PHỤ BẢN 2: HIẾN PHÁP VIỆT NAM CỘNG HÒA NGÀY 26-10-1956
MỞ ĐẦU
Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt
của Quốc gia và Dân tộc Việt Nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của Tổ
tiên và ý chí quật cường của toàn dân bảo đảm;
Tin tưởng ở sự trưởng tồn của nền văn minh Việt Nam, căn cứ trên nền tảng duy linh mà toàn dân đều có nhiệm vụ phát huy;
Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con
người mà sự phát triển tự do, điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân
cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi hoạt động Quốc
gia;
Chúng tôi, Dân biểu Quốc hội Lập hiến:
Ý thức rằng Hiến pháp phải thể hiện nguyện vọng của nhân dân, từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan;
Nguyện vọng ấy là:
- Củng cố Độc lập chống mọi hình thức xâm lăng thống trị;
- Bảo vệ Tự do cho mỗi người và cho Dân tộc;
- Xây dựng Dân Chủ về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa cho toàn dân trong sự tôn trọng nhân vị;
Ý thức rằng quyền hưởng tự do chỉ được
bảo toàn khi năng lực phục tùng lí trí và đạo đức, khi nền an ninh tập
thể được bảo vệ và những quyền chính đáng của con người được tôn trọng;
Ý thức rằng nước ta ở trên con đường
giao thông và di dân Quốc tế, dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu
tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hóa và trước Nhân
loại là xây dựng một nền văn minh nhân bản bảo vệ và phát triển con
người toàn diện;
Sau khi thảo luận, chấp thuận Bản Hiến pháp sau đây:
THIÊN THỨ NHẤT: ĐIỀU KHOẢN CĂN BẢN
Điều 1 – Việt Nam là một nước Cộng hòa, Độc lập, Thống nhất lãnh thổ bất phân.
Điều 2 – Chủ quyền thuộc về toàn dân.
Điều 3 – Quốc dân ủy nhiệm vụ Hành pháp cho Tổng thống dân cử, và nhiệm vụ Lập pháp cho Quốc hội cũng do dân cử.
Sự phân nhiệm giữa Hành pháp và Lập pháp phải rõ rệt. Hoạt động của các cơ quan Hành pháp và Lập pháp phải được điều hòa.
Tổng thống lãnh đạo Quốc dân.
Điều 4 – Hành pháp, Lập
pháp, Tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ Tự do, Dân chủ, chính thể Cộng Hòa và
trật tự công cộng. Tư pháp phải có một quy chế bảo đảm tánh cách độc
lập.
Điều 5 – Mọi người dân
không phân biệt nam, nữ sinh ra bình đẳng về phẩm cách, quyền lợi và
nhiệm vụ, và phải đối xử với nhau theo tinh thần tương thân tương trợ.
Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản con người trong cương vị cá nhân, hay trong cương vị tập thể.
Quốc gia cố gắng tạo cho mọi người những
cơ hội đồng đều và những điều kiện cần thiết để thụ hưởng quyền lợi và
thực hành nhiệm vụ.
Quốc gia tán trợ sự khuếch trương kinh tế, phát huy văn hóa, khai triển khoa học và kĩ thuật.
Điều 6 – Người dân có
những nhiệm vụ đối với Tổ quốc, với đồng bào, mục đích để thực hiện sự
phát triển điều hòa và đầy đủ nhân cách của mọi người.
Điều 7 – Những hành vi
có mục đích là để thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa
cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với các nguyên tắc trong Hiến pháp.
Điều 8 – Nước Việt Nam
Cộng hòa chấp nhận những nguyên tắc quốc tế pháp không trái với sự thực
hiện chủ quyền Quốc gia và sự bình đẳng giữa các dân tộc.
Quốc gia cố gắng góp phần xây dựng và
bảo vệ nền an ninh và hòa bình quốc tế cùng duy trì và phát triển sự
liên lạc thân hữu giữa các dân tộc trên căn bản tự do và bình đẳng.
THIÊN THỨ HAI: QUYỀN HẠN VÀ NHIỆM VỤ CÔNG DÂN
Điều 9 – Mọi người dân đều có quyền sinh sống, tự do và an toàn.
Điều 10 – Không ai có thể bị bắt bớ, giam giữ, tù đầy một cách trái phép.
Trừ trường hợp phạm pháp quả tang, chỉ
có thể bắt giam khi có câu phiếu của cơ quan có thẩm quyền, trong trường
hợp và theo hình thức luật định. Theo thể thức luật định, các bị can về
tội đại hình hoặc tiểu hình có quyền lựa chọn hoặc yêu cầu chỉ định
người biện minh cho mình.
Điều 11- Không ai có thể bị tra tấn hoặc chịu những hình phạt hay những cách đối xử tàn bạo, bất nhân hoặc làm mất phẩm cách.
Điều 12 – Đời tư, gia đình, nhà cửa, phẩm giá và thanh danh của mọi người dân phải được tôn trọng.
Tánh cách riêng tư của thư tín không thể
bị xâm phạm, trừ khi có lệnh của Tòa án hoặc khi cần bảo vệ an ninh
công cộng hay duy trì trật tự chung.
Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những sự can dự hoặc xâm phạm trái phép.
Điều 13 – Mọi người dân
có quyền tự do đi lại và cư ngụ trên lãnh thổ Quốc gia, ngoại trừ
trường hợp luật pháp ngăn cấm vì duyên cớ vệ sinh hay an ninh công cộng.
Mọi người dân có quyền tự do xuất ngoại,
trừ trường hợp luật pháp hạn chế vì lí do an ninh quốc phòng, kinh tế,
tài chính hay lợi ích công cộng.
Điều 14 – Mọi người dân đều có quyền và có bổn phận làm việc.
Việc làm như nhau, tiền công bằng nhau.
Người làm việc có quyền hưởng thù lao xứng đáng đủ để bảo đảm và cho gia đình một đời sống hợp với nhân phẩm.
Điều 15 – Mọi người dân đều có quyền tự do tín ngưỡng, và trong khuôn khổ luật định, có quyền tự do hội họp và lập hội.
Điều 16 – Mọi người dân
có quyền tự do ngôn luận. Quyền này không được dùng để vu cáo, phỉ
báng; xâm phạm đến nền đạo lí công cộng, hô hào nổi loạn, hoặc lật đổ
chính thể Cộng hòa.
Mọi người dân đều được hưởng quyền tự do
báo chí để thành một dư luận xác thực và xây dựng, mà Quốc gia có nhiệm
vụ bảo vệ chống lại mọi hành vi xuyên tạc sự thực.
Điều 17 – Mọi người dân
đều có quyền tự do tín ngưỡng; tự do hành giáo và tự do truyền giáo,
miễn là sử dụng quyền ấy không trái với luân lí và thuần phong mỹ tục.
Điều 18 – Theo thể thức
và điều luật định, mọi người dân đều có quyền bầu cử, ứng cử, tham gia
điều khiển việc công hoặc trực tiếp, hoặc do những đại diện của mình.
Điều 19 – Mọi người dân đều có quyền tham gia công vụ tùy theo năng lực trên căn bản bình đẳng.
Điều 20 – Quốc gia công
nhận và bảo đảm quyền tư hữu. Luật pháp ấn định thể thức thủ đắc và
hưởng thụ để ai ai cũng có thể trở thành sở hữu chủ và để bảo đảm cho
con người đời sống xứng đáng và tự do, đồng thời xây dựng nền thịnh
vượng xã hội.
Trong những trường hợp luật định và với điều kiện có bồi thường, Quốc gia có thể trưng thu tài sản vì công ích.
Điều 21 – Quốc gia tán trợ việc nhân dân sử dụng của để dành để thủ đắc nhà ở, ruộng cày và cổ phần trong các xí nghiệp.
Điều 22 – Mọi người dân
đều có quyền tổ chức những hợp tác kinh tế miễn là không có mục đích
độc chiếm trái phép để đầu cơ và thao túng kinh tế.
Quốc gia khuyến khích và tán trợ sự hợp tác có tính cách tương trợ và không có mục đích đầu cơ.
Quốc gia không thừa nhận chế độ độc
quyền kinh doanh hoặc độc chiếm, ngoại trừ những trường hợp luật định vì
nhu cầu Quốc phòng, an ninh hay vì sự lợi ích công cộng
Điều 23 – Quyền tự do nghiệp đoàn và quyền đình công được công nhận và sử dụng theo thể thức và điều kiện luật định.
Công chức không có quyền đình công.
Quyền đình công không được thừa nhận đối
với nhân viên và công nhân trong các ngành hoạt động liên quan đến quốc
phòng, an ninh công cộng hoặc các nhu cầu cần thiết của đời sống tập
thể.
Một đạo luật sẽ ấn định những ngành hoạt
động kể trên và đảm bảo cho nhân viên và công nhân các ngành này một
quy chế đặc biệt, mục đích là để bảo vệ quyền lợi các nhân viên và công
nhân trong các ngành ấy.
Điều 24 – Trong giới
hạn của khả năng và sự phát triển kinh tế, Quốc gia sẽ ấn định những
biện pháp cứu trợ hữu hiệu trong các trường hợp thất nghiệp, già yếu,
bịnh tật, thiên tai hoặc những cảnh hoạn nạn khác.
Điều 25 – Quốc gia công
nhận gia đình là nền tảng của xã hội. Quốc gia khuyến khích, nâng đỡ sự
thành lập gia đình, sự thực hiện sứ mạng gia đình, nhất là trong sự
thai nghén, sinh đẻ, dưỡng dục hài nhi.
Quốc gia tán trợ thuần nhất của gia đình.
Điều 26 – Quốc gia cố gắng cho mọi người dân một nền giáo dục cơ bản có tính cách bắt buộc và miễn phí.
Mọi người dân có quyền theo đuổi học vấn.
Những người có khả năng mà không có phương tiện riêng, sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn.
Quốc gia thừa nhận phụ huynh có quyền
chọn trường cho con em, các đoàn thể và tư nhân có quyền mở trường theo
điều kiện luật định.
Quốc gia có thể công nhận các trường tư
thục, đại học và cao đẳng chuyên nghiệp hội đủ điều kiện luật định. Văn
bằng do những trường ấy cấp phát có thể được Quốc gia thừa nhận.
Điều 27 – Mọi người dân
đều có quyền tham gia hoạt động văn hóa và khoa học, cùng hưởng thụ
nghệ thuật và lợi ích của những tiến bộ kĩ thuật.
Tác giả được pháp luật bảo vệ những
quyền lợi tinh thần và vật chất liên quan tới mọi phát minh khoa học,
sáng tác văn chương hoặc nghệ thuật.
Điều 28 – Quyền của mỗi người dân được sử dụng theo những thể thức và điều kiện luật định.
Quyền của mỗi người dân chỉ chịu những
sự hạn chế do luật định để tôn trọng quyền của những người khác cùng là
thỏa mãn những đòi hỏi đích đáng của sự an toàn chung, nền đạo lí, trật
tự công cộng, quốc phòng.
Ai lạm dụng các quyền được công nhận
trong Hiến pháp để phá hoại chính thể Cộng hòa, chế độ Dân chủ, Tự do và
nền Độc lập, Thống nhất Quốc gia sẽ bị truất quyền.
Điều 29 – Mọi người dân đều có nhiệm vụ tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp và Luật pháp.
Mọi người dân đều có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, chính thể Cộng hòa, nền Tự do, Dân chủ.
Ai ai cũng phải làm tròn nhiệm vụ quân dịch theo thể thức và trong giới hạn luật định.
Mọi người dân đều có nhiệm vụ góp phần vào sự chi tiêu công cộng tùy theo khả năng đóng góp của mình.
THIÊN THỨ BA: TỔNG THỐNG
Điều 30 – Tổng thống
được bầu theo lối đầu phiếu phổ thông trực tiếp và kín, trong một cuộc
tuyển cử mà cử tri toàn quốc được tham gia. Một đạo luật sẽ quy định thể
thức bầu cử Tổng thống.
Phó Tổng thống được bầu một lần với Tổng thống chung một danh sách.
Điều 31 – Có quyền ứng cử Tổng thống và Phó Tổng thống những công dân hội đủ các điều kiện sau đây:
1) Sinh trên lãnh thổ Việt Nam và có
Quốc tịch Việt Nam liên tục từ khi mới sinh (nguyên văn: “mới xin”),
hoặc đã hồi phục Việt tịch trước ngày ban hành Hiến pháp;
2) Cư ngụ trên lãnh thổ Quốc gia một cách liên tục hay không trong một thời gian ít nhất 15 năm;
3) Đủ 40 tuổi;
4) Hưởng các quyền công dân.
Chức vụ Tổng thống và Phó Tổng thống
không thể kiêm nhiệm với bất cứ một hoạt động nào trong lãnh vực tư dù
có thù lao hay không.
Điều 32 – Nhiệm kì Tổng thống và Phó Tổng thống là năm năm. Tổng thống và Phó Tổng thống có thể được tái cử hai lần.
Điều 33 – Nhiệm kì Tổng
thống và Phó Tổng thống chấm dứt đúng 12 giờ trưa cuối cùng tháng thứ
sáu mươi kể từ ngày tựu chức và nhiệm kì của Tân Tổng thống và Tân Phó
Tổng thống bắt đầu từ lúc ấy.
Nhiệm vụ Tổng thống và Phó Tổng thống có thể chấm dứt trước kỳ hạn, trong những trường hợp sau đây:
1) Mệnh chung;
2) Vì bịnh tật trầm trọng và kéo dài,
không còn năng lực để chấp chưởng quyền hành và làm tròn nhiệm vụ. Sự
mất năng lực này phải được Quốc hội xác nhận với đa số 4/5 tổng số Dân
biểu sau các cuộc giám định và phản giám định y khoa;
3) Từ chức, và sự từ chức này phải được thông đạt cho Quốc hội;
4) Bị truất quyền do quyết định của Đặc biệt Pháp viện chiếu điều 81.
Điều 34 – Cuộc bầu cử
Tân Tổng thống và Tân Phó Tổng thống sẽ cử hành vào ngày chủ nhật ba
tuần lễ trước khi nhiệm kì của Tổng thống tại chức chấm dứt.
Trong trường hợp nhiệm vụ Tổng thống chấm dứt trước kỳ hạn Phó Tổng thống sẽ đảm nhiệm chức vụ Tổng thống cho đến hết nhiệm kì.
Trong trường hợp dự liệu ở đoạn trên,
nếu không có Phó Tổng thống, hoặc nếu Phó Tổng thống vì một lí do gì,
không thể đảm đương nhiệm vụ, Chủ tịch Quốc hội tạm thời đảm nhiệm chức
vụ Tổng thống để xử lí thường vụ và tổ chức cuộc bầu cử Tân Tổng thống
và Tân Phó Tổng thống trong thời hạn tối đa hai tháng. Trong trường hợp
này, đệ nhất Phó Chủ tịch Quốc hội quyền nhiếp chức vụ Chủ tịch Quốc
hội.
Điều 35 – Tổng thống kí kết và sau khi được Quốc hội chấp thuận, phê chuẩn các điều ước và hiệp định quốc tế.
Tổng thống bổ nhiệm các sứ thần, tiếp
nhận ủy nhiệm thư của các đại diện ngoại giao, thay mặt quốc gia trong
việc giao thiệp với ngoại quốc.
Điều 36 – Với sự thỏa thuận của một nửa tổng số Dân biểu Quốc hội, Tổng thống tuyên chiến hoặc phê chuẩn hòa ước.
Điều 37 – Tổng thống bổ
nhiệm và cách chức tất cả các công chức dân sự và quân sự theo thủ tục
luật định, ngoại trừ những trường hợp mà Hiến pháp ấn định một thủ tục
đặc biệt.
Tổng thống là Tổng Tư lệnh tối cao của các lực lượng quân sự. Tổng thống ban các loại huy chương.
Tổng thống sử dụng quyền ân xá, ân giảm, hoán cải hình phạt và huyền án.
Điều 38 – Trong trường
hợp chiến tranh hoặc nội loạn, những chức vụ dân cử định trong Hiến pháp
sẽ đương nhiên được gia hạn khi mãn nhiệm kì.
Trong trường hợp một đơn vị bầu cử bị
đặt trong tình trạng khẩn cấp, báo động hoặc giới nghiêm, Tổng thống có
thể gia hạn nhiệm kì dân biểu đơn vị ấy.
Tuy nhiên cuộc bầu cử toàn bộ hay cục bộ
phải được tổ chức chậm nhất là sáu tháng sau khi những tình trạng đặc
biệt kể ở hai đoạn trên chấm dứt.
Điều 39 – Tổng thống tiếp xúc với Quốc hội bằng Thông điệp.
Tổng thống có thể dự các phiên họp Quốc hội tuyên bố trước Quốc hội.
Mỗi năm vào đầu khóa họp thường lệ thứ
nhì và mỗi khi thấy cần, Tổng thống thông báo cho Quốc hội biết tình
hình Quốc gia và chính sách đối nội, đối ngoại của Chính phủ.
Điều 40 – Với sự thỏa
thuận của Quốc hội, Tổng thống có thể tổ chức trưng cầu dân ý. Kết quả
cuộc trưng cầu dân ý phải được Tổng thống và Quốc hội tôn trọng.
Điều 41 – Giữa hai khóa
họp Quốc hội, Tổng thống vì lí do khẩn cấp có thể kí sắc luật. Các loại
sắc luật này phải được chuyển đến Văn phòng Quốc hội ngay sau khi ấy.
Trong khóa họp thường lệ tiếp cận nếu Quốc hội không bác bỏ các sắc luật ấy sẽ được coi hẳn như những đạo luật.
Điều 42 – Trong tình
trạng khẩn cấp, chiến tranh, nội loạn khủng hoảng kinh tế hoặc tài
chính, Quốc hội có thể biểu quyết một đạo luật ủy cho Tổng thống trong
một thời gian, với những hạn định rõ, quyền kí sắc luật để thực hiện
chánh sách mà Quốc hội ấn định, trong đạo luật ủy quyền. Các sắc luật
phải được chuyển đến Văn phòng Quốc hội ngay sau khi kí, 30 ngày sau khi
mãn thời hạn đã ấn định trong đạo luật ủy quyền, nếu Quốc hội không bác
bỏ, các sắc luật ấy sẽ được coi hẳn như những đạo luật.
Điều 43 – Trong trường
hợp ngân sách không được Quốc hội chung quyết trong thời hạn ấn định ở
điều 60, Tổng thống có thể kí luật ngân sách cho tài khóa sau.
Mỗi tam cá nguyệt, Tổng thống có thể thi
hành một phần tư của ngân sách cho đến khi Quốc hội chung quyết xong
đạo luật ngân sách.
Trong đạo luật ngân sách, Quốc hội phải
giải quyết các hậu quả gây nên do việc bác bỏ hoặc sửa đổi những điều
khoản của sắc luật ngân sách.
Điều 44 – Tổng thống có
thể kí sắc lệnh tuyên bố tình trạng khẩn cấp, báo động hoặc giới nghiêm
trong một hay nhiều vùng; các sắc lệnh này có thể tạm đình chỉ sự áp
dụng một hoặc nhiều đạo luật tại những vùng đó.
Điều 45 – Khi nhậm chức, Tổng thống tuyên thệ như sau: Tôi long trọng tuyên thệ
- Tận lực cố gắng làm tròn nhiệm vụ Tổng thống;
- Tôn trọng giữ gìn và bảo vệ Hiến pháp;
- Trung thành phụng sự Tổ quốc và hết lòng phục vụ lợi ích công cộng.
Điều 46 – Tổng thống có
Phó Tổng thống, các Bộ trưởng và Thứ Trưởng phụ tá. Các Bộ trưởng do
Tổng thống bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước Tổng thống.
Điều 47 – Các Bộ trưởng
và Thứ trưởng có thể hội kiến với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Quốc hội và
các Chủ tịch Ủy ban để giải thích về các vấn đề liên hệ với Lập pháp.
Điều 48 mới – Để điều
hòa hoạt động của các cơ quan Hành pháp và Lập pháp, các Bộ trưởng, Thứ
Trưởng, có thể hội kiến với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Quốc hội và Chủ tịch
Ủy ban để giải thích về các vấn đề liên hệ với Lập pháp.
Ủy ban có thể yêu cầu mỗi Bộ trưởng, Thứ
trưởng đến tại phiên họp Ủy ban để giải thích về các vấn đề liên hệ với
Lập pháp, một tháng một lần, mỗi lần không quá nửa giờ, trừ khi Bộ
trưởng, Thứ trưởng ấy muốn gia tăng thời gian giải thích. Lời yêu cầu
giải thích có ghi rõ các vấn đề được đem ra cứu xét phải được gởi đến Bộ
sở quan ít nhất mười ngày trước phiên họp của Ủy ban. Thời gian này có
thể rút ngắn xuống ba ngày trong trường hợp khẩn cấp hay đặc biệt mà Văn
phòng Quốc hội xác nhận.
Văn phòng Quốc hội do sự đề nghị của Ủy
ban hay tự mình có thể yêu cầu mỗi Bộ trưởng, Thứ trưởng đến tại phiên
họp của Quốc hội để giải thích các vấn đề liên hệ với Lập pháp, một
tháng một lần. Trong trường hợp đặc biệt, ngoài các phiên định kỳ trên
đây, Bộ trưởng, Thứ trưởng chỉ có thể đến giải thích tại phiên họp của
Quốc hội nếu có sự chấp thuận của Tổng thống.
Văn phòng Quốc hội sẽ cử Dân biểu để đặt
vấn đề cần được giải thích. Lời yêu cầu của Văn phòng Quốc hội có ghi
rõ vấn đề này phải được chuyển đến Bộ sở quan ít nhất hai tuần trước
phiên họp của Quốc hội.
Đối với mỗi Bộ trưởng, Thứ trưởng, thời
gian giải thích tại Quốc hội không quá một giờ, trừ phi Bộ trưởng, Thứ
trưởng muốn gia tăng thời gian ấy.
Trong các khóa họp của Quốc hội, các Bộ
trưởng, Thứ trưởng với sự chấp thuận của Tổng thống, có thể tự mình đến
trình bày về các vấn đề liên hệ với Lập pháp tại phiên họp của Ủy ban
hay phiên họp của Quốc hội. Trong trường hợp này. Văn phòng Quốc hội sẽ
triệu tập Ủy ban họp Quốc hội theo lời yêu cầu của Bộ trưởng, Thứ trưởng
trong thời hạn tối đa là một tuần.
Trong khuôn khổ Tổng thống Chế do Hiến
pháp ấn định, việc đặt vấn đề và sự giải thích nói trong điều này không
thể có tính cách chất vấn và không kết thúc bằng sự biểu quyết tại Ủy
ban cũng như tại Quốc hội.
Vì lí do an ninh và quốc phòng, Tổng
thống có thể không chấp thuận cho Bộ trưởng hay Thứ Trưởng giải thích
một hay nhiều vấn đề tại Ủy ban hay tại Quốc hội hoặc chỉ chấp thuận cho
giải thích tại phiên họp kín của Quốc hội.
THIÊN THỨ TƯ: QUỐC HỘI
CHƯƠNG MỘT: DÂN BIỂU
Điều 48 – Đạo luật tuyển cử ấn định số Dân biểu Quốc hội và các đơn vị bầu cử.
Điều 49 – Dân biểu được
bầu cử theo lối đầu phiếu phổ thông trực tiếp và kín, theo những thể
thức và điều kiện do đạo luật tuyển cử quy định.
Điều 50 – Có quyền ứng cử Dân biểu những người:
1) Có quốc tịch Việt Nam liên tục từ khi
mới sinh, hoặc đã nhập Việt tịch ít nhất năm năm, hoặc đã hồi phục Việt
tịch ít nhất ba năm, trừ những người đã hội phục Việt tịch trước ngày
ban hành Hiến pháp;
2) Hưởng các quyền công dân;
3) Đủ 25 tuổi tới ngày đầu phiếu;
4) Hội đủ các điều kiện khác dự liệu trong đạo luật tuyển cử.
Tuy nhiên trong trường hợp đặc biệt,
những người nhập Việt tịch có công trạng với Tổ quốc hoặc những người
hồi phục Việt tịch có thể được Tổng thống kí sắc lệnh giảm thời hạn năm
hoặc ba năm ghi tên.
Điều 51 – Nhiệm kì Dân biểu là ba năm. Các Dân biểu có thể được tái cử.
Cuộc bầu cử Quốc hội mới sẽ cử hành một tháng trước khi pháp nhiệm chấm dứt.
Luật Hiến pháp số 1/62-HO ngày 8-7-1962 sửa đổi điều 51 khoản 1 Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa, nguyên văn như sau:
Điều 1 – Điều 51 khoản 1 Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa được sửa đổi như sau:
Điều 51 khoản 1 (mới) – Nhiệm kì Dân biểu là 4 năm.
Điều 52 – Khi một Dân
Biểu từ chức, mệnh chung, hoặc chấm dứt nhiệm vụ vì bất cứ một nguyên
nhân nào, cuộc bầu cử Dân biểu thay thế sẽ được cử hành trong hạn ba
tháng.
Sẽ không bầu Dân biểu thay thế, nếu sự khống khuyết xẩy ra không đầy sáu tháng trước khi mãn pháp nhiệm.
Điều 53 – Nhiệm vụ Dân
biểu không thể kiêm nhiệm với một công vụ được trả lương hay một nhiệm
vụ dân cử khác. Công chức đắc cử phải nghỉ giả hạn, Quân nhân đắc cử
phải giải ngũ.
Nhiệm vụ Dân biểu không thể kiêm nhiệm với những chức vụ Bộ trưởng và Thứ trưởng.
Tuy nhiên, Dân biểu có thể đảm nhận
những công vụ đặc biệt liên tục không quá (12) mười hai tháng và thời
gian đảm nhận công vụ tổng cộng không quá nửa thời kỳ pháp nhiệm. Trong
thời gian đảm nhận công vụ, Dân biểu không có quyền thảo luận và biểu
quyết tại Quốc hội hoặc tại các Ủy ban của Quốc hội.
Dân biểu có thể phụ trách giảng huấn tại các trường cấp bậc đại học và kĩ thuật cao đẳng.
Trong bất kỳ trường hợp nào, Dân biểu không thể tham dự những cuộc đấu thầu hoặc kí hợp đồng với các cơ quan chính quyền.
Điều 54 – Không thể
truy tố, tầm nã bắt giam hay kết án một Dân biểu vì những lời nói hoặc
vì những sự biểu quyết tại Quốc hội hoặc tại các Ủy ban Quốc hội.
Ngoại trừ trường hợp phản quốc, xâm phạm
an ninh Quốc gia, hoặc đường trường phạm pháp, không thể truy tố, tầm
nã, bắt giam hay xét xử một Dân biểu trong suốt thời gian các khóa họp
Quốc hội, kể cả thời gian đi họp và họp về.
CHƯƠNG HAI: QUYỀN HÀNH CỦA QUỐC HỘI
Điều 55 – Quốc hội biểu quyết các đạo luật, Quốc hội chấp thuận các điều ước và các hiệp định quốc tế.
CHƯƠNG BA: THỦ TỤC LẬP PHÁP
Điều 56 – Dân biểu có thể đưa ra Quốc hội xét các dự án luật, Tổng thống có thể đưa ra Quốc hội xét các dự thảo luật:
Điều 57 – Các dự án và dự thảo luật được Quốc hội chấp thuận sẽ chuyển đến Tổng thống trong thời hạn bảy ngày tròn.
Tổng thống phải ban hành các đạo luật
trong thời hạn ba mươi ngày tròn kể từ ngày tiếp nhận. Trong trường hợp
khẩn cấp do Quốc hội tuyên bố, thời hạn ban hành sẽ rút ngắn còn bảy
ngày tròn.
Điều 58 – Trong thời
hạn ban hành, Tổng thống có thể gởi Thông điệp viện dẫn lí do để yêu cầu
Quốc hội phúc nghị một hay nhiều điều khoản đã được chấp thuận.
Khi phúc nghị, nếu Quốc hội không đồng ý
sửa đổi theo Thông điệp Tổng thống thì Quốc hội sẽ chung quyết bằng một
cuộc minh danh đầu phiếu với đa số ba phần tư tổng số Dân biểu Quốc
hội.
Điều 59 – Trong thời
hạn ấn định ở điều 57 nếu Tổng thống không ban hành hoặc không chuyển
hoàn bản văn mà Quốc hội đã thông qua bản văn ấy sẽ đương nhiên thành
luật.
Điều 60 – Dự thảo ngân
sách phải gởi tới Văn phòng Quốc hội trước ngày ba mươi tháng chín. Ngân
sách phải được chung quyết trước ngày mười một tháng chạp.
Điều 61 – Dân biểu có quyền đề khởi các khoản chi mới nhưng đồng thời phải đề nghị các khoản thu tương đương.
CHƯƠNG THỨ TƯ: ĐIỀU HÀNH QUỐC HỘI
Điều 62 – Quốc hội nhóm họp những khóa thường lệ hoặc bất thường.
Điều 63 – Hàng năm có
hai khóa họp thường lệ: một khóa đương nhiên bắt đầu ngày thứ hai đầu
tiên trong tháng tư dương lịch và một khóa đương nhiên bắt đầu ngày thứ
hai đầu tiên trong tháng mười dương lịch. Mỗi khóa họp thường lệ không
lâu quá ba tháng.
Điều 64 – Quốc hội phải
được triệu tập nhóm họp các khóa bất thường nếu có sự yêu cầu của Tổng
thống hoặc quá nửa tổng số Dân biểu Quốc hội.
Trong trường hợp Tổng thống yêu cầu triệu tập, nghị trình khóa họp bất thường do Tổng thống ấn định.
Trong trường hợp Dân biểu yêu cầu triệu tập, nghị trình khóa họp bất thường do Văn phòng Quốc hội ấn định.
Thời gian mỗi khóa họp bất thường của Quốc hội không được quá ba mười ngày.
Điều 65 – Quốc hội nhóm họp công khai. Tuy nhiên Quốc hội họp kín, nếu quá nửa số Dân biểu hiện diện hoặc Tổng thống yêu cầu.
Các bản tường thuật y nguyên cuộc thảo luận và các tài liệu xuất trình tại Quốc hội sẽ được đăng trong Công báo, ngoại trừ trường hợp Quốc hội họp kín.
Điều 66 – Để kiểm soát
tánh cách hợp thức cuộc bầu cử các Dân biểu, Quốc hội sẽ chỉ định một Ủy
ban Kiểm soát để phụ trách việc phúc trình về vấn đề này.
Quốc hội có trọn quyền định đoạt.
Điều 67 – Quốc hội bầu Văn phòng gồm có Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch, 1 Tổng Thư kí, 3 Phó Tổng thư kí, và một số nhân viên cần thiết.
Quốc hội chỉ định các Ủy ban.
Điều 68 – Quốc hội ấn định nội quy, nhất là các vấn đề sau:
- Tổ chức nội bộ Quốc hội và Văn phòng;
- Thủ tục Quốc hội và quyền hạn Văn phòng;
- Kỉ luật trong Quốc hội và các sự chế tài về kỉ luật;
- Thành phần và quyền hạn các Ủy ban.
Điều 69 – Một dự án hoặc dự thảo luật được Quốc hội chấp thuận chỉ có giá trị nếu hội đủ đa số một phần ba tổng số Dân biểu.
THIÊN THỨ NĂM: THẨM PHÁN
Điều 70 – Để thi hành
nhiệm vụ ấn định ở điều 4. Tư pháp được tổ chức theo nguyên tắc bình
đẳng của mọi người trước pháp luật và nguyên tắc độc lập của Thẩm phán
xử án.
Điều 71 – Thẩm phán xử án quyết định theo lương tâm mình, trong sự tôn trọng luật pháp và quyền lợi Quốc gia.
Điều 72 – Dưới sự kiểm
soát của Bộ Tư pháp, Thẩm phán công tố trông coi và theo dõi sự áp dụng
luật pháp, sự tôn trọng đạo lí và trật tự công cộng.
Điều 73 – Sẽ thiết lập
một Thượng Hội đồng Thẩm phán có nhiệm vụ góp phần trông coi sự áp dụng
quy chế Thẩm phán xử án, Tổ chức, điều hành và quyền hạn của Thượng Hội
đồng sẽ do luật định.
THIÊN THỨ SÁU: ĐẶC BIỆT PHÁP VIỆN
Điều 74 – Đặc biệt Pháp
viện là một Tòa án đặc biệt có thẩm quyền xét xử Tổng thống, Phó Tổng
thống, Chánh án và Chủ tịch Viện Bảo hiến, trong trường hợp can tội phản
quốc và các trọng tội.
Điều 75 – Đặc biệt Pháp viện gồm có:
- Chánh án Tòa Phá án… Chánh án;
- Mười lăm Dân biểu;
- Do Quốc hội bầu ra mỗi nhiệm kì… Hội thẩm.
Khi Chánh án Tòa Phá án là bị can, Chủ tịch Viện Bảo hiến sẽ ngồi ghế Chánh án.
Điều 76 – Ban điều tra của Đặc biệt Pháp viện gồm năm Dân biểu do Quốc hội bầu ra mỗi nhiệm kì.
Điều 77 – Sự khởi tố theo các điều sau:
a) Phải có một bản đề nghị viện dẫn lí
do, được ba phần năm tổng số Dân biểu Quốc hội kí tên, nạp tại Văn phòng
Quốc hội mười lăm ngày trước khi thảo luận;
b) Đề nghị đó phải được hai phần ba tổng số Dân biểu Quốc hội chấp thuận;
c) Các Dân biểu trong Đặc biệt Pháp viện và trong Ban Điều tra không được quyền đề nghị khởi tố và biểu quyết về đề nghị này.
Điều 78 – Nhiệm vụ của
đương sự bị đình chỉ từ khi Quốc hội biểu quyết truy tố đến khi Đặc biệt
Pháp viện phán quyết. Trong thời gian này sự quyền nhiếp sẽ theo thể
thức định ở điều 34, đoạn 2 và 3.
Điều 79 – Ban điều tra
có quyền đòi hỏi nhân chứng và đòi các cơ quan liên hệ xuất trình trong
thời gian hai tháng trừ khi được Đặc biệt Pháp viện triển hạn một tháng
nữa.
Điều 80 – Đặc biệt Pháp viện họp để nghe Ban Điều tra và đương sự trình bày và phán quyết theo đa số ba phần tư tổng số nhân viên.
Điều 81 – Nếu xét đương sự phạm sự phạm tội, Đặc biệt Pháp viện sẽ tuyên bố truất quyền. Phán quyết này có hiệu lực ngay.
THIÊN THỨ BẢY: HỘI ĐỒNG KINH TẾ QUỐC GIA
Điều 82 – Hội đồng Kinh tế Quốc gia có nhiệm vụ trình bày sáng kiến và phát biểu ý kiến về các dự thảo, dự án kinh tế.
Hội viên Hội đồng Kinh tế Quốc gia được
lựa chọn trong các nghiệp đoàn và các ngành hoạt động kinh tế (nguyên
văn: “hoạt động kinh”), tổ chức hoạt động xã hội liên hệ với kinh tế và
các nhà kinh tế học.
Chức vụ Hội viên Hội đồng Kinh tế Quốc gia, không thể kiêm nhiệm với nhiệm vụ Dân biểu Quốc hội.
Điều 83 – Phó Tổng thống là Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Quốc gia.
Điều 84 – Một đạo luật sẽ ấn định cách tổ chức và điều hành của Hội đồng Kinh tế Quốc gia.
THIÊN THỨ TÁM: VIỆN BẢO HIẾN
Điều 85 – Viện Bảo hiến phán quyết về tính cách hợp hiến của các đạo luật, sắc luật và quy tắc hành chính.
Điều 86 – Viện Bảo hiến, về mỗi nhiệm kì Quốc hội gồm có:
- Một Chủ tịch do Tổng thống cử với thỏa hiệp của Quốc hội;
- 4 Thẩm phán cao cấp hay luật gia do Tổng thống cử;
- Dân biểu do Quốc hội cử.
Điều 87 – Viện Bảo hiến
thụ lí các đơn xin phán quyết về tánh cách hợp hiến của các đạo luật,
sắc luật và quy tắc hành chính do các Tòa án nạp trình.
Phán quyết của Viện Bảo hiến có hiệu lực
đình chỉ sự thi hành các điều khoản bất hợp hiến kể từ ngày phán quyết
ấy được đăng trong Công báo.
Điều 88 – Một đạo luật sẽ quy định cách tổ chức và điều hành của Viện Bảo hiến cùng thủ tục áp dụng trước cơ quan ấy.
THIÊN THỨ CHÍN: SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Điều 89 – Không thể sửa đổi hoặc hủy bỏ các điều 1, 2, 3, 4 và điều này của Hiến pháp.
Điều 90 – Tổng thống hay hai phần ba tổng số Dân biểu có thể đề nghị sửa đổi Hiến pháp.
Đề nghị sửa đổi Hiến pháp có viện dẫn lí do phải đủ chữ kí và nạp tại Văn phòng Quốc hội.
Điều 91 – Sau khi nhận
được đề nghị hợp lệ sửa đổi Hiến pháp, Văn phòng Quốc hội sẽ triệu tập
một phiên họp đặc biệt của Quốc hội đề cử một Ủy ban gồm ít nhất mười
lăm người có nhiệm vụ nghiên cứu đề nghị này, tham khảo ý kiến của Viện
Bảo hiến và của Tổng thống.
Trong thời gian tối đa sáu mươi ngày, Ủy ban sẽ thuyết trình trước Quốc hội trong phiên họp đặc biệt.
Điều 92 – Đề nghị sửa
đổi Hiến pháp chỉ được chấp thuận nếu ba phần tư tổng số Dân biểu tán
thành, trong một cuộc minh danh và đích thân đầu phiếu.
Điều 93 – Đề nghị được chấp thuận sẽ ban hành theo thủ tục ghi ở các điều 57, 58, 59.
Nếu có phúc nghị, Quốc hội sẽ chung quyết bằng một cuộc minh danh và đích thân đầu phiếu với đa số ba phần tư tổng số Dân biểu.
THIÊN THỨ MƯỜI: CÁC ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 94 – Hiến pháp sẽ ban hành ngày hai mươi sáu tháng mười năm một nghìn chín trăm năm mươi sáu.
Điều 95 – Quốc hội dân
cử ngày mồng bốn tháng ba dương lịch năm một nghìn chín trăm năm mươi
sáu, sẽ là Quốc hội Lập pháp đầu tiên theo Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa.
Nhiệm kì Quốc hội Lập pháp bắt đầu từ
ngày ban hành Hiến pháp và chấm dứt ngày ba mươi tháng chín năm một
nghìn chín trăm năm mươi chín.
Điều 96 - Đương kim
Tổng thống được nhân dân ủy nhiệm thiết lập nền dân chủ do cuộc trưng
cầu dân ý ngày bai mươi ba tháng mười dương lịch năm một nghìn chín trăm
năm mươi lăm, sẽ là Tổng thống đầu tiên theo Hiến pháp Việt Nam Cộng
hòa.
Nhiệm kì Tổng thống bắt đầu từ ngày ban hành Hiến pháp và chấm dứt ngày ba mươi tháng tư năm một nghìn chín trăm sáu mươi mốt.
Điều 97 – Trong khóa
họp thứ nhất của Quốc hội Lập pháp đầu tiên đương kim Tổng thống sẽ chỉ
định Phó Tổng thống đầu tiên. Sự chỉ định này sẽ thành nhất định nếu
được Quốc hội chấp thuận.
Nếu có sự thay thế, sự chỉ định Phó Tổng thống mới cũng theo thủ tục đó trong suốt nhiệm kì Tổng thống đầu tiên.
Điều 98 – Trong nhiệm
kì Lập pháp đầu tiên, Tổng thống có thể tạm đình chỉ sự sử dụng những
quyền tự do đi lại và cư ngụ, tự do ngôn luận và báo chí, tự do hội họp
và lập hội, tự do nghiệp đoàn và đình công để thỏa mãn những đòi hỏi
đích đáng của an toàn chung, trật tự công cộng và quốc phòng.
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.
0 comments:
Post a Comment