HOÀNG VIỆT
1. Giới thiệu về biển Đông
Biển Đông là một biển nửa kín
và là một trong những khu vực chiến lược quan trọng bậc nhất trên thế
giới. Vùng biển này trải rộng từ khoảng vĩ tuyến 3º Nam tới vĩ tuyến 23º
Bắc và được bờ biển của các nước Trung Quốc (bao gồm cả đảo Đài Loan),
Việt Nam, Campuchia, Thái lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei,
Philippines bao bọc xung quanh. Với diện tích bề mặt khoảng 1.148.500
hải lý vuông (tương đương 3.939.245 km2), biển Đông là một trong những
biển lớn nhất thế giới.
Hình 1: Toàn bộ khu vực biển Đông

Nguồn: South China Sea-Reference Map-US CIA; lấy từ http://community.middlebury.edu/~scs/maps/South%20China%20Sea-reference%20map-US%20CIA.jpg.
Khu vực biển Đông bao gồm những tuyến đường hàng hải
nhộn nhịp bậc nhất của thế giới, nối khu vực Đông Bắc Á và Tây Thái Bình
Dương với Ấn Độ Dương và Trung Đông. Trung bình một năm có khoảng hơn
41.000 lượt tàu biển qua lại khu vực này.[1] Các tàu chở dầu đi qua eo
biển Malacca (nằm ở cuối phía Tây Nam của biển Đông) nhiều gấp ba lần so
với lượng tàu chở dầu đi qua kênh đào Suez, và nhiều gấp năm lần so với
lượng tàu qua kênh đào Panama.[2] Hơn 80% lượng dầu khí nhập khẩu của
Nhật từ Trung Đông, Brunei, Malaysia, Indonesia phải đi ngang vùng biển
này.[3]Vùng biển này còn là khu vực cung cấp nguồn hải sản quan trọng
cho các đội tàu đánh cá của Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam,
Campuchia, Indonesia, Malaysia, Brunei, Singapore và Thái Lan.
Ngoài việc đây là con đường hàng hải quan trọng
thì biển Đông cũng là một khu vực giàu tài nguyên gồm cả nguồn hải sản
và tiềm năng dầu khí. Các chuyên gia Trung Quốc ước tính là khu vực này
chứa khoảng 225 tỷ barrels dầu mỏ và khí đốt thiên nhiên.[4]
Hiện nay cả Brunei, Malaysia và Việt Nam cùng là
những quốc gia xuất khẩu dầu khí, còn Trung Quốc từ năm 1993 đã trở
thành một trong những quốc gia nhập khẩu dầu khí lớn nhất trên thế giới.
Hiện nay, trung bình mỗi ngày Trung Quốc tiêu thụ khoảng 7,85 triệu
barrels dầu mỏ.[5] Dự đoán tới năm 2010 Trung Quốc sẽ tiêu thụ khoảng 10
đến 12 triệu barrels dầu mỗi ngày, trong số đó, Trung Quốc phải nhập
khẩu trên 53 %. Cho tới tháng 5 năm 2008, Trung Quốc đã trở thành nhà
nhập khẩu dầu mỏ lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Nhật Bản. Hiện nay,
Trung Quốc mua 46% lượng dầu nhập khẩu của họ từ Trung Đông, 32% từ châu
Phi và 5% từ Đông Á. Trên 80% lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc phải
đi qua eo biển Mallaca.[6] Với công nghệ khai thác dầu khí như hiện nay,
với những tiềm năng rất lớn về dầu khí trên các thềm lục địa
(continental shelf) và các khu vực biển khác thì biển Đông sẽ thực sự là
một khu vực chiến lược quan trọng đối với bất cứ quốc gia nào trong khu
vực và đặc biệt quan trọng đối với Trung Quốc, một quốc gia đầy tham
vọng muốn gây ảnh hưởng đến toàn thế giới. Thậm chí, nếu các yêu sách
trên của Trung Quốc vùng biển này được các nước khác chấp nhận thì “quyền
tài phán của Trung Quốc sẽ được kéo dài ra đại dương 1000 hải lý từ đất
liền, tương đương diện tích Địa Trung Hải, và họ sẽ chế ngự được vùng
biển trung tâm của khu vực Đông Nam Á”.[7] Sự hiện diện của hải quân
Trung Quốc tại khu vực này sẽ đe dọa đến không chỉ Philippines hay Việt
Nam, mà còn đe dọa cả Brunei, Indonesia, Malaysia nữa. Thêm nữa, kiểm
soát được khu vực biển chiến lược này, còn đe dọa đến cả an ninh của
Nhật Bản, Hoa Kỳ hay bất cứ cường quốc nào nếu đi qua khu vực này.
Mặc dù Hải quân Trung Quốc chưa thực sự là mạnh, chưa thể thống trị biển Đông, nhưng họ không dấu giếm tham vọng
đó. Hiện nay Trung Quốc vẫn chưa có tàu sân bay nào, nhưng họ đã có kế
hoạch xây dựng hai tàu sân bay trong thời gian sắp tới. Tháng 2 năm
2009, Trung Quốc đã gửi một số tàu chiến tới vịnh Aden, Trung Quốc cũng
đã xây dựng một căn cứ tàu ngầm hạt nhân trên đảo Hải Nam. Trung
Quốc cũng công khai bộc lộ ý định triển khai theo học thuyết Mahan, với ý
định biến Trung Quốc thành một cường quốc biển, từ đó có thể thống trị
thế giới.[8] Và trong ý đồ đó, biển Đông có một vị trí chiến lược hết
sức quan trọng. Với tham vọng vươn ra đại dương, Trung Quốc đã hình dung
ra hai chuỗi đảo chính,[9] trong đó biển Đông nằm trong chuỗi đảo số 1,
như là cửa ngõ để Trung Quốc có thể vươn ra chuỗi đảo số 2, dần dần
thống trị Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, từ đó có thể thỏa mãn giấc
mộng siêu cường.
Hình 2: Chuỗi đảo thứ nhất và chuỗi đảo thứ hai trong chiến lược vươn ra đại dương của Trung Quốc.

Nguồn: Annual report to congress, Military Power of the People’s Republic of China, 2009, Office of the Secretary of Defense, Department of Defence, USA.
Theo những quy định của Công ước về Luật biển năm
1982 của Liên Hợp Quốc thì biển Đông là một khu vực đặc thù, nó chứa
đựng tất cả các nội dung có liên quan của Công ước 1982 như quy định về
quốc gia ven biển, quốc gia quần đảo, nước không có biển, nước bất lợi
về mặt địa lý, các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia, vùng nước
lịch sử, phân định biển, an toàn hàng hải v.v… Đặc biệt, với những khái
niệm xuất hiện trong Công ước 1982 về thềm lục địa và vùng đặc quyền
kinh tế đã khiến cho biển Đông trở thành biển được bao phủ bởi các vùng
biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các nước ven biển
Đông. Điều này khiến cho khoảng cách về biên giới một số quốc gia trong
khu vực trước đây là xa xôi, cách trở thì nay trở thành các quốc gia
cùng chia sẻ đường biên giới biển chung. Điều này cũng dẫn tới một hệ
quả là biển Đông trở thành một biển chứa đựng những tranh chấp có mức độ
phức tạp bậc nhất trên thế giới.
2. Yêu sách của các bên và diễn biến cuộc tranh chấp
Cuộc tranh chấp tại biển Đông về mặt pháp lý chủ yếu
xoay quanh những tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài
phán với các khu vực trên biển Đông.
Hiện tại, tám quốc gia và vùng lãnh thổ cùng yêu sách
danh nghĩa (tuyên bố chủ quyền) đối với các quần đảo của biển Đông:
Singapore và Malaysia tranh chấp chủ quyền đối với đảo Pedra
Branca/Pulau Batu Puteh, vốn có một trí chiến lược trong vùng biển
Malacca và eo biển Singapore. Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam cùng
tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Đài Loan và Trung Quốc
cũng tranh chấp về chủ quyền đối với đảo Pratas và bãi Macclefield. Đối
với quần đảo Trường Sa, sáu quốc gia và vùng lãnh thổ đều nhận mình có
chủ quyền, bao gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam tuyên bố chủ quyền
với toàn bộ quần đảo, Philippines, Malaysia và Brunei tuyên bố có chủ
quyền đối với từng phần của quần đảo, trừ Brunei, các quốc gia và vùng
lãnh thổ đều có sự hiện diện về mặt quân sự trên quần đảo Trường Sa.
Ngoài ra, còn phải kể đến những tranh chấp giữa Trung Quốc với Việt Nam
về đường biên giới trên biển trong vịnh Bắc Bộ, giữa Việt Nam và Thái
Lan trong việc xác định đường biên giới trong vịnh Thái Lan.
Trong đó yêu sách cụ thể của các bên như sau:
Brunei yêu sách về chủ quyền đối với một cấu trúc
trong quần đảo Trường Sa, đó là cấu trúc tự nhiên chìm dưới mặt nước có
tên gọi là bãi ngầm Louisa. Malaysia cũng yêu sách về chủ quyền đối với
bãi ngầm này và trong thực tế Malaysia đã chiếm bãi ngầm này năm
1984.[10]
Campuchia yêu sách về một phần vịnh Thái Lan, phần
này chủ yếu nằm trong vùng đặc quyền kinh tế theo nguyên tắc thềm lục
địa kéo dài, được Campuchia coi là một vịnh lịch sử của họ.[11]
Đài Loan yêu sách gần như toàn bộ biển Đông, yêu sách
về chủ quyền của Đài Loan đối với các khu vực trên biển Đông tương tự
như yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền của họ đối với các khu vực trên
biển Đông.[12]
Indonesia yêu sách khu vực biển Đông bị giới hạn bởi
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ. Indonesia không yêu sách
về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.[13]
Malaysia yêu sách biển Đông bị giới hạn bởi vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của họ. Malaysia yêu sách về chủ quyền
đối với 12 đảo và vị trí trong biển Đông.[14] Malaysia cũng yêu sách về
quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa của họ đối với phần giáp Malaysia của vịnh Thái Lan.[15]
Philippines yêu sách hầu hết quần đảo Trường Sa,
nhưng không yêu sách chính đảo Trường Sa,[16] Philippines cũng yêu sách
về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ trên khu vực biển
Đông.[17]
Thái Lan yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ trên vịnh Thái Lan.[18]
Trung Quốc yêu sách chủ quyền của họ gần như đối với
toàn bộ biển Đông. Trung Quốc yêu sách về chủ quyền đối với toàn bộ quần
đảo Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Nam Sa) và đã có sự hiện diện về
lực lượng quân sự trên nhiều đảo thuộc quần đảo này. Năm 1974, Trung
Quốc lợi dụng tình trạng chiến tranh ở Việt Nam, đã phối hợp các lực
lượng hải quân và không quân chiếm đoạt toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và đặt
sự hiện diện về quân sự của họ tại đây. Thêm vào đó Trung Quốc còn
tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Pratas.[19]
Việt Nam yêu sách về chủ quyền trên toàn bộ hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh
tế cũng như quyền chủ quyền đối với thềm lục địa của Việt Nam trên biển
Đông.[20]
Hình 3: Các khu vực tranh chấp mà các bên cùng tuyên bố chủ quyền

Cuộc tranh chấp tại biển Đông phức tạp bởi những yêu
sách về chủ quyền đối với các khu vực chồng lấn, vả lại, nó không chỉ
đơn thuần là tranh chấp về mặt luật pháp quốc tế về biên giới biển mà
hơn thế nữa nó còn được đan xen với những lợi ích về địa – chính trị, về
kiểm soát con đường vận tải biển chiến lược, và về khai thác các nguồn
tài nguyên biển, đặc biệt là dầu mỏ.
Tranh chấp tại biển Đông đã khiến cho khu vực này nằm
trong vùng bất ổn vì sự gia tăng sức mạnh quân sự giữa các bên. Trong
số những tranh chấp này, đặc biệt nổi lên là cuộc tranh chấp chủ quyền
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bản chất của việc tranh chấp các quần đảo này không
chỉ đơn giản dừng bước ở chủ quyền mà theo quy định của Công ước Luật
biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc thì các quốc gia có chủ quyền với một
hòn đảo[21] sẽ được phép thiết lập một vùng lãnh hải rộng 12 hải lý và
một vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng 200 hải lý xung quanh hòn đảo đó.
Và như vậy, lãnh thổ của quốc gia đó sẽ được mở rộng thêm rất nhiều trên
biển.
Trước năm 1974, tranh chấp trên biển Đông đã xảy ra
nhưng không có xung đột lớn. Sau đó thì cuộc tranh chấp đã diễn ra với
mâu thuẫn giữa các bên ngày càng tăng và đỉnh điểm là những xung đột về
quân sự trong khu vực biển Đông.
Năm 1974, khi đó Việt Nam đang trong tình trạng chiến
tranh, nhóm đảo Nguyệt Thiềm thuộc quần đảo Hoàng Sa và một số đảo của
Trường Sa khi đó dưới sự cai quản của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đã có
sự va chạm với hải quân Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và sau đó là sự tiến
công ồ ạt của hải và không quân Trung Quốc, từ đó, Trung Quốc đã chiếm
toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
Sau đó một thời gian, các cuộc va chạm quân sự đã
liên tiếp nổ ra, trong một bầu không khí hết sức căng thẳng. Đầu tiên là
va chạm xảy ra ngày 08/02/1987, khi các tàu chiến của Trung Quốc và
Việt Nam bắn vào nhau tại khu vực quần đảo Trường Sa. Ngày 14/3, đụng độ
nghiêm trọng hơn đã xảy ra ở ngoài bãi ngầm Union khiến mỗi bên mất một
tàu và 120 thuỷ thủ Việt Nam hy sinh.[22]
Thậm chí xung đột dữ dội đã nổ ra giữa Trung Quốc và
Việt Nam vào tháng 03/1988, kết quả của cuộc xung đột này là 3 tàu Việt
Nam bị chìm cùng với 74 thủy thủ. Sự kiện này đã khởi đầu cho việc tăng
cường lực lượng hải quân của cả Việt Nam và Trung Quốc.[23]
Xung đột tiếp tục vào tháng 04/1988, khi 49 ngư dân
Philippines đã bị chính quyền Malaysia bắt giữ trong khu vực Permatang
thuộc khu vực Trường Sa vì tội xâm nhập vùng biển thuộc thềm lục địa của
Malaysia.[24]
Ngày 08/05/1992, Chính phủ Trung Quốc cho phép công
ty năng lượng Mỹ Crestone thăm dò dầu khí trên khu vực rộng 10.000 hải
lý vuông trên bãi ngầm Tư Chính mà Việt Nam tuyên bố thuộc thềm lục địa
của mình (Trung Quốc gọi tên bãi này là Vạn an Bắc). Lô này nằm cách bờ
biển Việt Nam khoảng 160 hải lý và cách đảo Hải Nam – lãnh thổ gần nhất
của Trung Quốc không có tranh chấp – trên 600 hải lý. Đồng thời, chính
phủ Trung Quốc tuyên bố sử dụng hải quân để bảo vệ cho việc khai thác lô
này.[25]
Năm 1994, khi Việt Nam tiến hành thăm dò tại bãi ngầm
Tư Chính, tàu chiến Trung Quốc đã giám sát chặt chẽ hoạt động thăm dò
này.[26]
Năm 1994 cũng là năm Việt Nam ký hợp đồng với các
công ty dầu mỏ trên thế giới để khai thác lô Thanh Long, lô này nằm cách
đảo Trường Sa khoảng 160 hải lý, hoàn toàn nằm ngoài lãnh hải và vùng
tiếp giáp 24 hải lý theo như Pháp lệnh năm 1992 của Trung Quốc. Tuy
nhiên, Trung Quốc lên tiếng rằng: “khu vực biển Thanh Long thuộc vùng
nước tiếp giáp với quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa).[27]
Tháng 9 năm 1994, lực lượng vũ trang Philippines đã bắt giữ 55 ngư dân Trung Quốc khi họ cố tình dựng nhà trên những đảo thuộc quần đảo Trường Sa mà Philippines yêu sách chủ quyền. Cuối tháng 01 năm 1995 Trung
Quốc đã trả đũa bằng cách bắt giữ 35 ngư dân của Philippines ngay tại
khu vực mà Philippines yêu sách (khu vực mà Philippnes gọi là Kalayaan)
nằm trong quần đảo Trường Sa.[28]
Nhân dịp đó, tháng 01/1995, Trung Quốc chiếm đóng đảo
Vành Khăn (Mishief Reef), một bãi san hô thuộc biển Đông, nằm trong
vùng đặc quyền kinh tế mà Philippines tuyên bố thuộc chủ quyền của
họ.[29] Ngày 25/03/1995 hải quân Philippines đã bắt 4 tàu của Trung Quốc
cùng với 62 ngư dân.[30] Cũng trong tháng 03/1995 Philippines đã dùng
máy bay quân sự tấn công phá hủy một số cấu trúc đá của Trung Quốc đánh
dấu trên bãi Vành Khăn.[31]
Khi Philippines phá hủy thêm một số dấu mốc khác của
Trung Quốc trên bãi Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa, Trung Quốc đã
cảnh cáo rằng nếu Philippines tiếp tục có những hành động cố chấp như
vậy thì sẽ bị phản kháng một cách thích đáng.[32]
Việc Trung Quốc xâm chiếm bãi Vành Khăn năm 1995 đã
làm dấy lên một sự lo ngại với các nước ASEAN, và ASEAN đã đứng ra làm
vai trò hòa giải và kiềm chế các bên tranh chấp.
Kết quả là năm 2002, Trung Quốc và các nước tranh
chấp thuộc khối ASEAN đã cùng nhau ký kết một Tuyên bố về quy tắc ứng xử
trên biển Đông (DOC), theo đó các bên đồng ý giải quyết các tranh chấp ở
vùng biển Đông một cách hòa bình.[33]
Tuy nhiên, mọi việc lại diễn ra không như mong đợi,
ngày 09/07/2007, Trung Quốc đã bắn chết ít nhất một ngư dân Việt Nam và
nhiều ngư dân khác bị thương vì cho rằng họ đánh cá trong khu vực biển
thuộc chủ quyền của Trung Quốc,[34] sự kiện này đã gây sự phẫn nộ cho
người dân Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước. Tháng 6 năm 2007 Trung
Quốc đã làm áp lực để tập đoàn dầu khí BP của Anh quốc phải rút lui khỏi
dự án thăm dò dầu khí với bên Việt Nam mà Trung Quốc cho là thực hiện
tại vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc.[35]
Tháng 12 năm 2007 Trung Quốc cho lập thành phố hành
chính Tam Sa trong đó bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà các
nước khác cùng tuyên bố chủ quyền, điều này đã gây nên phản ứng mạnh mẽ
từ người dân Việt Nam, đã có rất nhiều cuộc biểu tình nổ ra. Như một
hiệu ứng lây lan, các báo chí Philippines sau đó đồng loạt chỉ trích
chính phủ Philippines khi tham gia thỏa thuận thăm dò dầu khí với Trung
Quốc và Việt Nam. Sự chỉ trích này đã dẫn đến việc Philippines rút lui
khi thỏa thuận này vừa hết hiệu lực vào ngày 01/07/2008.[36]
Cuối năm 2008 Trung Quốc đã nổ súng cảnh cáo,[37] và
sau đó gây áp lực buộc tập đoàn dầu khí Mỹ Exxon – Mobil phải rút lui
khỏi dự án liên doanh với Việt Nam thăm dò dầu khí trên vùng biển
này,[38] mặc dù Việt Nam khẳng định là dự án được tiến hành trên vùng
biển thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt
Nam.[39]
Ngày 8/3/2009 đã có một vụ căng thẳng giữa tàu thám
hiểm hải dương Impeccable của Mỹ với 5 tàu của Trung Quốc trên vùng biển
này, sau đó giữa Mỹ và Trung Quốc đã xảy ra một cuộc tranh luận gay gắt
trên các phương tiện truyền thông, phía Mỹ giải thích vùng biển này là
biển quốc tế, tàu Mỹ có quyền thực hiện các nghiên cứu biển trong vùng
đó, còn Trung Quốc khẳng định đây là vùng biển thuộc chủ quyền của họ.
Kể từ ngày 16/05/2009 cho tới nay, Trung Quốc đơn
phương ra lệnh cấm đánh bắt cá trên biển Đông, và họ đã cho lực lượng
tàu Ngư Chính (vốn được cải tạo từ các tàu quân sự) để “thực thi” lệnh
cấm đánh bắt cá này. Trong khi đó, nhiều tàu cá Việt Nam đã bị bắt giữ
đòi tiền chuộc hoặc bị đâm chìm.
Ngày 6 tháng 5 năm 2009, Malaysia và Việt Nam trình
lên Ủy ban ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc (viết tắt là CLCS)
báo cáo chung về khu vực thềm lục địa mở rộng tại phía Nam Biển Đông.
Khu vực xác định hoàn toàn nằm ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở lãnh
thổ lục địa của Malaysia và Việt Nam và nằm ngoài các ranh giới đã thoả
thuận với các nước hữu quan. Đây là lý do hai nước khẳng định báo cáo
chung không làm tổn hại các vấn đề liên quan đến phân định ranh giới
giữa các quốc gia có bờ biển đối diện hoặc tiếp giáp.
Ngay sau đó, Trung Quốc đã gửi công hàm số
CML/17/2009 phản đối báo cáo chung này của Việt Nam và Malaysia, đặc
biệt công hàm phản đối này có kèm theo một bản đồ thể hiện “đường lưỡi
bò” (mặc dù Trung Quốc chưa bao giờ giải thích “đường lưỡi bò” này là
gì) với những yêu sách: “Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc
đối với các đảo ở biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế cận, cùng
quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng
như đáy biển và mặt đất dưới đáy biển”. Việt Nam đã phản đối ngay lập tức công hàm này.
Ngày 23/6/2010, trên đảo Laut, cách đảo Natura của
Indonesia khoảng 105 km về phía Tây Bắc, một tàu Ngư Chính của Trung
Quốc, tên Yuzheng 311(Tàu ngư chính này là một tàu quân sự cũ, được
chuyển đổi hồi tháng 3 năm ngoái, thành tàu ngư chính lớn nhất của Trung
Quốc, hoạt động tại Biển Đông, trọng tải 4.450 tấn) khi bị tàu Hải quân
Indonesia ra lệnh phải di tản khỏi khu vực – đe dọa sẽ tấn công nếu
không thả chiếc tàu đánh cá của Trung Quốc đã bị Indonesia bắt giữ[40]
Ngày 08/07/2010, Indonesia – một quốc gia lớn của
ASEAN, không có những tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo
Trường Sa, Hoàng Sa cũng đã gửi công hàm No. 480 /POL-703/VII/10 lên
Liên Hợp Quốc để phản đối các yêu sách trên vùng biển này của Trung
Quốc.
Mới đây, ngày 23/07/2010, trong Hội nghị ARF, sau khi
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hilary Clinton tuyên bố liên quan đến giải quyết
tranh chấp biển Đông: “Hoa Kỳ hỗ trợ quá trình cộng tác ngoại giao
của tất cả các bên tranh chấp để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ khác
nhau mà không cần cưỡng chế. Chúng tôi phản đối việc sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực của bất kỳ nước tranh chấp nào”.[41] Ngay
sau đó, Ngoại trưởng Trung Quốc đã phản ứng gay gắt với tuyên bố này và
sau đó Hải quân Trung Quốc đã tập trận bắn đạn thật trên khu vực biển
Đông như một động tác để thị uy.
Các cuộc tranh chấp và xung đột diễn ra trên biển
Đông đã gây ảnh hưởng rất lớn đối với các bên liên quan và thêm nữa nó
còn ảnh hưởng đến lợi ích của các nước khác, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn
định và sự hợp tác phát triển trong khu vực cũng như trên phạm vi thế
giới.
3. Các giải pháp được đưa ra
Các cuộc đối đầu quân sự trong khu vực hẳn là điều mà
các quốc gia tranh chấp trên biển Đông đều không muốn xảy ra. Vì thế,
một giải pháp để giải quyết cuộc tranh chấp này là rất cần thiết, bởi vì
việc giữ nguyên trạng (status quo) là rất nguy hiểm, gây bất ổn
bởi nó thúc đẩy các bên yêu sách hành động đơn phương, như vậy nó lại
tạo ra cơ hội cho các cường quốc bên ngoài tham gia vào.
3.1. Giải pháp 1: Tòa án quốc tế là một lựa chọn
Vậy giải pháp nào để giải quyết những vấn đề gây bất
ổn khu vực nêu trên? Đã có nhiều giải pháp khác nhau được đưa ra. Phương
án đầu tiên hay được nhắc tới đó là giải quyết vấn đề chủ quyền bằng
cách đưa tranh chấp ra giải quyết tại Tòa án quốc tế.
Theo điều 287 Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc
năm 1982 thì vấn đề tranh chấp này có thể đưa ra Tòa án Quốc tế về Luật
biển (thành lập theo Phụ lục VI), Tòa án quốc tế (ICJ), Tòa án trọng tài
(thành lập theo phụ lục VII) và Tòa án đặc biệt (phụ lục VIII).
Tuy nhiên, những tranh chấp lãnh thổ của các quốc gia
trên thế giới theo truyền thống đa phần đều được đưa ra Tòa án Công lý
Quốc tế (ICJ).[42] Thẩm quyền của Tòa án Công lý Quốc tế rộng hơn rất
nhiều so với thẩm quyền của Tòa án Quốc tế về Luật biển. Trong lịch sử,
Tòa Án Công lý Quốc tế đã xử rất nhiều vụ việc về tranh chấp lãnh thổ
giữa các quốc gia, những phán xử của ICJ đã trở thành những án lệ kinh
điển trong luật quốc tế cho việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ giữa
các quốc gia, đặc biệt cho các vụ tranh chấp biên giới biển, điển hình
như vụ eo biển Corfu , vụ ngư trường Na uy, vụ các đảo Minquiers và
Ecrehous, vụ đảo Palmas, vụ thềm lục địa biển Bắc…[43]
Tuy nhiên, đối với Tòa án Công lý Quốc tế, trong một phán quyết của mình, Tòa đã nêu rõ: “Tòa không thể thực hiện thẩm quyền tài phán của mình đối với một quốc gia nếu không có sự đồng ý của quốc gia đó”.[44]
Điều đó có nghĩa là Tòa chỉ có thể đưa ra phán quyết trên cơ sở sự chấp
thuận đưa vụ việc ra nhờ Toà giải quyết của các quốc gia trong vụ tranh
chấp. Từ năm 1932, (lúc đó Việt Nam là thuộc địa của Pháp, Pháp đại
diện Việt Nam trong mọi quan hệ ngoại giao) Pháp đã đề nghị đưa tranh
chấp chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa ra Tòa án Quốc tế và Trung Quốc đã
từ chối đề nghị này.[45]
Năm 1947, trong cuộc thương lượng giữa Pháp và Trung
Quốc được tiến hành tại Paris từ ngày 25/02 đến ngày 04/07/1947 Pháp
tiếp tục nêu vấn đề đưa tranh chấp này nhờ Trọng tài quốc tế phân xử
nhưng Trung Quốc tiếp tục từ chối.[46]
Năm 1988 khi xung đột quân sự giữa hai nước Việt Nam
và Trung Quốc tại khu vực biển Đông này dâng cao, Việt Nam đã toan tính
đưa tranh chấp ra Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc vốn là
thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an (có quyền phủ quyết) đã ngăn
cản mọi sáng kiến của Hội đồng Bảo an trong tranh chấp này.[47]
Năm 1994, khi bầu không khí căng thẳng tiếp tục gia
tăng trong khu vực biển Đông, Việt Nam đã tỏ thái độ cho thấy họ sẵn
sàng cho việc đưa vụ tranh chấp biển Đông ra nhờ Tòa án quốc tế giải
quyết.[48] Philippines cũng đe dọa đưa tranh chấp này ra Hội đồng Bảo an
và Tòa án quốc tế ICJ. Nhận xét về sự kiện này, nhóm Mark Valencia cho
rằng: “The Philippines soon realized, however, that China is a member
of the Security Council and can veto any of its proposed resolutions,
and that the ICJ cannot adjudicate if China does not accept jurisdiction”.
(Philippines sớm nhận thấy rằng, Trung Quốc vốn là một thành viên
thường trực trong Hội đồng Bảo an, có thể phủ quyết bất cứ giải pháp nào
mà họ đưa ra, và Tòa án quốc tế ICJ cũng không thể xét xử nếu Trung
Quốc từ chối chấp nhận quyền tài phán của Tòa).[49]
Tuy nhiên, việc đi tới giải pháp do Tòa án quốc tế
phán xử cũng có thể được tòa chấp nhận đơn kiện đơn phương nhưng phải
với điều kiện được tiến hành trên một cơ sở tự nguyện giữa các nước đã
ký trước vào điều khoản bắt buộc chấp nhận thẩm quyền của Tòa án quốc
tế, đó là một phương cách chung để công nhận thẩm quyền của cơ quan pháp
lý của Liên Hợp Quốc, thế nhưng cả Trung Quốc, Việt Nam và Malaysia đều
không ký vào điều khoản đó. Năm 1972, Philippines đã thừa nhận quyền
xét xử của Tòa án nhưng vẫn bảo lưu loại trừ cuộc tranh chấp này.[50]
Và như thế, triển vọng về một trong số các quốc gia
liên quan kiện lên Tòa án quốc tế với một yêu cầu đơn phương và hưởng
thụ thẩm quyền của Tòa án này đã bị loại trừ.
Chưa thể kể đến việc khi đã đưa ra Tòa án quốc tế thì phải tuân thủ nguyên tắc pacta sunt servanda
(tự nguyện chấp hành các cam kết quốc tế) thì khả năng rủi ro rất cao,
có thể thắng lợi được tất cả nhưng cũng có thể bị thua trắng mất tất cả
(Còn nếu không, các quốc gia vẫn có thể duy trì quyền kiểm soát thực tế (de facto)
đối với các đảo đã chiếm đóng). Trong trường hợp này, các bên đều chưa
chuẩn bị tâm lý có thể thất bại nên cũng không mạo hiểm đặt cược vào sự
phán xét của Tòa.
Thêm nữa, các bên cũng tỉnh táo nhận thấy một điều
rằng: kể cả khi có sự phán quyết của Tòa đi chăng nữa, thì cũng chưa hẳn
là đã chấm dứt hoàn toàn cho cuộc tranh chấp, chủ nghĩa dân tộc tại các
quốc gia đang ngày càng dâng cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thừa
nhận kết quả giải quyết của Tòa. Ví dụ cụ thể như cuộc xung đột giữa
Indonesia và Malaysia trong tranh chấp lãnh hải đối với vùng biển
Ambalat cạnh quần đảo Borneo, mặc dù đã có phán quyết của Tòa án Công lý
Quốc tế từ năm 2002, nhưng nguy cơ xung đột vẫn còn nguyên đó, thậm chí
còn gay gắt hơn.[51]
Một vụ việc cụ thể gần đây nhất là tranh chấp giữa
Thailand và Campuchia về ngôi đền cổ Preah Vihear, tranh chấp này đã
được Tòa án Công lý quốc tế phán quyết thuộc về Campuchia từ năm 1962,
nhưng gần đây quan hệ giữa hai nước vẫn đầy căng thẳng, thậm chí hai bên
đã tăng sự hiện diện của quân đôi nước họ trên khu vực đền này, khiến
cho nguy cơ xung đột quân sự trở nên trầm trọng.[52]Vả lại, tranh chấp
lãnh thổ do Tòa án quốc tế giải quyết thường mất thời gian rất lâu,
tranh chấp giữa Malaysia và Singapore về hòn đảo Pedra Branca/Pula Batu
Puteh mà Tòa xử gần 20 năm mới xong. Còn tranh chấp về Hoàng Sa và
Trường Sa gồm rất nhiều đảo lớn nhỏ và nhiều bên liên quan, nếu Tòa có
giải quyết thì thời gian chắc là rất lâu.
3.2. Giải pháp 2: Hợp tác khai thác chung
Thực tế cho thấy, các nỗ lực nhằm giải quyết tranh
chấp về chủ quyền tại biển Đông đều không đưa tới kết quả nào. Hiện nay,
Trung Quốc luôn đưa ra lập trường cứng rắn của họ với lập luận chủ
quyền của họ về gần 80% diện tích biển Đông là không thể tranh cãi mặc
dù yêu sách này không có cơ sở pháp lý nào trong luật pháp quốc tế hiện
đại hay Công ước về Luật biển và bị quốc tế chỉ trích[53].[53] Thế
nhưng, Trung Quốc với ưu thế quân sự và chính trị cường quốc của mình
luôn bộc lộ ý định chống lại các cuộc đàm phán đa phương về quần đảo
Trường Sa. Trung Quốc luôn muốn thực hiện các cuộc đàm phán song phương
bởi vì Trung Quốc với sức mạnh của mình sẽ dễ dàng “bẻ gãy từng chiếc
đũa” hơn là “một bó đũa”, và như vậy Trung Quốc luôn chiếm thế “thượng
phong” trên bàn đàm phán.
Giải pháp tiếp theo được nhắc tới, được cho là khả
thi nhất đối với các bên trong cuộc tranh chấp biển Đông này là phân
định biển hoặc cùng nhau khai thác nguồn tài nguyên tại biển Đông.
Trong thực tế, tại khu vực biển Đông, đã có nhiều
hiệp định phân định biển được ký kết, ví dụ cụ thể như Việt Nam đã tiến
hành phân định biển với hầu hết các nước láng giềng có chung biên giới
biển. Trong đó có thể kể tới Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt
Nam với Trung Quốc, Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Việt
Nam với Trung Quốc, Hiệp định phân định biển giữa Việt Nam với Thailand
trong vịnh Thailand, Hiệp định về vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và
Campuchia, Hiệp định phân định thềm lục địa giữa Việt Nam và Indonesia,
Thỏa thuận hợp tác khai thác chung Việt Nam – Malaysia về khu vực chồng
lấn thềm lục địa.[54]
Tuy nhiên, vấn đề phân định biển không phải ở khu vực
nào cũng có thể tiến hành một cách dễ dàng được, ví dụ như vùng biển
chồng lấn giữa Việt Nam và Malaysia. Lúc đầu, hai nước dự định sẽ cùng
nhau phân định vùng thềm lục địa chồng lấn nhưng sau đó hai bên đã tạm
gác vấn đề phân định thềm lục địa để chuyển sang bàn về Thỏa thuận khai
thác chung vùng biển này mà không ảnh hưởng đến việc phân định sau này.
Phân định biển khu vực này gặp phải khó khăn ở vấn đề giải quyết chủ
quyền. Vì thế, một giải pháp dễ chấp nhận hơn là các bên tranh chấp cùng
hợp tác khai thác chung vùng biển này.
Khai thác chung không phải là ý tưởng mới trong giải
quyết các tranh chấp biển trên thế giới. Mô hình khai thác chung trên
thế giới đã được thực hiện từ lâu, điển hình là Hiệp ước Svalbard ngày
19/12/1920, theo đó các bên tranh chấp công nhận chủ quyền của Na uy đối
với quần đảo Svalbard, trong khi duy trì quyền tiếp cận hiện hữu của
các quốc gia khác đối với quần đảo này nhằm mục đích thực hiện việc khai
thác, săn bắt và các hoạt động kinh tế khác. Kể từ khi Hiệp ước này ra
đời, trên thế giới đã có khoảng 20 điều ước quốc tế về mô hình hợp tác
khai thác chung được ký kết, ví dụ như Thỏa thuận khai thác chung giữa
Papua New Guinea và Australia năm 1978, Na uy và Anh ở biển Bắc, Arab
Saudi và Sudan, Thailand và Malaysia, Australia và Indonesia, Việt Nam
và Malaysia…
Khai thác chung là một thỏa thuận giữa các quốc gia
liên quan, nhằm chia sẻ tài nguyên trên các vùng biển chồng lấn. Cơ sở
của các thỏa thuận này chính là chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán trên các vùng biển của quốc gia theo quy định của luật pháp quốc
tế. Tuy nhiên, thoả thuận về khai thác chung phải được coi là giải pháp
tạm thời nhằm giảm xung đột giữa các bên tranh chấp và chỉ nhằm mục đích
phát triển nguồn tài nguyên mà thôi. Thỏa thuận này không được làm ảnh
hưởng tới yêu sách về chủ quyền lãnh thổ cũng như các quyền chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia trên biển.
Có một điều cần lưu ý trong vấn đề hợp tác khai thác
chung đó là trong luật pháp quốc tế về biên giới lãnh thổ có một nguyên
tắc là “sự liên tục và xác định đường biên giới”. Điều này cũng được nêu
ra tại điều 62 Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969, khuyến
cáo sự ổn định của các đường biên giới. Trên những nguyên tắc đó, nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng “cái tạm thời của ngày hôm nay có thể trở thành
vĩnh viễn sau một thời gian nào đó”. Thực tế trên thế giới thì thỏa
thuận giữa Iceland và Jan Mayen tháng 10 năm 1981, thỏa thuận giữa
Bahrain và Arab Saudi tháng 2 năm 1958 đã trở thành những thoả thuận
vĩnh viễn.
Đã có nhiều đề nghị cho phương án hợp tác khai thác chung trên vùng biển tranh chấp này.
1. Phương án “chia sẻ tài nguyên biển Đông”
Năm 1997, nhóm Mark J. Valencia của đại học Hawaii đã
đưa ra ý tưởng cho việc chia sẻ tài nguyên trong khu vực quần đảo
Trường Sa. Nhóm học giả này cho rằng các nỗ lực giải quyết tranh chấp
hiện tại đã lảng tránh 2 vấn đề quan trọng: đó là chủ quyền lãnh thổ và
khai thác tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, các nỗ lực này gần như không
có tác dụng bao nhiêu bởi vì vẫn chưa ngăn chặn được các hoạt động đơn
phương của các quốc gia liên quan. Do đó, để khắc phục tình trạng này,
nên đưa ra một cơ chế hợp tác đa phương tại khu vực tranh chấp với
nguyên tắc: các tuyên bố về chủ quyền biển Đông đều được công nhận và
giải pháp tạm thời không ảnh hưởng đến giải pháp cuối cùng, không có các
hoạt động quân sự và tài nguyên thiên nhiên được khai thác và chia sẻ
theo nguyên tắc bình đẳng và công bằng.
Các bên trong tranh chấp sẽ thiết lập một thể chế
quản lý tài nguyên biển trong khu vực để tổ chức nghiên cứu, khảo sát
đánh giá về tiềm năng dầu khí. Qua đó, các bên sẽ xác định khu vực và
phương thức hợp tác chung thông qua một cơ chế đa phương điều hành hoạt
động khai thác chung và phân chia các nguồn lợi. Thành viên bao gồm tất
cả các bên tranh chấp và không có tranh chấp; cơ chế ra quyết định là
đồng thuận và nguyên tắc phân bổ tài nguyên phụ thuộc vào tuyên bố đòi
hỏi của các bên có tính đến yếu tố lịch sử. Tuy nhiên, việc quyết định
phân chia tài nguyên hay quyết định về nhượng quyền khai thác sẽ được
các bên tranh chấp trực tiếp thông qua.
Nhóm Mark J. Valencia cũng đưa ra 5 kịch bản cho việc
chia sẻ trong việc khai thác tài nguyên tại biển Đông. Cụ thể là: (1)
Toàn bộ biển Đông sẽ được chia dựa trên đường cách đều từ các đường cơ
sở của các bên, bỏ qua sự hiện diện của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa; (2) Phân chia biển Đông dựa trên đường cách đều tính từ các đường cơ
sở, bỏ qua sự hiện diện của Trường Sa, nhưng trao cho Hoàng Sa toàn bộ
hiệu lực như là lãnh thổ của Trung Quốc; (3) Phân chia biển Đông dựa
trên “sự công bằng tương đối” và những mối quan ngại về địa chính trị.
Trong đó, thực chất là sự phân chia dựa trên sức nặng của các tuyên bố
chủ quyền, vị trí chiếm đóng các đảo và yêu sách về các thềm lục địa;
(4) Các nước tự xác định ranh giới 200 hải lý tính từ đường cơ sở (với
các đường cơ sở phải được xây dựng một cách hợp lý), ở những nơi có vùng
chồng lấn thì sẽ chia theo đường cách đều các ranh giới 200 hải lý đó,
bỏ qua sự hiện diện của Hoàng Sa và Trường Sa; (5) Tương tự như kịch bản
(4) nhưng Hoàng Sa có đầy đủ hiệu lực và thuộc về lãnh thổ của Trung
Quốc.[55]
Điểm chung của tất cả các kịch bản phân chia nói trên
là đều bỏ qua một phần hoặc toàn bộ sự hiện diện của hai quần đảo đang
bị tranh chấp và giành nhiều lợi thế cho Trung Quốc ( ví dụ kịch bản số
(2) và số (5) đều coi Hoàng Sa là lãnh thổ thuộc chủ quyền của Trung
Quốc). Theo phương thức này thì các bên tranh chấp đều phải tôn trọng
và công nhận yêu sách của Trung Quốc trên toàn bộ biển Đông và có thể
khai thác chung các khu vực thềm lục địa của các nước khác. Đây có lẽ
chính là điều khiến cho đề xuất này trở nên bất khả thi bởi lẽ không một
quốc gia tranh chấp nào chấp nhận từ bỏ chủ quyền.[56]
Thêm nữa, việc phân chia này cũng rất phức tạp, trên
thực tế cũng chẳng khác gì việc xác định chủ quyền trên quần đảo Trường
Sa. Ngoài ra, việc phân chia này lại phụ thuộc vào “sức nặng” hay tính
hợp lý của các yêu sách về chủ quyền.
2. Phương án “Gác tranh chấp, cùng khai thác” của Trung Quốc
Chính sách “gác tranh chấp, cùng khai thác” của Trung
Quốc được ông Đặng Tiểu Bình đưa ra lần đầu tại Tokyo tháng 10 năm
1982. Đây là một phương án được Trung Quốc đưa ra với quan điểm cùng hợp
tác khai thác chung khu vực biển Đông. Về mặt hình thức, đề nghị này
của Trung Quốc dường như là hợp lý, vì nó phù hợp với thực tiễn và luật
pháp quốc tế, đặc biệt là xu hướng hợp tác trên biển ở các khu vực khác
trên thế giới.
Tuy nhiên, nhìn nhận phương án này có những vấn đề tồn tại như sau:
Về mặt pháp lý, cơ sở để Trung Quốc tham gia tranh
chấp biển Đông dựa vào yêu sách về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa và lập lờ sử dụng “đường lưỡi bò”, một yêu sách phi lý
chiếm gần 80 % toàn bộ biển Đông (xem hình 2). Trung Quốc hiểu rằng nếu
đấu tranh trên mặt trận pháp lý, Trung Quốc khó có thể giành được lợi
thế trong cuộc tranh chấp biển Đông.[57] Do đó, đề nghị “gác tranh chấp,
cùng khai thác” của Trung Quốc làm cho dư luận dễ bị lầm tưởng là phù
hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế.
Về mặt chính trị, đề nghị “gác tranh chấp, cùng khai
thác” được thực hiện, Trung Quốc sẽ đạt được nhiều mục tiêu có lợi cho
họ, trong đó họ có thể duy trì được yêu sách lãnh thổ và vùng biển không
phải của Trung Quốc. Quan trọng hơn, đây là một giải pháp chính trị
khôn khéo của Trung Quốc nhằm trấn an dư luận, mở rộng ảnh hưởng và chia
rẽ các nước trong khu vực.
Về thực chất ta có thể thấy như sau:
- Một mặt, Trung Quốc đề nghị khai thác chung, nhưng
mặt khác Trung Quốc vẫn duy trì yêu sách “đường lưỡi bò” chiềm gần 80 %
biển Đông và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Quan trọng hơn, phần lớn các khu vực mà Trung Quốc
đề nghị khai thác chung đều nằm trên khu vực thềm lục địa hiển nhiên
thuộc chủ quyền của nước khác. Thực ra, ý tưởng khai thác chung của
Trung Quốc dường như là sự tham gia của các nước khác trong việc khai
thác những gì họ coi là của họ, trái ngược với hình thức khai thác chung
truyền thống – đó là việc cùng đóng góp các quyền đối với tài nguyên
trong các vùng tranh chấp.
Đánh giá về các đề xuất của Trung Quốc, nhóm Mark J. Valencia nhận xét: “Another
lesson that can be gleaned from Beijing’s approach to other territorial
disputes is that it may be willing to negotiate and even to participate
in (bilateral) join development when it does not have full control of
territory in question, e.g., the Spratlys, or the Diaoyutai Islands in
the East China Sea. If, on the other hand, it is in firm control of an
area, e.g., Paracels, it is unwilling to negotiate, let alone
participate in any cooperrative scheme”.(Một bài học khác có thể thu
được từ phương pháp của Bắc Kinh trong các tranh chấp lãnh thổ khác đó
là họ có thể sẵn sàng đàm phán và thậm chí tham gia vào một thỏa thuận
khai thác chung (song phương) khi họ không nắm được quyền kiểm soát hoàn
toàn lãnh thổ đang tranh chấp, ví dụ, quần đảo Trường Sa hay Điếu ngư, ở
biển Đông Trung Hoa. Mặt khác, nếu họ nắm quyền kiểm soát chắc chắn
hoàn toàn khu vực, ví dụ quần đảo Hoàng Sa, họ sẽ không muốn đàm phán,
chứ đừng nói tới việc tham gia vào bất kỳ một chương trình hợp tác
nào).[58]
3. Phương án “Hợp tác cùng phát triển” của Việt Nam
Việt Nam cũng đưa ra một sáng kiến cho việc hợp tác
khai thác chung trên biển Đông đó là đề xuất “hợp tác cùng phát
triển”.[59]Đề xuất này được biết tới lần đầu tiên là do ông Đỗ Mười nêu
ra chính thức trong chuyến thăm Thailand tháng 10 năm 1993 và sau đó chủ
trương này đã và đang được Việt Nam triển khai trên thực tế.
Khác với đề xuất “gác tranh chấp, cùng khai thác” của
Trung Quốc, chủ trương “hợp tác cùng phát triển” trong các khu vực
tranh chấp bao gồm không chỉ thăm dò, khai thác tài nguyên mà còn bao
gồm các lĩnh vực khác như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học
biển, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, giữ gìn an toàn và an ninh hàng hải,
chống cướp biển… và các lĩnh vực khác phù hợp với lợi ích của các bên
liên quan. Hợp tác cùng phát triển trong khu vực biển Đông nhằm mục
đích đảm bảo và phục vụ lợi ích của các bên liên quan, biến biển Đông
thành một khu vực hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Các bên
tranh chấp phải tuân thủ các nguyên tắc được nêu trong Tuyên bố ASEAN –
Trung Quốc năm 2002 về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), Công
ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) và các nguyên tắc
của luật pháp quốc tế được thừa nhận rộng rãi.
Về phạm vi thực hiện, việc hợp tác cùng phát triển
được thực hiện ở những vùng có tranh chấp thực sự. Khu vực có tranh chấp
thực sự là khu vực chồng lấn bởi những đòi hỏi chủ quyền của các bên
liên quan có căn cứ pháp lý và lịch sử vững chắc, phù hợp với quy định
của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật biển năm 1982 và
được các bên thừa nhận là vùng có tranh chấp.
Theo đó, trên biển Đông các vùng đang có tranh chấp
cơ bản là khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và khu vực ngoài 200 hải
lý tính từ đường cơ sở của quốc gia ven biển. Ngoài ra còn có thể kể đến
các vùng thềm lục địa ở phía Nam và Tây Nam Việt Nam cũng được coi là
vùng chồng lấn được các bên thừa nhận những đòi hỏi chủ quyền của nhau
giữa Việt Nam với Malaysia; giữa Việt Nam, Thailand và Malaysia hay tại
vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia.
Tại các vùng biển này, thực tế cho thấy, việc triển
khai hợp tác cùng phát triển được tiến hành khá thuận lợi do đã đáp ứng
được các tiêu chí về việc xác định vùng thực sự có tranh chấp. Như vậy,
mọi hoạt động của bất cứ bên nào tại các vùng biển của một quốc gia mà
không có sự chấp thuận của quốc gia đó sẽ được coi là hành vi vi phạm
chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển. Do đó, những hành vi
như vậy không thể được coi là tinh thần hợp tác và cần bị loại trừ nhằm
tránh gây những căng thẳng trong khu vực. Ví dụ như hành động Trung
Quốc và Philipines cùng nhau ký kết một thỏa thuận thăm dò địa chấn biển
chung tại một khu vực có tranh chấp nhiều bên, trong đó có Việt Nam, mà
không có sự đồng thuận của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam
và đi ngược lại tinh thần của DOC. Sau khi Việt Nam kiên quyết phản đối,
Trung Quốc và Philippines phải huỷ bỏ thỏa thuận hai bên đó và ký kết
một thỏa thuận ba bên về thăm dò địa chấn tại khu vực này.
4. Kết luận
Cuộc tranh chấp biển Đông vẫn đang là một tranh chấp
phức tạp, khó giải quyết, và chừng nào mà tranh chấp này vẫn còn tồn tại
thì khu vực vẫn bị đe dọa bởi sự mất ổn định. Những tranh chấp trên các
khu vực biển Đông, đặc biệt là khu vực hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
thể hiện sự đan xen, cân nhắc thể hiện cả chính sách đối nội và đối
ngoại. Các quốc gia không dễ dàng từ bỏ chủ quyền của mình đối với các
khu vực này. Chủ quyền đều được mỗi quốc gia quan niệm là đặc biệt
thiêng liêng. Chính vì vậy, hiện nay các giải pháp cho việc giải quyết
vấn đề chủ quyền cho các bên yêu sách vẫn còn mờ mịt, chưa có lối ra. Để
đi đến một giải pháp lâu dài cho cuộc tranh chấp, các quốc gia có liên
quan phải sẵn sàng không quá đề cao tinh thần dân tộc, giảm bớt sự nghi
kỵ lẫn nhau và chấp nhận nhân nhượng, thỏa hiệp. Điều này sẽ dẫn đến sự
hợp tác, cùng có lợi.
Cho đến nay, một số cuộc thương lượng nhằm đi đến
thỏa thuận về việc phát triển tài nguyên tại một số vùng tranh chấp khác
nhau trên thế giới đã mang lại kết quả và được coi như là những khuôn
mẫu cho việc quản lý phát triển tài nguyên trong biển Đông. Cũng giống
như tranh chấp biển Đông, mỗi thỏa thuận đều nhằm giải quyết những vấn
đề liên quan đến tranh chấp chủ quyền, quyền tài phán biển, những tính
toán về địa chiến lược và quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Qua các thỏa thuận này, chúng ta có thể học hỏi được nhiều điều
về những cách thức và biện pháp mà những thỏa thuận này đã xử lý đối với
vấn đề chủ quyền hóc búa, cũng như vấn đề phạm vi và chiều hướng của
các quyền, những nhiệm vụ và trách nhiệm của các bên liên quan.
Đối với tranh chấp biển Đông, cũng đã có nhiều ý
tưởng, đề xuất về những giải pháp tạm thời cụ thể: từ mức độ xây dựng
lòng tin, đến quản lý cùng khai thác tài nguyên chung tại khu vực này.
Trong khu vực biển Đông, nhiều mô hình hợp tác chung rất thành công,
nhưng cũng không ít mô hình sẽ mãi mãi không thể trở thành hiện thực.
Qua phân tích về những trường hợp hợp tác nói trên, những mô hình hợp
tác thành công phải thỏa mãn được các điều kiện sau:
1) Đáp ứng được nhu cầu và lợi ích chung của các bên;
2) Việc khai thác chung được thực hiện trong một khu
vực chồng lấn được xác định rõ ràng, tạo bởi các tuyên bố chủ quyền của
các bên phù hợp với luật pháp quốc tế – đây là tiêu chí quan trọng nhất
trong bất kỳ thỏa thuận khai thác chung nào.
3) Cơ chế, phương thức hợp tác khai thác chung trên
cơ sở luật pháp quốc tế. Tranh chấp biển Đông là một trong những tranh
chấp phức tạp nhất thế giới, vì thế không có một mô hình nào hay phương
thức hợp tác chung duy nhất nào có thể áp dụng thành công ở biển Đông.
Trong đó, điều quan trọng là hợp tác khai thác chung phải đảm bảo phân
chia lợi ích của các bên một cách bình đẳng.
4) Việc hợp tác khai thác chung không ảnh hưởng đến
quá trình đàm phán cũng như yêu sách chủ quyền của mỗi bên. Cơ sở để các
bên có thể đạt được một thỏa thuận về hợp tác cùng phát triển là việc
hợp tác này không phương hại đến lập trường, quá trình đàm phán cũng như
giải pháp cuối cùng là phân định vùng biển chồng lấn giữa các bên. Có
thể nói, bối cảnh tranh chấp tại biển Đông hiện nay về mặt chính trị,
các nước trong khu vực chưa có được lòng tin ở mức độ nhất định để có
thể gác tranh chấp sang một bên và tiến hành hợp tác khai thác chung
trong toàn bộ biển Đông.
Việc hợp tác cùng khai thác chung tại khu vực biển
Đông tranh chấp chỉ có thể được thực hiện thành công và thực sự góp phần
biến biển Đông thành một khu vực hòa bình, hợp tác và thịnh vượng khi
các bên thể hiện thiện chí và quyết tâm trong việc hợp tác, qua đó xây
dựng lòng tin, đẩy lùi nguy cơ xung đột, phục vụ lợi ích của mình cũng
như lợi ích chung của khu vực. Có thể nói, trong tranh chấp biển Đông,
mối quan tâm, lợi ích của các bên trong tranh chấp đôi khi không đồng
nhất, do đó bất kỳ một đề xuất hợp tác nào chỉ tập trung vào một đối
tượng duy nhất và áp dụng chung cho tất cả các bên tranh chấp biển Đông
đều khó thành công. Ví dụ như lập trường chính trị của Trung Quốc nhằm
đề nghị gác lại vấn đề chủ quyền, khai thác chung tài nguyên của các
quần đảo này không được các bên tranh chấp chấp nhận vì Trung Quốc vẫn
luôn đưa ra yêu sách của bên mạnh nhất. Trong bối cảnh như vậy, đề xuất
“hợp tác cùng phát triển” với nội dung hợp tác đa dạng, đáp ứng được lợi
ích và mối quan tâm của các bên là phù hợp hơn cả. Trên thực tế, tại
một số khu vực tranh chấp trên thế giới ví dụ như giữa Nhật với Trung
Quốc, giữa Nhật và Nga, bên cạnh việc hợp tác khai thác chung dầu khí,
các bên còn thỏa thuận thành lập các vùng đánh cá chung để đáp ứng lợi
ích truyền thống của nhân dân các bên liên quan.
Những ví dụ về hợp tác cùng phát triển thành công
trong thời gian qua đã cho thấy một điều rằng, nếu các quốc gia quyết
tâm và thiện chí cũng như tuân thủ các nguyên tắc hợp tác đã định thì
chắc chắn lợi ích của tất cả các nước đối với biển Đông sẽ được bảo đảm,
đồng thời nguyện vọng biến biển Đông thành khu vực hòa bình, hợp tác và
thịnh vượng sẽ trở thành một hiện thực không xa.
Chú thích
[1] Ji Guoxing, “Rough Water in the South China Sea:
Navigation Issues and Confidence – building Measure”, East-West Center,
2001.
[2] Christopher C. Joyner, Toward a Spratly Resource Development Authority: Procursor Agreements and Confidence Building Measures, ed. Myron H. Norquist and John Norton Moroe, Security Flashpoints: Oil,
Islands, Sea Access and Military Confrontation (1997).
[3] Scott Snyder, Brad Glosserman and Ralph A. Cossa, “Confidence Building Measures in the SCS”, (2001), No.2, Issue and Insights, at 10.
[4] Bruce and Jean Blanche, Oil and Regional Stability in the South China Sea, Jane’s Intelligence Review, No. 1995, at 511 – 514.
[5] Annual report to congress, Military Power of the People’s Republic of China, 2009, Office of the Secretary of Defense, Department of Defence, United of States of America, p. 3
[6] Annual report to congress, Military Power of the People’s Republic of China, 2009, Office of the Secretary of Defense, Department of Defence, United of States of America, p. 4.
[7] M. Leifer, Chinese economic reform: The impact on policy in the South China Sea, in G. Segal and R. H. Yang (eds) Chinese Economic Reform: The impact on Security, London: Routledge, 1996, p. 142.
[8] James Holmes , Toshi Yoshihara , A Chinese turn to Mahan? In China Brief, http://www.jamestown.org/programs/chinabrief/single/?tx_ttnews%5Btt_news%5D=35172&tx_ttnews%5BbackPid%5D=414&no_cache=1
[9] Chuỗi đảo thứ nhất (first island chain): Năm
1985, Quân đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc đề ra chiến lược phòng thủ
trên biển, trong đó đề cập tới khả năng hoạt động và thống trị ngoài
khơi trong khu vực “hai chuỗi đảo”: Chuỗi đảo thứ nhất được mô tả như
một đường nối qua các đảo Kurile, Nhật Bản, đảo Ryukyu, Đài Loan,
Philippines và Indonesia (từ Borneo tới Natuna Besar). Chuỗi đảo thứ hai
chạy từ đường Bắc – Nam từ Kuriles qua Nhật Bản, các đảo Bonin, các đảo
Mariana, các đảo Caroline và Indonesia. Hai chuỗi đảo này vẽ thành một
khu vực biển rộng khoảng 1800 dặm biển tính từ bờ biển Trung Quốc, bao
gồm phần lớn Biển Hoa Đông và các tuyến đường giao thông biển tại Đông
Á. Xem thêm: http://www.globalsecurity.org/milita…e-offshore.htm
[10] Christopher C. Joyner, The Spratly Islands Dispute in the South China Sea: Problem, Policies and Prospects for Diplomatic Accomodation, tr, ,
[16] Mark J. Valencia, Jon M. Van Dyke, and Noel A. Ludwig, Sharing the resources of the South China Sea, University of Hawaii, 1997, 278, p33
[21] Với điều kiện đảo đó phải thỏa mãn điều 121 UNCLOS.
[22] Christopher C. Joyner, The Spratly Islands Dispute in the South China Sea: Problem, Policies and Prospects for Diplomatic Accomodation, p. 71, http://community.middlebury.edu/~scs/docs/Joyner,%20Spratly%20Islands%20Dispute.pdf
[23] Christopher C. Joyner, The Spratly Islands Dispute in the South China Sea: Problem, Policies and Prospects for Diplomatic Accomodation, p. 72,http://community.middlebury.edu/~scs/docs/Joyner,%20Spratly%20Islands%20Dispute.pdf
[24] Christopher C. Joyner, The Spratly Islands Dispute in the South China Sea: Problem, Policies and Prospects for Diplomatic Accomodation, p.72, http://community.middlebury.edu/~scs/docs/Joyner,%20Spratly%20Islands%20Dispute.pdf
[25] Brice M. Clagett, Covington & Burling, Washington, DC , "Competing Claims of Vietnam and China in the Vanguard Bank and Blue Dragon Areas of the South China Sea", Part I, Oil & Gas Law & Taxation Review (UK), no. 10 (1995) pp 375-388.
[26] Brice M. Clagett, Covington & Burling, Washington, DC , "Competing Claims of Vietnam and China in the Vanguard Bank and Blue Dragon Areas of the South China Sea", Part I, Oil & Gas Law & Taxation Review (UK), no. 10 (1995) pp 375-388.
[27] Brice M. Clagett, Covington & Burling, Washington, DC , "Competing Claims of Vietnam and China in the Vanguard Bank and Blue Dragon Areas of the South China Sea", Part I, Oil & Gas Law & Taxation Review (UK), no. 10 (1995) pp 375-388.
[28] Mark J. Valencia, John M. Van Dyke, and Noel A. Ludwig, Sharing the resouces of the South China Sea, University of Hawaii’s Press, 1997, 278, p. 79
[29] Christopher C. Joyner, The Spratly Islands Dispute in the South China Sea: Problem, Policies and Prospects for Diplomatic Accomodation, p. 72, http://community.middlebury.edu/~scs/docs/Joyner,%20Spratly%20Islands%20Dispute.pdf
[30] Daniel Dzurek, The Spatly Islands Dispute: Who’s on first?, International Boundary Reseach Unit, Maritime Brief, Volume 2, Number 1, p. 39
[32] Daniel Dzurek, The Spatly Islands Dispute: Who’s on first?, International Boundary Reseach Unit, Maritime Brief, Volume 2, Number 1, p. 40
[33]http://www.aseansec.org/13163.htm
[42] Theo Hiến chương Liên Hợp Quốc thì Tòa án quốc tế ICJ là Toà thường trực của LHQ.
[43] Có thể tham khảo những phán quyết của ICJ tại website: http://www.icj-cij.org/
[44] Nguyễn Hồng Thao, Tòa án Công lý Quốc tế, nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2000, tr. 60
[45] Monique Chemillier- Gendreau, Sovereignty over Paracel and Spratly Islands, Kluwer Law International, 2000, p. 24
[46] Monique Chemillier- Gendreau, Sovereignty over Paracel and Spratly Islands, Kluwer Law International, 2000, p. 26
[47] Monique Chemillier- Gendreau, Sovereignty over Paracel and Spratly Islands, Kluwer Law International, 2000, p.139
[48] Monique Chemillier- Gendreau, Sovereignty over Paracel and Spratly Islands, Kluwer Law International, 2000, p.33
[49] Mark J. Valencia, John M. Van Dyke, and Noel A. Ludwig, Sharing the resouces of the South China Sea, University of Hawaii’s Press, 1997, 278, p. 62
[50] Monique Chemillier- Gendreau, Sovereignty over Paracel and Spratly Islands, Kluwer Law International, 2000, p.140
[53] Mark J. Valencia, John M. Van Dyke, and Noel A. Ludwig, Sharing the resouces of the South China Sea, University of Hawaii’s Press, 1997, 278, p. 99
[54] Bộ ngoại giao – Ban biên giới, Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của luật biển ở Việt Nam, Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, 239, tr. 74, 100, 111, 117, 133, 144
[55] Mark J. Valencia, John M. Van Dyke, and Noel A. Ludwig, Sharing the resouces of the South China Sea, University of Hawaii’s Press, 1997, 278, p. 143 – 146
[56] Có thể xem thêm ý kiến của Angchenguan tại website: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/01/080123_viettrungangchenguan.shtml
[58] Mark J. Valencia, John M. Van Dyke, and Noel A. Ludwig, Sharing the resouces of the South China Sea, University of Hawaii’s Press, 1997, 278, p. 87
[59] Tuyên bố 4 điểm trong chuyến thăm Thái lan của Tổng bí thư Đỗ Mười
SOURCE: TẠP CHÍ THỜI ĐẠI MỚI SỐ 19 – THÁNG 7/2010
Trích dẫn từ: http://tapchithoidai.org/ThoiDai19/201019_HoangViet.htm



11:57 AM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment