ĐẶNG HOÀNG OANH – Vụ hợp tác quốc tế, Bộ Tư pháp
Nguyên tắc công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết
định của Trọng tài nước ngoài là những quy định có tính chất nền tảng,
làm cơ sở cho việc các nước công nhận và thi hành lẫn nhau các bản án,
quyết định dân sự của Tòa án, Trọng tài. Tuy nhiên, để các quy định này
được thực hiện có hiệu lực, hiệu quả, cần cân nhắc và xem xét chúng dưới
mọi khía cạnh, đảm bảo cả tính khoa học và thực tiễn, tránh gây những
bất cập như đã xảy ra trong thời gian vừa qua.
1. Nguyên tắc “có đi có lại” trong việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài
Khoản 3 Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005
(BLTTDS) có quy định mở rộng hơn phạm vi các bản án, quyết định dân sự
của Toà án nước ngoài (TANN), quyết định của Trọng tài nước ngoài (TTNN)
bằng cách khẳng định việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong việc
xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Đây là một nguyên tắc
quan trọng, thường được áp dụng phổ biến trong công pháp và tư pháp quốc
tế. Tuy nhiên, nguyên tắc này bản thân nó cũng còn nhiều vấn đề hạn
chế. Việc áp dụng điều khoản này, trên thực tế ngày càng giảm đi đáng
kể. Đã có nhiều ý kiến chỉ trích việc áp dụng điều khoản “có đi có lại”
và đề nghị quy định này cần được xem xét lại. Trong nhiều trường hợp,
nếu áp dụng một cách cứng nhắc, nó sẽ hạn chế và ảnh hưởng ngay chính
đến quyền lợi chính đáng của công dân nước áp dụng nguyên tắc này.
Ở Đức, phán quyết của TTNN được thi hành theo thể
thức chung về thi hành tài quyết của Đức mà không cần tính đến yếu tố có
đi có lại[1]. Điều 1044 Điều lệ Tố tụng dân sự Đức quy định rằng, tài
quyết của nước ngoài không được công nhận và thi hành nếu như nó vi phạm
một số nguyên tắc cơ bản như vi phạm trật tự công cộng, một trong các
bên không được đại diện đúng quy cách, không thể tham dự việc xét xử,
nếu tài quyết không có giá trị theo pháp luật của nước mà nó phải tuân
theo. Nguyên tắc có đi có lại không được quy định như một điều kiện cần
thiết để công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN tại
Cộng hòa Liên bang Đức. Pháp luật của Anh hay Italia cũng có những quy
định tương tự[2].
Trên thực tế, nhiều Toà án cũng đã từ chối áp
dụng nguyên tắc “có đi có lại” trong công nhận và thi hành quyết định
TTNN cũng như bản án, quyết định của TANN. Mục 98 của Bản Tuyên bố lại
(Restatement) Luật Xung đột (Conflict law) của Hoa Kỳ không đòi hỏi điều
khoản có đi có lại. Những nhà soạn thảo Bộ luật thống nhất của Hoa Kỳ
về công nhận các bản án của nước ngoài có yếu tố tài sản, đã loại bỏ
nguyên tắc “có đi có lại” như là yếu tố cân nhắc việc công nhận và cho
thi hành bản án của TANN. Vụ công ty Mata kiện American Life Ins.Co.,[3]
là một điển hình trong việc từ chối áp dụng nguyên tắc này. Ý kiến của
Toà án tối cao Minnesota trong Vụ Nicol v. Tanner[4] cũng đã thể hiện
rất rõ những điểm bất cập của nguyên tắc có đi có lại này[5]. Ngoài ra,
bản thân nguyên tắc “có đi có lại” trong quy định về bảo lưu tại Điều I
(3) của Công ước New York đối với việc công nhận và thi hành quyết định
của TTNN cũng gây rất nhiều tranh cãi. Thuật ngữ “có đi có lại” thông
thường được sử dụng trong luật quốc tế để chỉ trường hợp trong quan hệ
giữa các quốc gia với nhau, nước này đảm bảo cho các chủ thể của nước
kia những ưu đãi nhất định với điều kiện các chủ thể của nước họ cũng
được hưởng những ưu đãi tương tự tại quốc gia kia. Tuy nhiên, do yếu tố
quốc tịch của một bên đã bị loại bỏ với tư cách là một điều kiện để áp
dụng Công ước, cho nên nguyên tắc đối xử “có đi có lại” giữa các chủ thể
của những quốc gia thành viên Công ước New York là không cần tính
đến[6]. Tương ứng với đó, thuật ngữ “có đi có lại” tại điều khoản bảo
lưu nêu trên của Công ước không được hiểu theo nghĩa gốc của luật quốc
tế. Một ví dụ về sự tranh cãi trong hai cách hiểu về “có đi có lại” có
thể tìm thấy trong Quyết định của Toà án quận tại Michigan, Hoa Kỳ[7].
Do vậy, theo chúng tôi, BLTTDS không nên quy định
nguyên tắc có đi có lại như một điều kiện công nhận và thi hành bản án
quyết định dân sự của TANN, mà quy định hẳn theo hướng, về nguyên tắc,
Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của
Toà án mọi quốc gia, trừ trường hợp bản án, quyết định đó rơi vào một
trong những điều khoản là căn cứ để từ chối việc công nhận, ví dụ như
điều khoản về vi phạm thủ tục tố tụng, vi phạm trật tự công cộng…. (Điều
356 BLTTDS). Quan điểm này đang là xu hướng khá phổ biến trong pháp
luật của nhiều nước.
2. Nguyên tắc công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài
Điều 343 của BLTTDS đưa ra sáu nguyên tắc công nhận
và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN, quyết định của TTNN.
Theo quy định tại khoản 2 Điều này, thì Toà án Việt Nam xem xét công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của TTNN trong trường hợp
quyết định này được tuyên tại nước hoặc của Trọng tài của nước mà Việt
Nam và nước đó đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề này.
Điểm này trước hết mâu thuẫn với quy định tại khoản 2 Điều 342 cùng
Chương, khi định nghĩa quyết định TTNN là quyết định được tuyên ở ngoài
lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam nhưng do TTNN tuyên, theo
thoả thuận lựa chọn của các bên. Ngoài ra, cần phải nhấn mạnh, quy định
này thực chất là hẹp hơn định nghĩa về quyết định TTNN nêu tại Pháp
lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của TTNN năm 1995
(Pháp lệnh 1995)[8]. Theo Pháp lệnh này, quyết định TTNN được hiểu là:
các quyết định(1) được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam; và (2) trong lãnh thổ Việt Nam nhưng do TTNN tuyên.
Theo loại quyết định thứ nhất thì các quyết định trọng tài được tuyên ở
ngoài lãnh thổ Việt Nam sẽ rất rộng, bao gồm cả các quyết định trọng
tài được tuyên tại các nước đã ký kết điều ước quốc tế với Việt Nam
(trong trường hợp này là các nước thành viên Công ước New York năm 1958
về công nhận và thi hành quyết định của TTNN, mà Việt Nam đã tham gia
(sau đây gọi là Công ước). Quy định tại Điều 1 Pháp lệnh 1995 là hoàn
toàn phù hợp với định nghĩa về quyết định trọng tài nêu tại Công ước New
York. Công ước không đòi hỏi (mặc dù về vấn đề này, Công ước cũng có
cho phép điều khoản bảo lưu)[9] việc quyết định trọng tài phải được
tuyên trên lãnh thổ của các nước thành viên[10]. Điều I Công ước tuyên
rằng, quyết định TTNN là quyết định được tuyên tại lãnh thổ của mộtnước khác với nước nơi công nhận và thi hành quyết định đó.
Công ước cũng áp dụng đối với quyết định TTNN không được coi là quyết
định trọng tài trong nước tại quốc gia có yêu cầu công nhận và thi hành.
Điều này thực chất là định nghĩa về quyết định TTNN. Do không có điều
kiện ràng buộc nào khác, nên phạm vi áp dụng của Công ước là rất rộng,
bao gồm quyết định trọng tài được tuyên tại bất kỳ nước ngoài nào, không
kể nước đó là thành viên Công ước hay không. Cách tiếp cận hiện đại này
tại Điều I Công ước là thể hiện sự tổng hoà, nhất quán của pháp luật
quốc tế – cả công pháp và tư pháp – trong một lĩnh vực cụ thể. Theo
nguyên tắc mang tính phổ quát này, thì quyết định trọng tài, bất kể được
tuyên tại nước thành viên Công ước hay không, đều được áp dụng như
nhau. Luật Mẫu về trọng tài[11] của Uỷ ban Thương mại quốc tế cũng quy
định, tại Điều 35 và 36, về việc phải công nhận và thi hành quyết định
trọng tài “bất kể quyết định đó được tuyên tại quốc gia nào”.
Trái ngược với định nghĩa rộng về quyết định TTNN
trong Công ước New York năm 1958 và Pháp lệnh 1995, BLTTDS đưa ra một
định nghĩa rất hẹp về quyết định TTNN. Định nghĩa hiện hành về các quyết
định trọng tài được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bị
bó hẹp bằng cách ràng buộc thêm điều kiện là quyết định đó phải được
tuyên tại nước hoặc của trọng tài của nước mà Việt Nam và nước đó đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề này.
BLTTDS cũng đã loại hẳn các quyết định trọng tài quy định tại điểm (2)
nói trên, tức là các quyết định trọng tài được tuyên tại lãnh thổ Việt
Nam nhưng do TTNN tuyên[12]. Quy định này đi ngược lại xu thế của các
điều ước quốc tế về trọng tài hiện nay và đương nhiên sẽ làm ảnh hưởng
đến môi trường đầu tư ở Việt Nam.
3. Nguyên tắc “đương nhiên công nhận bản án, quyết định dân sự không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam”
Việc đương nhiên công nhận các bản án, quyết định dân
sự của TANN không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam (phần lớn là các bản
án, quyết định ly hôn không có yêu cầu thi hành về tiền, tài sản và con
cái) được quy định trong BLTTDS với nguyên tắc dựa trên cơ sở điều ước
quốc tế (khoản 5 Điều 343). Tại thời điểm hiện tại, chỉ có duy nhất hai Hiệp định Tương trợ tư pháp (TTTP) mà Việt Nam ký với các nước (với Liên Xô cũ và Cuba) quy định vấn đề đương nhiên công nhận. Trên
thực tế, toàn bộ các hồ sơ yêu cầu công nhận các bản án, quyết định ly
hôn không có yêu cầu thi hành mà Bộ Tư pháp nhận được đều xuất phát từ
những quốc gia chưa ký Hiệp định TTTP với Việt Nam (chủ yếu là từ Cộng
hòa Liên bang Đức, Đại Hàn dân quốc, TrungQuốc (Đài Loan), Xinh-ga-po,
Cộng hòa Ốt-xtrây-lia, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ…). Do quy định của BLTTDS
nên tất cả các bản án, quyết định ly hôn (không có yêu cầu thi hành) do
TANN tuyên đều không thể được công nhận tại Việt Nam.
Những tồn tại nêu trên trước đây đã xảy ra tương tự
đối với các quy định của Pháp lệnh1995 và đã được giải quyết gián tiếp
thông qua việc ghi chú vào Sổ đăng ký hộ tịch các việc ly hôn đã tiến
hành ở nước ngoài theo quy định của Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày
10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch (Nghị định 83/CP).
Như vậy, cần phải khẳng định, từ năm 1998 đến trước
khi BLTTDS ra đời (năm 2005), Nhà nước Việt Nam trên thực tế cũng đã
công nhận về mặt pháp lý các quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân
Việt Nam với nhau và với người nước ngoài được tiến hành trước các cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài (kể cả với những nước chưa ký với Việt
Nam điều ước quốc tế về vấn đề này) thông qua việc cho phép ghi vào sổ
các thay đổi về hộ tịch do kết hôn, ly hôn và chấm dứt việc nuôi con
nuôi đã được đăng ký trước các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài
(không chỉ là Tòa án mà là cả các cơ quan hộ tịch của nước ngoài). Việc
ghi vào sổ những thay đổi về hộ tịch này được thực hiện dựa trên các
nguyên tắc quy định tại Nghị định số 83/CP là nguyên tắc có điều ước
quốc tế và nguyên tắc “có đi có lại”. Hiện Nghị định 83/CP đã được thay
thế bằng Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản
lý hộ tịch (Nghị định 158/CP). Tuy nhiên, vấn đề ghi chú vào sổ theo quy
định của Nghị định 83/CP không được tiếp tục quy định trong Nghị định
158/CP với lý do BLTTDS đã quy định vấn đề công nhận và thi hành bản án,
quyết định dân sự của TANN, quyết định của TTNN[13].
Do vậy, kể từ thời điểm Nghị định 158/CP được ban
hành, các hồ sơ yêu cầu ghi vào Sổ đăng ký hộ tịch các việc ly hôn đã
tiến hành ở nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam không còn
cơ sở pháp lý để được giải quyết, dẫn đến tình trạng hàng ngàn yêu cầu
công nhận bản án, quyết định ly hôn của nước ngoài/yêu cầu ghi chú việc
ly hôn đã được tiến hành ở nước ngoài không được đáp ứng, gây ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam[14].
Nhằm tạm thời khắc phục tình trạng ách tắc hồ sơ,
giải quyết bức xúc và góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân Việt Nam, trong khi chờ sửa đổi BLTTDS, Bộ Tư pháp đã phối hợp với
các cơ quan có liên quan ban hành Thông tư hướng dẫn việc ghi chú vào Sổ
hộ tịch các việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài không có yêu cầu thi
hành tại Việt Nam[15].
Việc ghi chú vào sổ hộ tịch (có thể hiểu gián tiếp là
công nhận những quyết định không mang tính chất tài sản của Toà án hay
các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, không có yêu cầu thi hành về
tài sản tại Việt Nam) là rất cần thiết, nhằm giúp các cơ quan nhà nước
quản lý tốt hơn tình trạng nhân thân của công dân Việt Nam, tạo điều
kiện cần thiết để chứng minh tình trạng nhân thân cũng như về quan hệ
hôn nhân và gia đình của đương sự, qua đó tạo ra một sự đảm bảo an toàn
về mặt pháp lý của công dân khi tham gia vào các quan hệ xã hội. Tuy
nhiên, việc “ghi vào sổ” (công nhận) những thay đổi về hộ tịch này mới
chỉ là biện pháp giải quyết tình thế những vướng mắc trong việc công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của TANN. Về
lâu dài, những quy định này cần được pháp điển hoá thành các văn bản
pháp luật toàn diện và có hiệu lực cao hơn, đó chính là BLTTDS.
Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, cần phải
loại bỏ cụm từ “theo điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập”
tại khoản 5 Điều 343 của BLTTDS./.
[1] Vấn đề thi hành án có yếu tố nước ngoài, thực trạng và giải pháp, Thông tin Khoa học Pháp lý, số 1/2002.
[2] Điều 800, BLTTDS Italia.
[3] Mata v.American Life Ins.Co , 771 F.Supp. 1375 (D.Del.1991), aff’d 961F.2d 208 (3rd Cir. 1992).
[4] Nicol v. Tanner, 310 Minn.68, 256 N.Ư.2d 796 (Minn.1976).
[5]Xem Josheph J. Simeone, The recognition ans enforcement of foreign country judgement, 37 STATE.L..J 341 (1993).
[6]Albert Jan van den Berg, The New York Arbitration Convention of 1958. Towards a Unifrom Judicial Interpretation, tr. 14.
[7]U.S. District Court, E.D.Michigan (South. Div.), August 9, 1976, Audi-NSU Auto Union A.G.v.Overseas Motors Inc. (U.S.no.11).
[8]
Pháp lệnh đã hết hiệu lực kể từ khi BLTTDS ra đời. Hầu hết các quy định
của Pháp lệnh đã được pháp điển hóa tại Phần VI của BLTTDS “Thủ tục
công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN, quyết định của
TTNN”.
[9]
Điều I(3) của Công ước quy định “Khi ký kết, phê chuẩn, hoặc gia nhập
Công ước này, hoặc thông báo phạm vi áp dụng Công ước theo điều X, bất
kỳ quốc gia nào cũng có thể, trên cơ sở có đi có lại, tuyên bố rằng quốc
gia đó sẽ áp dụng Công ước để công nhận và thi hành các phán quyết được
ban hành tại lãnh thổ một quốc gia thành viên khác mà thôi. Điều khoản
về bảo lưu “có đi có lại” này cho phép các nước thành viên chỉ công nhận
các quyết định trọng tài được tuyên tại các quốc gia thành viên Công
ước. Tuy nhiên, việc áp dụng điều khoản này ngày càng ít ý nghĩa do sự
gia tăng mạnh mẽ của số lượng các nước thành viên Công ước. Ngoài ra,
cũng đã có rất nhiều ý kiến chỉ trích việc áp dụng điều khoản “có đi có
lại’ này (sẽ trình bày rõ thêm ở phần sau).
ã Xem Albert Jan van den Berg “The New York Arbitration Convention of 1958” towards a uniform interpretation (1981), p. 14.
[11] Luật Mẫu về trọng tài Thương mại quốc tế được Uỷ ban Thương mại quốc tế thông qua ngày 21/6/1985.
[12] Điều 1 Pháp lệnh Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của TTNN năm 1995.
[13]
Có nhiều lý do khách quan dẫn đến việc Nghị định 158/CP đã loại bỏ các
quy định về ghi chú hộ tịch của Nghị định 83/CP trước đây. Thứ nhất, về
lý thuyết, BLTTDS là văn bản pháp lý có hiệu lực cao hơn đã quy định chế
định công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của TANN, quyết
định của TTNN, nên rõ ràng “giải pháp tình thế” là việc ghi chú vào Sổ
hộ tịch trong Nghị định 83/CP không còn cần thiết nữa. Thứ hai, cũng cần
nhấn mạnh, tại thời điểm xây dựng và ban hành Nghị định 158/CP, do chưa
có thực tiễn áp dụng BLTTDS nên những vướng mắc về mặt pháp luật và
thực tiễn của chế định công nhận và thi hành quyết định của TANN, quyết
định của TTNN trong BLTTDS chưa được phát hiện và đề xuất.
[14] Do việc ly hôn đã tiến hành ở nước ngoài không được ghi vào Sổ hộ tịch, nên đương sự không thể kết hôn lần tiếp theo.
[15] Tại thời điểm hiện tại (tháng 7/2010), Dự thảo Thông tư về cơ bản đã được hoàn thành và dự kiến sẽ sớm được ban hành.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
Trích dẫn từ:



6:42 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment