung Sơn, Quảng Châu,
May 8, 2010.
[28] Communist Party official, interview with author, Beijing, July 7, 2010.
[29] Scholar at CICIR, interview with author, Beijing, April 19, 2010.
[30] Kim Xán Vinh, phỏng vấn với tác giả, Đại học Nhân dân, January 29, 2010
[31] ‘‘Trung Quốc Quốc tế Quan hệ Học Hội 2010 niên
niên hội tại Lan Châu’’ [China’s International Relations Society 2010
Annual Meeting in Lanzhou Review], Ngoại giao bình luận 4 (2010): p.
157.
[32] CICIR Chủ tịch Thôi Lí Như, trình bày tại hội
nghị về “Sáu mươi năm chính sách đối ngoại Trung Quốc” tại ĐH Phú Đán,
Thượng Hảii, October 21, 2009.
[33] Tống Tân Ninh, phát biểu tại hội nghị ở ĐH Nhân dân, Bắc Kinh, May 3, 2010.
[34] Dương Khiết Trì, ‘‘A Changing China in a Changing World’’ (speech, Munich Security Conference, February 5, 2010).
[35] Môn Hồng Hoa, phỏng vấn với tác giả, Bắc Kinh, May 2, 2010
[36] Senior Foreign Ministry official, phỏng vấn với tác giả, Bắc Kinh, July 6, 2010.
[37] Xem Edward Wong, ‘‘China’s Disputes in Asia Buttress U.S. Influence,’’ International Herald Tribune, September 22, 2010, http://www.nytimes.com/2010/09/23/world/asia/23china.html.
[38] Xem John Ikenberry, ‘‘The Rise of China and the
Future of the West: Can the Liberal System Survive?,’’ Foreign Affairs
87, no. 1 (January/February 2008), http://www.foreignaffairs.com/articles/63042/g-john-ikenberry/the-rise-of-china-and-the-futureof-the-west.
[39] Chú thích của người dịch: Tức là loại hàng hoá
mà mọi người đều hưởng lợi, và sự huởng lợi của người này không làm giảm
mức lợi cho người khác -
[40] 39. Xem Elizabeth C. Economy and Adam Segal,
‘‘The G-2 Mirage: Why the United States and China Are Not Ready to
Upgrade Ties,’’ Foreign Affairs 88, no. 3 (May/June 2009), http://www.foreignaffairs.com/articles/64946/elizabeth-c-economy-and-adam-segal/theg-2-mirage
; Gregory Chin and Ramesh Thakur, ‘‘Will China Change the Rules of the
Global Order?,’’ The Washington Quarterly 33, no. 4 (October 2010),http://www.twq.com/10october/docs/10oct_Chin_Thakur.pdf ; and David Shambaugh, ‘‘Beijing: A Global Leader with ‘China First’ Policy,’’ Yale Global Online, June 29, 2010, http://yaleglobal.yale.edu/content/beijing-global-leader-china-first-policy.
[41] Xem David Shambaugh, ‘‘A New China Requires a New U.S. Strategy,’’ Current History 109 (September 2010): pp. 219—226.
SOURCE: TẠP CHÍ THỜI ĐẠI MỚI SỐ 22 – THÁNG
8/2011, Phỏng dịch bài “Coping with a Conflicted China” Washington
Quarterly Mùa Đông 2011.
0 comments:
Post a Comment