PGS.TS. NGUYỄN HỒNG THAO – Đại học Quốc gia Hà Nội
Công
ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) đã có hiệu lực
được 15 năm (1994-2009). Theo các điều khoản của UNCLOS, mỗi quốc gia
ven biển (QGVB) có quyền có lãnh hải 12 hải lý, đặc quyền kinh tế 200
hải lý và thềm lục địa. Điều 76, khoản 8 của UNCLOS quy định: “QGVB
thông báo những thông tin về các ranh giới thềm lục địa của mình, khi
thềm lục địa đó mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải, cho Uỷ ban ranh giới thềm lục địa (CLCS) được thành
lập theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện công bằng về địa lý. CLCS
gửi cho các QGVB những kiến nghị về các vấn đề liên quan đến việc ấn
định ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới do một quốc gia
ven biển ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát và có tính
chất bắt buộc”.
Thời hạn trình CLCS là 10 năm kể từ ngày Công ước
UNCLOS có hiệu lực với quốc gia thành viên (Phụ lục II, điều 4 UNCLOS).
Tuy nhiên thời hạn cuối cùng đối với các quốc gia ven biển thành viên
của Công ước đã được ấn định là 13/5/2009 bằng Quyết định ngày 29/5/2001
(SPLOS/72) được thông qua trong phiên họp lần thứ 11 của các quốc gia
thành viên Công ước Luật biển. Tới ngày đó, các quốc gia phải lựa chọn
một trong ba khả năng: 1) trình hồ sơ cuối cùng về ranh giới ngoài thềm
lục địa mở rộng ra ngoài 200 M (dặm) tính từ đường cơ sở cho CLCS. Một
quốc gia có thể trình hồ sơ toàn thể hay một phần. Quốc gia có thể trình
một hoặc nhiều hồ sơ từng phần thay cho một hồ sơ toàn thể cho cả vùng
biển. Hai hay nhiều quốc gia có thể trình chung một hồ sơ theo Mục 4 Phụ
lục I Quy định thủ tục của CLCS; 2) Trình Tổng thư ký các thông tin ban
đầu về ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng ra ngoài 200 M và bản mô tả
tình hình chuẩn bị và ngày dự kiến trình hồ sơ phù hợp với các yêu cầu
của điều 76 của Công ước và với Quy định thủ tục và hướng dẫn khoa học
và kỹ thuật của CLCS; 3) Bảo lưu các quyền của mình về thềm lục địa bằng
cách phản đối các hồ sơ đã được trình. Quốc gia nào không tiến hành bất
kỳ hành động nào nói trên sẽ được coi là không quan tâm tới việc mở
rộng thềm lục địa ra ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở của họ.
Theo Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS) mỗi
nước ven biển được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế rộng tối đa là 200
hải lý tính từ đường cơ sở của nước đó. Trong vùng đặc quyền kinh tế,
nước ven biển có đặc quyền khai thác kinh tế đối với biển và đáy biển.
UNCLOS cũng quy định là nếu thềm lục địa của
nước ven biển kéo dài ra xa hơn 200 hải lý thì nước đó có đặc quyền khai
thác tài nguyên dưới đáy biển trong một vùng bên ngoài 200 hải lý gọi
là thềm lục địa mở rộng.
Quy định về thềm lục địa mở rộng
Theo UNCLOS, thềm lục địa mở rộng của nước ven
biển không được ra xa hơn bất cứ “đường công thức” hay “đường giới hạn”
quy định như sau:
1. Đường công thức: Nước ven biển có thể kết hợp 2 đường sau để vạch đường công thức sao cho có lợi nhất cho mình:
a. Đường Hedberg: Đường nối các điểm cách chân dốc thềm lục địa không quá 60 hải lý.
b. Đường Gardiner: Đường nối các điểm nơi đá trầm tích dày hơn 1% khoảng cách tới chân dốc thềm lục địa.
2. Đường giới hạn: Nước ven biển có thể kết hợp 2 đường sau để vạch đường giới hạn sao cho có lợi nhất cho mình:
a. Đường cách đường cơ sở 350 hải lý.
b. Đường cách đường đẳng sâu 2500 m (là đường nối
liền các điểm có độ sâu 2500 m) 100 hải lý. UNCLOS quy định là nước ven
biển phải đăng ký yêu sách về phạm vi của thềm lục địa mở rộng với Ủy
ban Ranh giới Thềm lục địa (Commission on the Limits of the Continental
Shelf – CLCS) trong vòng 10 năm kể từ khi UNCLOS bắt đầu có hiệu lực với
nước đó hay từ khi Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa ban hành hướng dẫn
khoa học kỹ thuật về ranh giới thềm lục địa, ngày 13/05/1999. Nếu nước
ven biển không đăng ký kịp thời hạn thì vùng thềm lục địa mở rộng đó có
thể được ban cho nước đăng ký kịp thời hạn, hay có thể được cho là tài
sản chung của nhân loại.
Sau khi nhận được hồ sơ của nước ven biển, CLCS
sẽ khuyến nghị về ranh giới thềm lục địa mở rộng của nước này. Nếu nước
này vạch ranh giới theo khuyến nghị đó thì ranh giới đó sẽ có tính chất
ràng buộc vĩnh viễn.
Đường cơ sở
Trong việc khuyến nghị, nếu CLCS cần xác định là
thềm lục địa của nước ven biển có thật sự ra cách đường cơ sở hơn 200
hải lý, hay nếu nước ven biển muốn dùng đường giới hạn 350 hải lý trong
việc giới hạn thềm lục địa mở rộng, thì CLCS có thể yêu cầu nước ven
biển xác định đường cơ sở của mình.
Trên thực tế, đường cơ sở của nước ven biển có
thể không phù hợp với UNCLOS và đã bị những nước khác phản đối, thí dụ
như đường cơ sở 1982 của Việt Nam và đường cơ sở 1996 của Trung Quốc.
Trong trường hợp này, CLCS có thể khuyến nghị nước ven biển về phương
pháp để tính đường giới hạn 350 hải lý, thí dụ như tính đường này từ một
đường ad hoc phù hợp với quy định của UNCLOS về đường cơ sở, thay vì
tính từ đường cơ sở của nước đó.
Tranh chấp chủ quyền
CLCS không có thẩm quyền để phân xử tranh chấp
chủ quyền đối với vùng đất được dùng làm cơ sở để đăng ký thềm lục địa
mở rộng, hay tranh chấp do các vùng biển của các nước khác nhau nằm
chồng lấn lên nhau. Trong trường hợp tồn tại tranh chấp, các nước trong
tranh chấp có thể tiến hành như sau:
• Đăng ký toàn bộ thềm lục địa mở rộng, nêu rõ những vùng bị tranh chấp.
• Chỉ đăng ký yêu sách cho phần không bị tranh
chấp và sẽ đăng ký yêu sách cho phần bị tranh chấp sau, có thể sau hạn
định 10 năm.
• Một số nước trong tranh chấp có thể đăng ký
chung phần chỉ có những nước này tranh chấp và những nước này sẽ phân
định phần này với nhau sau.
CLCS chỉ xét đăng ký cho vùng bị tranh chấp nếu
tất cả những nước trong tranh chấp đồng thuận với việc đó. Tuy việc đăng
ký với CLCS và khuyến nghị của CLCS không ảnh hưởng tới việc phân định
chủ quyền giữa các nước trong tranh chấp Biển Đông, tranh chấp này sẽ
ảnh hưởng tới việc các nước trong tranh chấp nên đăng ký thế nào và tới
việc CLCS sẽ xử lý hồ sơ đăng ký thế nào.
Phải đăng ký trước ngày 13/05/2009
Việt Nam phê chuẩn UNCLOS ngày 25/07/1994 cho nên
Việt Nam phải đăng ký yêu sách về thềm lục địa mở rộng với CLCS trước
ngày 13/05/2009. Nếu lỡ thời hạn này Việt Nam có thể sẽ mặc nhiên mất
tất cả tài nguyên trong thềm lục địa bên ngoài 200 hải lý. Vì việc đăng
ký thềm lục địa mở rộng có ảnh hưởng lớn tới quyền lợi quốc gia, nhân
dân và Nhà nước Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ của mình trong công việc
quan trọng này.
Biển Đông được bao bọc bởi 10 quốc gia và vùng lãnh
thổ, trong số đó có Trung Quốc, Philippin, Malaysia, Brunei, Indonesia
và Việt Nam có khả năng xem xét vấn đề trình ranh giới ngoài thềm lục
địa. Theo Điều 76, khoản 8 của Công ước Luật biển, các nước trên có thể
có 3 lựa chọn sau:
1. Trình hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa (RGNTLĐ) lên Uỷ ban ranh giới thềm lục địa (CLCS).
Philippin, Malaysia, Indonesia và Việt Nam đã lựa chọn cách này từng phần.
Ngày 16/6/2008, Cộng hoà Indonesia trình CLCS, phù
hợp với Điều 76, khoản 8 của Công ước Luật biển, thông tin về ranh giới
thềm lục địa ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở quần đảo dùng để tính
chiều rộng lãnh hải của Indonesia ở Tây bắc quần đảo Sumatra. Indonesia
đã chuẩn bị trình CLCS tổng hợp các số liệu đo sâu do Dự án số hoá quản
lý tài nguyên biển (DMRM), ETOPO-2 cũng như các số liệu khảo sát địa
chấn và độ dày trầm tích thu thập từ những năm 1999. Ranh giới ngoài
thềm lục địa ở khu vực Tây bắc Sumatra trong bản trình một phần này được
xác định theo công thức 1% bề dày trầm tích (công thức Gardiner hoặc
Irish). Theo Indonesia, khu vực này không phải là đối tượng tranh chấp
giữa Indonesia với bất kỳ quốc gia nào. Indonesia cũng bảo lưu việc
trình ranh giới ngoài thềm lục địa của Indonesia tại những khu vực khác
trong tương lai.
Ngày 8/4/2009, Cộng hoà Philippin là quốc gia thứ hai
trong khu vực trình báo cáo một phần cho CLCS. Ranh giới Thềm lục địa
ngoài 200 M từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải trong khu
vực Rãnh Benham. Khu vực này được giới hạn về phía Bắc và Đông bởi bồn
Tây Philippin và về phía Tây và Nam bởi quần đảo Luzon. Philippin cho
rằng báo cáo với các số liệu của khu vực Rãnh Benham chạy dọc theo bờ
Thái Bình Dương và hoàn toàn không ảnh hưởng đến phân định biển với các
nước có bờ biển đối diện hay tiếp giáp. Ranh giới ngoài của mảng thềm
lục địa thuộc khu vực Rãnh Benham được xác định hoàn toàn theo Điều 76,
khoản 8 (a) (i). Các số liệu thuỷ đạc thu thập từ các chuyến khảo sát
trong những năm 2004-2008. Tuy nhiên Philippin cũng bảo lưu quyền của
mình được trình các báo cáo RGNTLĐ ngoài 200 hải lý cho các khu vực khác
trong tương lai phù hợp Phụ lục I của Quy chế và thủ tục của CLCS. Khu
vực phái Tây trong biển Đông có thể được coi là một trong những khu vực
như vậy.
Ngày 7/5/2009, Malaysia và Việt Nam trình báo cáo
chung về khu vực phía Nam Biển Đông. Khu vực xác định chung được giới
hạn bởi điểm cắt của vòng cung bán kính 200 hải lý với ranh giới thềm
lục địa Malaysia và Philippin. Ở phía Đông tại điểm A, điểm cắt của hai
vòng cung bán kính 200 hải lý từ phía Malaysia về phía Tây Nam điểm A
(điểm B và C), bởi đường biên giới theo Hiệp định thềm lục địa ký giữa
Malaysia và Indonesia năm 1969 (điểm D và E), đường ranh giới theo Hiệp
định ranh giới thềm lục địa Việt Nam-Indonesia năm 2003 về phía Tây Bắc
(điểm F và G) và điểm giao của vòng cung từ ranh giới phía Việt Nam về
phía Đông Bắc (điểm H và I). Khu vực xác định hoàn toàn nằm ngoài 200
hải lý tính từ đường cơ sở lãnh thổ lục địa của Malaysia và Việt Nam và
nằm ngoài các ranh giới đã thoả thuận với các nước hữu quan. Đây là lý
do hai nước khẳng định báo cáo chung không làm tổn hại các vấn đề liên
quan đến phân định ranh giới giữa các quốc gia có bờ biển đối diện hoặc
tiếp giáp. Theo các nguồn tin ngoại giao, việc trình báo cáo chung
Malaysia và Việt Nam đã được thông báo cho các nước liên quan trước ngày
6/5/2009.
Khu vực Bắc (VNM-N) do Việt Nam trình Báo cáo riêng
ngày 8/5/2009 nằm ở phía Đông Bắc Biển Đông. Việt Nam giữ quan điểm rằng
nước này thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trong
các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam phù hợp Công ước Luật biển 1982.
Việt Nam đã ký Công ước Luật biển năm 1982 ngày 10/12/1982 và phê chuẩn
ngày 23/6/1994. Căn cứ các điều khảon của Công ước Luật biển (điều 76,
khoản 1,4,5 và 7) và đặc điểm tự nhiên của bờ biển và thềm lục địa của
mình, Việt Nam giữ quan điểm có quyền thiết lập RGNTLĐ ngoài 200 hải lý
tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải CHXHCN Việt Nam.
Theo khoản 3 Phụ lục I của Quy tắc thủ tục, Báo cáo xác định ranh giới
ngoài của thềm lục địa khu vực Bắc (VNM-N) thuộc Việt Nam. Khu vực VNM-N
được xác định và giới hạn về phía Bắc bởi đường cách đều giữa đường cơ
sở lãnh hải Việt Nam và CHND Trung Hoa, ở phía Đông và phía Nam bởi ranh
giới ngoài thềm lục địa đựơc xác định trong Báo cáo phù hợp với điều 76
(8) của Công ước Luật biển, về phía Tây bởi đường 200 hải lý tính từ
đường cơ sở lãnh hải Việt Nam. Theo điều 76 (10) của Công ước Luật biển,
điều 9 Phụ lục II của Công ước Luật biển, quy tắc 46 và Phụ lục I của
Quy tắc thủ tục của CLCS, Việt Nam cho rằng khu vực thềm lục địa trong
Báo cáo không chồng lấn và tranh chấp và không ảnh hưởng gì đến vấn đề
phân định biển giữa Việt Nam và các quốc gia hữu quan. Việt Nam xác định
ranh giới ngoài thềm lục địa khu vực VNM-N theo cả hai phương pháp 1%
bề dày trầm tích (công thức Gardiner) và chân dốc lục địa + 60 hải lý
(công thức Hedberg). Báo cáo của Việt Nam được chuẩn bị trên cơ sở các
số liệu khảo sát mới nhất năm 2007, 2008 và các số liệu đã được công bố
bao gồm đo sâu, từ trường, trọng lực và địa chấn.
Tóm lại, chỉ có Việt Nam và Malaysia có báo cáo trong
Biển Đông. Indonesia và Philippin có báo cáo về các khu vực nằm ngoài
và không liên quan trực tiếp Biển Đông. Tuy nhiên, hai nước vẫn bảo lưu
quyền có các báo cáo bộ phận về các khu vực khác nằm ngoài 200 hải lý
tính từ đường cơ sở của mình.
2. Các thông tin ban đầu về ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hải lý.
Brunei và Trung Quốc lựa chọn cách này.
Ngày 11/5/2009, Trung Quốc trình các số liệu khảo sát
ban đầu về ranh giới ngoài thềm lục địa cho CLCS. Tuy nhiên, báo cáo
này chỉ nêu yêu sách phần thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý sườn
phía Tây của Máng Okinawa tại biển Hoa Đông chứ không phải trong biển
Đông. Trong báo cáo, Trung Quốc tuyên bố bảo lưu quyền đưa ra các yêu
sách bổ sung về thềm lục địa mở rộng trong biển Hoa Đông và bất kỳ đâu.
Trong biển Hoa Đông có các vùng chồng lấn yêu sách do Trung Quốc và Nhật
Bản đưa ra theo Công ước Luật biển. Trung Quốc luôn yêu sách thềm lục
địa phía ngoài Máng Okinawa trên cơ sở nguyên tắc kéo dài tự nhiên,
trong khi Nhật Bản yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa qua
đường trung tuyến biển Hoa Đông. Trung Quốc cho rằng, đảo đá của Nhật
Bản chỉ nên có lãnh hải 12 hải lý, trong khi Nhật giữ quan điểm các địa
vật này cần có vùng biển rộng hơn lãnh hải 12 hải lý.
Ngày 12/5/2009, Brunei thông báo nước này đã có những
cố gắng quan trọng trong việc chuẩn bị trình báo cáo toàn thể lên CLCS
phù hợp với điều 76, khoản 8 của Công ước Luật biển. Brunei đã nghiên
cứu và phân tích khối lượng lớn các số liệu liên quan đến thềm lục địa.
Các số liệu này bao gồm các số liệu địa tầng, địa chất, địa vật lý và
địa chấn. Tuy nhiên, Brunei chỉ có thể nộp báo cáo toàn phần lên CLCS
sau ngày 13/5/2009. Báo cáo toàn phần của Brunei sẽ phù hợp với điều 76
của Công ước Luật biển là sự kéo dài tự nhiên từ lãnh thổ Brunei mở rộng
qua các khu vực thềm Tây Bắc Borneo, Máng Tây bắc Borneo và khu vực
Vùng nguy hiểm (Trường Sa) tới tận rìa ngoài của đáy sâu đại dương thuộc
Bồn biển Đông. Điều đó có nghĩa rằng, báo cáo toàn phần của Brunei
trình CLCS sẽ thể hiện rìa ngoài của lục địa nằm trong phần chuyển tiếp
giữa Trường Sa và đáy sâu đại dương của Biển Đông, nằm ngoài 200 hải lý
tính từ đường cơ sở lãnh hải Brunei.
Với các thông tin ban đầu này, cả Trung Quốc và
Brunei dường như đều thể hiện ý định sẽ ấn định ranh giới ngoài thềm lục
địa ngoài 200 hải lý từ lãnh thổ của mình trên cơ sở nguyên tắc kéo dài
tự nhiên. Thực tế hành động của Trung Quốc xuất phát từ thái độ khác
nhau đối với hai biển. Trong biển Hoa Đông, tranh chấp đảo Điếu Ngư giữa
Nhật Bản và Trung Quốc dường như không cản trở Bắc Kinh có một báo cáo
toàn phần về thềm lục địa mở rộng trình CLCS. Ngược lại, trong Biển
Đông, các tranh chấp yêu sách về các đảo với các bên hữu quan và “vùng
biển truyền thống” là cơ sở cho việc Trung Quốc phản đối báo cáo chung
Việt Nam – Malaysia và báo cáo riêng của Việt Nam tại vùng phía Bắc
VNM-N lên CLCS. Philippin cũng chọn cách thứ ba này với những toan tính
riêng.
3. Phản đối của Trung Quốc và Philippin.
Ngày 8/5/2009, Phái đoàn đại diện của Trung Quốc tại
Liên hợp quốc đã gửi công hàm tới Tổng thư ký Liên hợp quốc yêu cầu CLCS
không xem xét báo cáo chung Việt Nam – Malaysia và sau đó là báo cáo
riêng của Việt Nam. Trung Quốc cho rằng, các báo cáo này đã làm tổn hại
chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước và
các đảo nằm trong đường đứt khúc 9 đoạn (bản đồ kèm theo Công hàm). Đây
là lần đầu tiên Trung Quốc đưa đường đứt khúc ra tại Liên hợp quốc trong
bối cảnh yêu sách phân định biển của Trung Quốc ở Biển Đông. Đã có một
số bình luận về phản đối của Trung Quốc không dựa trên bất kỳ một tiêu
chí khoa học nào của Công ước Luật biển về xác định ranh giới ngoài thềm
lục địa. Nếu trong biển Hoa Đông, các tiêu chí khoa học của Công ước
Luật biển được Trung Quốc sử dụng trong quan hệ đối với Nhật Bản thì
trong Biển Đông, các tiêu chí này đã được thay bằng một đường đứt khúc
mơ hồ và không thể chấp nhận được. Khía cạnh khoa học của việc xác định
RGNTLĐ đã được Trung Quốc gắn với vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên Hoàng
Sa và Trường Sa. Trong biển Hoa Đông, báo cáo trình của Trung Quốc tuyên
bố Trung Quốc sẽ “thông qua thương lượng hoà bình, phân định thềm lục
địa giữa các quốc gia có bờ biển đối diện hay tiếp giáp bằng các thoả
thuận trên cơ sở luật pháp quốc tế và nguyên tắc công bằng”. Tuy nhiên
trong Biển Đông, Bắc Kinh lại giữ yên lặng về khả năng có đàm phán hoà
bình về vấn đề trên.
Ngược lại với quan điểm của Trung Quốc, trong phản
đối của Philippin đưa ra ngày 4/8/2009 lại bảo lưu khả năng thảo luận.
Trong Công hàm nói báo cáo chung Việt Nam – Malaysia đã đưa yêu sách lên
vùng có tranh chấp vì nó chồng lấn lên các vùng thuộc Philippin.
Philippin yêu cầu CLCS ngừng việc xem xét các báo cáo trên cho đến khi
các bên có sự thảo luận và giải quyết tranh chấp giữa họ.
Như vậy, trong cả hai phản đối, Trung Quốc và
Philippin đều gắn vấn đề xác định khoa học ranh giới ngoài thềm lục địa
với các tranh chấp lãnh thổ trên các đảo ở Biển Đông. Ngược lại, Việt
Nam và Malaysia trình báo cáo RGNTLĐ của mình không đề cập gì đến các
đảo tranh chấp. Các tuyên bố này rất rõ ràng. Đây là hai vấn đề khác
biệt. Báo cáo chung của Việt Nam và Malaysia xác định RGNTLĐ bên ngoài
200 hải lý là sự giải thích hợp pháp về việc thi hành các nghĩa vụ của
quốc gia ven biển với Công ước Luật biển 1982, phù hợp với các điều
khoản của Công ước Luật biển cũng như Quy tắc thủ tục của CLCS.
Trong Công hàm HA 24/09 ngày 20/5/2009, Phái đoàn đại
diện của Malaysia tại Liên hợp quốc khẳng định rằng, báo cáo chung
không làm tổn hại tới vấn đề phân định thềm lục địa giữa các quốc gia có
bờ biển đối diện hay tiếp giáp, phù hợp với điều 76 (10) của Công ước
Luật biển 1982, điều 9 của Phụ lục II của Công ước Luật biển, điều 46 và
các khoản 1,2 và 5 của Phụ lục I Quy tắc thủ tục của CLCS. Công hàm
cũng khẳng định lại báo cáo chung không ảnh hưởng đến lập trường các
quốc gia có tranh chấp đất liền và biển theo khoản 5 (b) Phụ lục I của
Quy tắc thủ tục của CLCS. Hai quốc gia đã mời các bên liên quan đàm phán
hoà bình để giải quyết tất cả các vấn đề nảy sinh trong Biển Đông.
4. Viễn cảnh sau tháng 5 năm 2009.
Theo điều 76 khoản 8 của Công ước Luật biển 1982, quá
trình xác định ranh giới ngoài thềm lục địa gồm nhiều giai đoạn. Trong
giai đoạn đầu, QGVB hữu quan tiến hành các khảo sát khoa học và thu thập
số liệu nhằm đánh giá liệu họ có quyền lập báo cáo phù hợp với điều 76
của Công ước Luật biển hay không. Báo cáo là quyền của quốc gia ven
biển, nhưng quyền này bị hạn chế bởi nghĩa vụ không làm ảnh hưởng đến
quyền của các bên khác, bao gồm quyền lợi của cộng đồng quốc tế và các
quốc gia liên quan. Lợi ích của cộng đồng quốc tế được CLCS xem xét bảo
vệ. Tuy nhiên, không dễ để xác định các quyền trên do sự giải thích khác
nhau của các bên liên quan đối với các điều khoản của Công ước Luật
biển 1982. Quyết định lập báo cáo hay không chỉ đơn phương thuộc QGVB có
tính đến các số liệu khảo sát khoa học thu thập được và phân tích, cũng
như thái độ của các quốc gia láng giềng. Trong giai đoạn hai, CLCS sẽ
xem xét báo cáo nhằm cân bằng quyền của quốc gia ven biển với cộng đồng
quốc tế. CLCS sẽ kiểm tra các số liệu nhận được trên quan điểm khoa học
và kỹ thuật trong khuôn khổ pháp lý của Công ước Luật biển 1982. Các
kiến nghị của CLCS sẽ trả lời cho các câu hỏi các số liệu khoa học nào
của quốc gia yêu sách có thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý sẽ được
chấp nhận, công thức nào sẽ được áp dụng đúng với điều 76 Công ước Luật
biển. Trong giai đoạn 3, QGVB và CLCS sẽ hợp tác với nhau để chỉnh sửa
Báo cáo cho phù hợp với các kiến nghị. “Quá trình tham vấn” này có thể
kéo dài vài lần cho đến khi báo cáo của QGVB (bản chỉnh sửa hoặc mới) sẽ
phù hợp hoàn toàn với các kiến nghị của CLCS. Giai đoạn 4 là giai đoạn
thủ tục, trong đó QGVB và CLCS sẽ báo cáo về các số liệu và bản đồ thích
ứng với Tổng Thư ký Liên hợp quốc nhằm mục đích đăng ký. Đường RGNTLĐ
ngoài 200 hải lý đã được chỉnh sửa trên cơ sở các kiến nghị của CLCS và
đăng ký sẽ được công nhận là đường phân định cuối cùng và có giá trị bắt
buộc.
Về lý thuyết, đường phân định cuối cùng như vậy chỉ
đạt được trong các khu vực nơi khoảng cách giữa hai quốc gia đối diện
lớn hơn 400 hải lý và có sự tồn tại của Vùng đáy biển di sản chung của
loài người. Trong các biển có các yêu sách chồng lấn, đường phân định
cuối cùng thuộc thẩm quyền của các quốc gia hữu
quan. CLCS không có thẩm quyền đối với các yêu sách chồng lấn, mà chỉ có
thẩm quyền đưa ra các khuyến nghị trong trường hợp phạm
vi khu vực làm báo cáo không ảnh hưởng đến khu vực có yêu sách chồng
lấn được xác định rõ ràng. Thậm chí, trong trường hợp không có phản đối
từ các quốc gia hữu quan, giải pháp cuối cùng cũng không thể đạt được
trong một thời gian ngắn. Từ năm 2004 đến 2008 chỉ có 9 báo cáo
được trình cho CLCS đánh giá. Thời gian cho xem xét một báo cáo trung
bình là 20 tháng. Cho đến ngày 30/10/2009, CLCS đã nhận được 51 báo cáo
và 44 thông tin ban đầu. Với tốc độ 2 báo cáo được xem xét trong một năm
thì đến năm 2059, CLCS mới xem xét xong toàn bộ 51 báo cáo. Nếu xem xét
4 hoặc 8 báo cáo một năm thì thời hạn này sẽ là năm 2034 và 2022.
Biển Đông được thế giới quan tâm đến do có sự tranh
chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và tầm quan trọng
của các tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế. Các nước yêu sách đều là
thành viên của Công ước Luật biển 1982 và đều đã thể hiện quan điểm
thực thi điều 76 xác định RGNTLĐ ngoài 200 hải lý ở những cấp độ khác
nhau: trình báo cáo, thông tin ban đầu hoặc phản đối. Trong khi Việt Nam
và Malaysia có quan điểm tách biệt vấn đề trình báo cáo RGNTLĐ ngoài
200 hải lý với vấn đề tranh chấp chủ quyền trên các đảo, thì Trung Quốc
và Philippin lại muốn gắn kết hai vấn đề. Căn cứ theo lời văn trong
thông tin ban đầu, Brunei có vẻ chia sẻ quan điểm xác định RGNTLĐ mở
rộng ra ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở của lãnh thổ Brunei mà
không tính đến các đảo đang tranh chấp. Các bên có các quan điểm khác
biệt vì sự không rõ ràng của Công ước Luật biển đối với quy chế của các
đảo. Điều 121 (3) quy định: “Các đảo không thích hợp cho con người đến ở
hoặc không có đời sống kinh tế riêng sẽ không có đặc quyền kinh tế hoặc
thềm lục địa”. Điều khoản không rõ ràng này dẫn tới những cuộc tranh
luận nảy lửa giữa các học giả, các nhà nghiên cứu. Một số cho rằng, các
địa vật ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thể có vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa riêng. Số khác lại cho rằng một số những địa vật
trong quần đảo – nổi trên mặt nước khi thuỷ triều lên – có thể có được
các vùng biển khác hơn là chỉ có lãnh hải.
Sẽ dễ dàng cho việc xem xét của CLCS nếu Việt Nam và
Malaysia thành công trong việc thuyết phục các nước liên quan để không
có phản đối với các báo cáo của mình. Và họ đã có những bước đi và cố
gắng làm như vậy. Nếu không có phản đối và với số lượng lớn các báo cáo
trình CLCS thì báo cáo của Việt Nam và Malaysia cũng chỉ được xem xét
sớm là vào năm 2024 – 2035. Nói một cách khác, trong 20 năm tới, các báo
cáo sẽ chưa có tác động trực tiếp đến sự phát triển tình hình trong
Biển Đông. Tuy nhiên, từ cách nhìn khác, việc trình báo cáo lên CLCS và
các phản đối có thể đưa các quốc gia yêu sách trong Biển Đông đến mức độ
hợp tác mới. Trước hết, các hoạt động này cổ vũ các quốc gia tuân thủ
Công ước Luật biển 1982 nhiều hơn. Các nước chưa trình báo cáo sẽ đẩy
mạnh các hoạt động hoàn thành. Có thể xuất hiện những báo cáo từng phần
hoặc các báo cáo chung mới cũng như các phản đối mới. Nhưng qua đó, các
bên sẽ hiểu nhau hơn, thể hiện rõ hơn lập trường về các vấn đề cụ thể,
tạo diễn đàn trao đổi. Mặt khác, chúng khuyến khích các bên có được
những thảo luận nghiêm chỉnh về quy chế của các đảo theo điều 121 (3)
của Công ước Luật biển và vấn đề RGNTLĐ 200 hải lý. Đồng thời, chúng
khuyến khích các bên làm rõ các đường yêu sách của mình phải phù hợp với
các tiêu chí pháp lý, khoa học và trung lập, khách quan của Công ước
Luật biển. Làm việc cùng nhau sẽ tạo ra sự hợp tác mới trong giải quyết
các vấn đề phát sinh.
Công ước Luật biển 1982 phải là cơ sở chung và cao
nhất cho tất cả các hoạt động biển. Các tranh chấp trong Biển Đông không
phải là trở ngại cho việc tiến hành các nghĩa vụ khác của các quốc gia
ven biển thực thi Công ước Luật biển 1982. Chìa khoá giải quyết tất cả
các vấn đề ở Biển Đông là việc xây dựng lòng tin và thiện chí giữa các
quốc gia liên quan. Hãy nói với đối tác của bạn, hãy nghe đối tác của
bạn và cùng nhau làm việc.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
Trích dẫn từ:



11:58 AM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment