Ngày 8/7/2011, tại
chuyến thăm Trung Quốc của mình, Ngoại trưởng Philippines Albert del
Rosario đã nêu với người đồng cấp Trung Quốc Dương Khiết Trì về ý tưởng
giải quyết tranh chấp trên Biển Đông thông qua Tòa Trọng tài quốc tế về
Luật biển của Liên hiệp quốc (ITLOS, hay còn được gọi là Tòa án quốc tế
về Luật biển). Phát biểu trong một cuộc họp báo tại Manila ngày
11/7/2011, ông Rosario nói “Tôi đã đề xuất rằng chúng ta cần thông qua
ITLOS. Philippines sẵn sàng bảo vệ lập trường của Manila theo luật pháp
quốc tế trong khuôn khổ Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển và chúng
tôi cũng đã hỏi liệu họ (Trung Quốc) có sẵn sàng làm như vậy hay không”.
Phát biểu của Ngoại trưởng Philippines đã làm dấy lên
những niềm hy vọng mới về một giải pháp cho vấn đề Biển Đông vốn đã
căng thẳng trong nhiều ngày qua. Thế nhưng, đề xuất của Manila đã bị Bắc
Kinh từ chối thẳng thừng. Ngày 12/7/2011, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao
Trung Quốc Hồng Lỗi nói trước báo giới “Trung Quốc giữ vững lập trường
rằng tranh chấp trên Biển Hoa Nam nên được giải quyết thông qua đàm phán
trực tiếp giữa các nước liên quan trực tiếp”. Cũng theo ông Hồng Lỗi,
tranh cãi về vấn đề này cần được giải quyết dựa trên “luật pháp quốc tế
đã được công nhận”. Trước đó, ngày 11/7/2011, trong diễn văn đề cập tới
“sự phát triển hòa bình của Trung Quốc và môi trường quốc tế” tại Hong
Kong, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, bà Phó Oánh lên lớp “Quan trọng
là giải quyết những điểm xung đột. Trung Quốc, Việt Nam và Philippines
cần phải thể hiện phương thức ngoại giao khôn khéo để đảm bảo những mâu
thuẫn của chúng ta sẽ được kiềm chế, xử lý hiệu quả và chúng ta có thể
sẽ không để những mâu thuẫn đó ảnh hưởng đến quan hệ. Có thể nhận thấy
chúng tôi đang đi theo hướng này”. Ngày 13/7/2011, Đại sứ Việt Nam tại
Manila, ông Nguyễn Vũ Tú lên tiếng ủng hộ lời kêu gọi của Philippines về
một giải pháp mang tính nguyên tắc theo Công ước của Liên hiệp quốc về
Luật biển năm 1982 nhằm giải quyết hòa bình tranh chấp. Ông khẳng định,
Việt Nam sẵn sàng làm việc chặt chẽ với Philippines cả song phương lẫn
hợp tác giữa các bên yêu sách nhằm đạt được một giải pháp thỏa thuận
giải quyết hòa bình tranh chấp”. Có vẻ như Việt Nam cũng sẵn sàng cùng
Philippines đưa tranh chấp Trường Sa ra trước ITLOS nếu được yêu cầu.
Các câu hỏi đặt ra là: ITLOS liệu có giúp được gì cho
tranh chấp ở Biển Đông; những điều kiện gì cần phải đáp ứng về mặt thủ
tục để ITLOS có đủ thẩm quyền; vấn đề cụ thể gì sẽ được đưa ra trước
ITLOS; liệu các bên có tìm được tiếng nói chung; hay vì sao Trung Quốc
không chấp nhận đưa tranh chấp Biển Đông ra trước ITLOS hay các cơ quan
tài phán quốc tế khác?
1. Thủ tục và thẩm quyền của Tòa Trọng tài quốc tế về Luật biển
ITLOS là một cơ quan tài phán riêng biệt do Công ước
của Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982 thiết lập, nhằm giải thích các
điều khoản và việc áp dụng Công ước. ITLOS đặt trụ sở chính thức tại
Ham-bua, Cộng hoà liên bang Đức. Số thành viên của Toà án gồm 21 quan
toà độc lập được tuyển chọn trong số các nhân vật nổi tiếng nhất về công
bằng và liêm khiết, có năng lực rõ ràng trong lĩnh vực luật biển. Công
ước Luật biển của Liên hiệp quốc là Công ước đầu tiên quy định thủ tục
hòa giải bắt buộc và thủ tục bắt buộc giải quyết tranh chấp bằng tài
phán, song Công ước cũng cho phép các bên tự lựa chọn các cơ quan tài
phán quốc tế. Điều 287 quy định, khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham
gia Công ước ở bất kỳ thời điểm nào sau đó, để giải quyết các tranh
chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, quốc gia
được quyền tự do lựa chọn – dưới hình thức tuyên bố bằng văn bản – một
hay nhiều biện pháp sau:
a) Đưa ra ITLOS
b) Đưa ra Toà án công lý quốc tế (ICJ)
c) Đưa ra một Toà Trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước
d) Đưa ra một Toà Trọng tài đặc biệt để giải quyết
các tranh chấp trong từng lĩnh vực riêng biệt như nghiên cứu khoa học
biển, nghề cá, giao thông biển… được thành lập theo đúng Phụ lục VII của
Công ước.
Quyền tự do lựa chọn cũng có thể hàm ý tồn tại tình
huống không lựa chọn một biện pháp nào. Khi đó, theo Điều 287, khoản 3
của Công ước, một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà
không được một tuyên bố còn hiệu lực bảo vệ thì được xem là đã chấp nhận
thủ tục trọng tài trù định ở Phụ lục VII. Ngược lại, quyền tự do lựa
chọn cũng dẫn tới tình huống một quốc gia có thể tuyên bố chấp nhận một
thủ tục duy nhất, hoặc hai hay nhiều thủ tục cùng lúc. Ví dụ, Vương quốc
Bỉ khi ký Công ước ngày 5/12/1984 đã chấp nhận theo thứ tự: Toà Trọng
tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước; Toà Trọng tài
quốc tế về Luật biển; Toà án công lý quốc tế. Nga, Ucraina và Beloruxia
chọn Toà Trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước
nhưng bảo lưu một số vấn đề cho thủ tục trọng tài đặc biệt. Capt Vert,
Oman và Uruguay chọn Toà Trọng tài quốc tế về Luật biển và thứ hai là
Toà án Công lý quốc tế. Như vậy sẽ có vấn đề cạnh tranh giữa danh nghĩa
xét xử dựa trên Điều 287 của Công ước và danh nghĩa khác phù hợp với
Điều 36 khoản 2 Quy chế của Toà án Công lý quốc tế.
Theo Điều 21 Quy chế của ITLOS thì Tòa có thẩm quyền
đối với tất cả các vụ tranh chấp và tất cả các yêu cầu được đưa ra Toà
theo đúng Công ước, và đối với tất cả các trường hợp được trù định rõ
trong mọi thoả thuận khác, giao thẩm quyền cho Toà án.
Tóm lại, ITLOS có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh
chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước của Liên hiệp
quốc về Luật biển: (i) giữa các quốc gia tuyên bố bằng văn bản lựa chọn
Tòa. Đây là thẩm quyền được xác định trước khi xảy ra tranh chấp. Khi
tranh chấp xảy ra, một Bên liên quan và đã có tuyên bố bằng văn bản lựa
chọn Tòa có quyền đơn phương kiện Bên tranh chấp với mình ra Tòa với
điều kiện Bên tranh chấp này cũng đã có tuyên bố bằng văn bản chấp nhận
trước thẩm quyền của Tòa; (ii) giữa các quốc gia tranh chấp có cùng thỏa
thuận lựa chọn ITLOS bằng một thỏa thuận song phương hoặc đa phương.
Ngoài ra, trong trường hợp nếu được sự thoả thuận của
tất cả các bên trong một hiệp ước hay một Công ước đã có hiệu lực có
quan hệ đến một vấn đề do Công ước Luật biển đề cập, thì bất kỳ tranh
chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng hiệp ước hoặc Công
ước đó cũng có thể được đưa ra ITLOS theo đúng như điều đã thoả thuận.
Theo Điều 297 của Công ước Luật biển, ITLOS có thẩm
quyền giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp
dụng Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài
phán của quốc gia ven biển đối với các quyền tự do của các quốc gia khác
về hàng hải, hàng không, đặt dây cáp và ống dẫn ngầm; đối với nghiên
cứu khoa học biển; đối với các tài nguyên sinh vật thuộc vùng đặc quyền
kinh tế. Tuy nhiên, Công ước lại cho phép các quốc gia khi ký kết, phê
chuẩn hay tham gia Công ước, hoặc ở vào bất kỳ thời điểm nào sau đó, có
thể tuyên bố bằng văn bản rằng mình không chấp nhận ITLOS (hoặc các Tòa
trọng tài hay Tòa án Công lý quốc tế) có thẩm quyền giải quyết các vụ
tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng các Điều 15 (phân định lãnh
hải), 74 (phân định vùng đặc quyền kinh tế) và 83 (phân định thềm lục
địa) hay các vụ tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử. Như vậy,
nếu không có sự thỏa thuận của các quốc gia, ITLOS cũng như các Tòa khác
không thể xem xét một vụ tranh chấp nào liên quan đến chủ quyền và các
quyền khác trên một lãnh thổ đất liền hay đảo.
Ngoài thẩm quyền giải quyết các tranh chấp, ITLOS
cũng có thẩm quyền đưa ra các kết luận tư vấn. Theo Điều 138 khoản 1 của
Quy chế, Tòa có thể đưa ra kết luận tư vấn về một vấn đề pháp lý nếu
một thỏa thuận quốc tế liên quan đến mục đích của Công ước có quy định
đặc biệt về việc đệ trình lên Tòa yêu cầu có được một kết luận tư vấn
như vậy.
2. Biển Đông và ITLOS
Tranh chấp Biển Đông có thể phân loại theo những tiêu
chí khác nhau. Theo nội dung, tranh chấp có ba loại: tranh chấp chủ
quyền các đảo, tranh chấp vùng biển liên quan đến các đảo có tranh chấp
và tranh chấp phân định biển không liên quan đến chủ quyền. Theo số
lượng, các Bên tranh chấp có tranh chấp song phương giữa Việt Nam và
Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa, tranh chấp năm nước/sáu bên trên quần
đảo Trường Sa (Bruney, Malaysia, Philiipin, Trung Quốc, Việt Nam và Đài
Loan). Theo dạng tranh chấp, có các tranh chấp về hàng hải, về tài
nguyên sinh vật biển, tài nguyên không sinh vật biển (như dầu khí,
khoáng sản biển…), tranh chấp về đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, tranh chấp
về môi trường biển, về nghiên cứu khoa học biển… Tranh chấp vùng biển
lại liên quan chặt chẽ đến xác định chế độ các đảo. Giải quyết phân định
biển giữa các quốc gia sẽ khác khi đảo có lãnh hải 12 hải lý so với khi
đảo có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa riêng.
Tranh chấp Biển Đông còn phức tạp bởi lập trường
“không giống ai” của Trung Quốc. Có thể nhận thấy lập trường này có ba
sự khác biệt:
- Chính sách hai không: Trong khi luật quốc tế cũng
như Công ước Luật biển kêu gọi các Bên tranh chấp có nghĩa vụ giải quyết
hòa bình tranh chấp bằng mọi thủ tục có thể thì Bắc Kinh lại duy trì
chính sách hai không: không đa phương hóa, không quốc tế hóa, nghĩa là
sẽ không có bất kỳ một sự can thiệp nào từ Bên thứ ba, kể cả các cơ quan
tài phán quốc tế như ITLOS. Bắc Kinh cũng khăng khăng từ chối bất kỳ
môt diễn đàn đàm phán nào về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Ngay cả
Tuyên bố ASEAN – Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông cũng
được giải thích một cách kỳ cục là Tuyên bố giữa Trung Quốc với từng
nước ASEAN chứ không phải được ký với danh nghĩa ASEAN là một khối.
- Chính sách nước lớn hung hăng, đơn phương áp đặt:
Ba thí dụ có thể minh chứng cho chính sách này là: Bắc Kinh đơn phương
ra lệnh cấm đánh bắt cá trên toàn Biển Đông từ 15/5 đến 31/8 hàng năm,
đưa tàu ngư chính hiện đại xuống Biển Đông, vô cớ bắt giữ ngư dân các
nước, tiêu hủy thuyền bè, ngư cụ, đối xử phi nhân đạo với ngư dân các
nước. Hai là việc thường xuyên gây đụng độ, cắt cáp, vi phạm sâu vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ đất liền các nước ven biển. Ba là
áp đặt cả thế giới phải chấp nhận “đường lưỡi bò” đứt khúc 9 đoạn không
có một cơ sở pháp lý nào.
- Lập trường cố tình mập mờ, không rõ ràng và nhất
quán. Bắc Kinh cho rằng mình có quyền lịch sử trong “đường lưỡi bò”.
Nhưng không có bất kỳ một văn bản pháp lý quốc tế nào cho phép yêu sách
một vùng biển rộng đến vài chục lần bề rộng lãnh hải như vậy cả. Nếu lập
luận như Bắc Kinh thì mọi quốc gia trên thế giới sẽ không còn các vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Khi tuyên bố về “đường lưỡi bò”, Bắc
Kinh mỗi lần nói lại một khác. Cùng là Phái đoàn Trung Quốc tại Liên
hiệp quốc mà có tới hai Công hàm với nội dung trái ngược nhau. Công hàm
ngày 7/5/2009 đưa ra “đường lưỡi bò” và tuyên bố “chủ quyền không thể
tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo trong Biển Nam Trung Hoa và các
vùng nước kế cận, cũng như các quyền chủ quyền và tài phán đối với các
vùng nước, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của chúng”. Công hàm
ngày 14/4/2011 lại tuyên bố quần đảo Trường Sa hoàn toàn có các vùng
lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, nghĩa là có các vùng biển
theo Công ước Luật biển UNCLOS, nhưng lại nằm trong phạm vi địa lý của
“đường lưỡi bò”. Liên quan đến chế độ pháp lý các đảo, lập trường của
Trung Quốc cũng hết sức phân biệt, không nhất quán. Trong biển Hoa Đông
tranh chấp với Nhật Bản, Bắc Kinh cho rằng đảo Okino Tori Shima mà Nhật
Bản đang kiểm soát chỉ là một đá nhỏ có vùng biển 12 hải lý. Trong Biển
Đông, nơi rất nhiều các đá nhỏ tương tự hoặc bé hơn Okino Tori Shima thì
Bắc Kinh lại đòi có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Cũng
nên nhắc lại rằng, trong phân định biển, các đảo dù lớn cũng không phải
lúc nào cũng được đối xử ngang hàng, có cùng hiệu lực như lãnh thổ đất
liền. Đảo Bạch Long Vĩ trong Vịnh Bắc Bộ có dân, có đời sống kinh tế
riêng mà trong đàm phán Trung Quốc còn khăng khăng cho rằng đảo chỉ nên
có lãnh hải 12 hải lý. Kết quả cuối cùng, hai bên thống nhất một hiệu
lực hạn chế bằng khoảng 25% so với đất liền…
Các điểm khác biệt trên cho thấy tại sao Bắc Kinh lại
từ chối đề xuất của Manila. Đây không phải là lần đầu tiên Philippines
đề xuất đưa tranh chấp Trường Sa ra trước các cơ quan tài phán quốc tế
và lần nào Bắc Kinh cũng từ chối. Điều đó thật dễ hiểu vì không có một
cơ quan tài phán quốc tế nào dù là ITLOS hay ICJ lại có thể đồng tình
với Trung Quốc. Nếu Trung Quốc đồng ý đưa ra vụ việc ra trước tòa án
quốc tế là đồng nghĩa với việc họ bị tước bỏ vũ khí “cố tình làm mọi
việc không rõ ràng để trục lợi”. Bắc Kinh không thể giao quyền xét xử về
“đường lưỡi bò” cho một bên thứ ba khi họ đang rất khó khăn để chứng
minh quyền lịch sử trên cơ sở “luật pháp quốc tế đã được công nhận”. Với
thể diện nước lớn, Trung Quốc lại càng không muốn bất kỳ một Bên thứ ba
nào can thiệp giải quyết “những vấn đề của Trung Quốc” -theo lý lẽ của
họ.
Nhưng vào thời điểm hiện tại, ITLOS cũng không có
thẩm quyền xét xử vì ngoài lý do Trung Quốc từ chối thì các nước tranh
chấp Biển Đông cũng chưa có tuyên bố bằng văn bản lựa chọn ITLOS để giải
quyết các tranh chấp liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước. Vấn
đề càng khó khăn hơn vì tranh chấp biển ở Biển Đông gắn liền với vấn đề
tranh chấp chủ quyền trên đảo và theo Điều 298, ITLOS không có thẩm
quyền trong trường hợp này, trừ phi các Bên tranh chấp có thỏa thuận
khác.
Tuy nhiên, khả năng sử dụng các cơ quan tài phán quốc
tế trong đó có ITLOS không phải là không có. Vấn đề mấu chốt gắn kết
tranh chấp chủ quyền và tranh chấp biển ở Biển Đông chính là Điều 121.3
về chế độ pháp lý của đảo. Các đảo đá Hoàng Sa, Trường Sa có phải là
các đảo đá có đời sống kinh tế riêng hoặc thích hợp cho con người đến ở
không? Chúng có thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng
không? Đảo nào có thể đáp ứng các yêu cầu của Điều 121.3? Một yêu cầu
xuất phát từ Philippines, được sự ủng hộ của Việt Nam/hoặc Malaysia/hoặc
Brunei/hoặc tất cả các nước có tranh chấp cho ITLOS, yêu cầu giải thích
Điều 121.3 và khả năng áp dụng ở Biển Đông là hoàn toàn có thể. Liệu
lúc đó Bắc Kinh sẽ đứng ngoài cuộc hay sẽ phải tham gia quá trình trên
cơ sở Điều 31 Quy chế của ITLOS: Trong một vụ tranh chấp, khi một quốc
gia thành viên cho rằng một quyền lợi có tính chất pháp lý của mình bị
đụng chạm, thì có thể gửi lên cho Toà án một đơn thỉnh cầu để yêu cầu
xin tham gia. Nếu Toà án chấp nhận đơn thỉnh cầu, thì quyết định liên
quan đến vụ tranh chấp có tính chất bắt buộc đối với quốc gia xin tham
gia trong phạm vi mà quyết định này có quan hệ đến các điểm là nội dung
của việc tham gia.
Cũng không có gì ngăn cản khi các nước ASEAN hay chí
ít các nước tranh chấp có một thỏa thuận quốc tế vì hòa bình, ổn định ở
Biển Đông, phù hợp với các mục đích của Công ước của Liên hiệp quốc về
Luật biển năm 1982, yêu cầu ITLOS cho ý kiến tư vấn về chế độ pháp lý
của các đảo đá ở quần đảo Trường Sa hay việc áp dụng Điều 121.3 của Công
ước vào quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng khả năng sử dụng các cơ
quan tài phán quốc tế như ITLOS phụ thuộc vào thiện chí của các Bên
tranh chấp, vào tuyên bố bằng văn bản hay thỏa thuận của các Bên chấp
nhận thẩm quyền của ITLOS và vào câu hỏi đặt ra cho ITLOS.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
0 comments:
Post a Comment