LS. LÊ THỊ HOÀI GIANG
TUOITRE -
Bà L. (ngụ Q.11, TP.HCM) đến phòng công chứng để công chứng hợp đồng ủy
quyền, nội dung là ủy quyền cho em của bà (ông V.L.), thay mặt bà xin
cấp đổi chủ quyền căn nhà thừa kế chung, ký hợp đồng bán nhà tại cơ quan
có thẩm quyền. Đồng thời hai bên cũng thỏa thuận trong hợp đồng ủy
quyền là ủy quyền không có thù lao.
Sau khi căn nhà được cấp sổ hồng thì ông V.L. đuổi bà
L. ra khỏi nhà và thông báo rằng căn nhà hiện nay là của ông. Trên thực
tế ông V.L. đã thỏa thuận xong việc bán nhà, tự quyết định giá cả, nhận
tiền đặt cọc của bên mua mà bà L. không hề biết. Bà L. vội vàng đến
phòng công chứng để xin hủy hợp đồng ủy quyền đã lập thì công chứng viên
không chấp nhận.
Do luật chỏi nhau
Lý do theo công chứng viên, điều 44 Luật công chứng
năm 2006 quy định “việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã
được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng
văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó và
phải được công chứng”. Do đó, nếu bà L. muốn hủy hợp đồng ủy quyền phải
thỏa thuận được với ông V.L.. Hai người phải cùng đến phòng công chứng
để hủy hợp đồng ủy quyền đã lập trước đây.
Rõ ràng yêu cầu này của công chứng viên sẽ không thể
thực hiện được, bởi lẽ nếu ông V.L. đang có ý định chiếm nhà như nghi
ngại của bà L. thì làm sao có chuyện ông V.L. thỏa thuận hủy hợp đồng ủy
quyền?
Mặt khác, Bộ luật dân sự năm 2005 cho phép một số
tình huống có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền.
Điều 588 nêu “nếu ủy quyền không có thù lao thì bên ủy quyền có thể chấm
dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước
cho bên được ủy quyền một thời gian hợp lý”.
Hợp đồng ủy quyền giữa bà L. và ông V.L. đã ký tại
phòng công chứng nói riêng, hay tất cả các mẫu hợp đồng ủy quyền của các
phòng công chứng nói chung quy định rằng thời hạn ủy quyền sẽ chấm dứt
khi “hoàn tất công việc hoặc hết hiệu lực theo quy định của Bộ luật dân
sự” (nếu không có thỏa thuận về thời hạn). Một trong những trường hợp
chấm dứt hợp đồng ủy quyền là một bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng.
Như vậy, với quy định của Luật công chứng như
trên vô tình làm hạn chế quyền đơn phương hủy bỏ hợp đồng ủy quyền của
bên ủy quyền hoặc bên nhận ủy quyền. Trong khi đó đối với hợp đồng ủy
quyền thì Bộ luật dân sự là luật nội dung, Luật công chứng chỉ là luật
hình thức và về nguyên tắc luật hình thức sẽ không được trái với luật
nội dung.
Bên dễ bên khó
Việc ký hợp đồng ủy quyền hay giấy ủy quyền chỉ là
hình thức ủy quyền, còn bản chất của việc ủy quyền vẫn là “việc một
người (gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác
(gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong
phạm vi đại diện” quy định tại điều 139 của Bộ luật dân sự.
Thế nhưng trong hợp đồng ủy quyền khó hủy như đã nói
trên thì giấy ủy quyền lại rất dễ hủy, chỉ cần tuân thủ điều 588 của Bộ
luật dân sự. Việc ký cũng thế, nếu là hợp đồng ủy quyền thì bên ủy quyền
và bên được ủy quyền phải cùng nhau ký vào hợp đồng, còn đối với giấy
ủy quyền thì chỉ cần bên ủy quyền ký tên, chứng thực chữ ký tại phòng tư
pháp của ủy ban nhân dân theo quy định tại nghị định số 79/2007/NĐ-CP
về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực
chữ ký. Trên thực tế, hiện nay phòng tư pháp quận (huyện) chứng thực chữ
ký của bên ủy quyền (văn bản bằng tiếng Việt), nhưng theo NĐ
79/2007/NĐ-CP thì thẩm quyền chứng thực chữ ký trong văn bản tiếng Việt
chỉ cần ở cấp phường xã.
Chọn hình thức ủy quyền nào là do các bên thỏa thuận (quy định tại khoản 2, điều 142 của Bộ luật dân sự năm 2005).
Trong câu chuyện nói trên, do bà L. đã chọn cách ký
hợp đồng ủy quyền, nên nay nếu muốn đơn phương hủy hợp đồng bà phải khởi
kiện ra tòa án.
SOURCE: BÁO TUỔI TRẺ THỨ BA NGÀY 10/02/2009



10:43 AM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment