TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT – Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật
I. Quan niệm về luật kinh tế
Khái niệm luật kinh tế, lĩnh vực luật kinh tế ( mà ta
quen gọi sau này là ngành luật kinh tế) đã ra đời trước khi có sự hiện
diện của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Trước khi nhân loại bước vào thế kỷ XX, với sự thống
trị của tư tưởng tự do hóa kinh tế, người ta chưa biết đến khái niệm
luật kinh tế và “ bàn tay vô hình” của Adam Smith là công cụ duy nhất để
điều tiết sự vận động và phát triển của nền kinh tế. Theo đó Nhà nước
(công quyền) là “kẻ thù” của cơ chế kinh tế; Nhà nước không được và
không thể gây ảnh hưởng tới nền kinh tế.
Vì vậy, cơ chế kinh tế của thời đại đó là cơ chế mà
theo C.Mác là “ từ đầu đến ngón chân đều vấy máu”. Những khuyết tật, mặt
trái ( hiểu theo nghĩa xã hội) và thiếu định hướng tổng thể là căn bệnh
cố hữu của quy luật giá trị. Nói khác đi, bản thân cơ chế thị trường,
hiểu theo nghĩa văn minh và nhân đạo, có nhu cầu cần được điều tiết.
Theo tinh thần đó, đã đến lúc Nhà nước không thể đứng
trên và đứng ngoài đời sống kinh tế – xã hội. Quyền lực Nhà nước đã
xuất hiện để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, để bảo vệ
tư do cạnh tranh – động lực phát triển kinh tế, để thực hiện mục tiêu
kinh tế của bản thân Nhà nước và giai cấp thống trị. Quyền lực đó được
thể hiện trong pháp luật: Pháp luật kinh tế. Như vậy, khi thể
hiện yêu cầu của công quyền, luật kinh tế khởi sinh trong khu vực luật
công, thể hiện thái độ của công quyền ( Nhà nước) trước những diễn biến
và vận động của đời sống kinh tế.
Mặc dù vậy, cho đến nay, các học giả tư sản vẫn chưa
có quan niệm thống nhất về luật kinh tế khi đi tìm biên giới về đối
tượng điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật này.
Sự phá sản của mô hình kinh tế kế hoạch trên phạm vi
toàn cầu1 đã kéo theo sự cáo chung của nhiều quan điểm và hệ thống lý
luận về quản lý kinh tế, về luật kinh tế truyền thống theo cách hiểu của
khoa học pháp lý XHCN.
Không có con đường thứ ba, tất cả các mô hình kinh tế
kế hoạch đều phải chuyển thành kinh tế thị trường. Khác hẳn với mô hình
kinh tế kế hoạch, kinh tế thị trường đòi hỏi phải xóa bỏ chế độ độc tôn
của một hình thức sở hữu, đòi hỏi phải khuyến khích và phát triển một
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với sự bình đẳng của chúng trước pháp
luật. Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý đảm bảo
tự do kinh doanh của tất cả các chủ thể sản xuất – kinh doanh. Đặc biệt
kinh tế thị trường đòi hỏi sự lùi bước và nhường bước của quyền lực công
cộng trước nguyên tắc tự do kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp.
Theo kinh nghiệm từ nước ngoài thì điều đó không có nghĩa rằng, nếu
như luật kinh tế của nền kinh tế kế hoạch hóa được điều chỉnh bằng công
thức của luật công( tức là các chủ thể chỉ được làm những gì mà pháp
luật ghi nhận). Còn ở kinh tế thị trường luật kinh tế chỉ điều chỉnh
theo phương pháp của luật tư ( tức là các chủ thể được làm tất cả những
gì mà pháp luật không cấm). Vì vậy, nếu quan niệm rằng, luật kinh tế chỉ
là luật tư thì sẽ không phân biệt được luật kinh tế với luật dân sự,
thương mại và đặt biệt không phản ánh được trong pháp luật vai trò của
công quyền ( Nhà nước) trong đời sống kinh tế, trong quản lý kinh tế.
Ngược lại, nếu cho rằng luật kinh tế là luật công thì cũng khó phân biệt
được luật kinh tế với luật Nhà nước, luật hành chính.thực ra, luật kinh
tế hay luật kinh doanh là những khái niệm rất rộng mà khó có thể định
lượng chính xác về nội dung. Hiểu theo cách chung nhất thì luật kinh
tế là tổng thể các quy phạm pháp luật mà với các quy phạm đó, Nhà nước
tác động vào các tác nhân tham gia đời sống kinh tế và các quy phạm liên
quan đến mối tương quan giữa sự tự do của từng cá nhân và sự điều chỉnh
của Nhà nước. Nếu hiểu theo cách đó thì luật kinh tế tồn tại cả ở
pháp luật công và pháp luật tư. Nó điều chỉnh một mặt khả năng và cách
thức sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống kinh tế, bảo vệ lợi ích công
và mặt khác nó thể hiện nguyên tắc bình đẳng và bảo vệ lợi ích tư của
các thành viên tham gia thương trường2. Cần nhấn mạnh thêm rằng, pháp
luật công hay tư không phải là hai ngành luật, hai môn học pháp luật, mà
đây là những khái niệm thể hiện cách thức và nguyên tắc xem xét những
hành vi pháp lý và khả năng xử sự của các chủ thể pháp luật3. Theo đó,
pháp luật công là lĩnh vực pháp luật mà trong sự điều chỉnh của nó thể
hiện nguyên tắc quyền lực Nhà nước, tòng thuộc hay lệ thuộc của các chủ
thể trong một quan hệ pháp luật và nhằm bảo vệ lợi ích của trật tự công
cộng (Public order). Trong khi đó pháp luật tư là lĩnh vực pháp luật thể
hiện sự bình đẳng và ngang quyền, tự do ý chí và thỏa thuận của các chủ
thể và nhằm bảo vệ lợi ích riêng, cá biệt của các chủ thể4.
Theo cách hiểu rộng về pháp luật kinh tế như trên thì
nội dung của hệ thống pháp luật kinh tế có thể bao gồm những chế định
pháp luật sau đây:
1. Lĩnh vực pháp luật kinh tế công:
- Thể chế Hiến định về kinh tế.
- Pháp luật khuyến khích kinh tế.
- Pháp luật điều tiết kinh tế.
- Pháp luật cạnh tranh.
- Pháp luật về tổ chức kinh tế.
- Pháp luật về các ngành kinh tế.
2. Lĩnh vực pháp luật kinh tế tư:
- Pháp luật dân sự.
- Pháp luật lao động.
- Pháp luật công ty, thương mại, chứng khoán với tính cách là lĩnh vực pháp luật riêng của giới thương gia và hàng hóa đặc biệt.
- Pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Như đã trình bày ở trên, việc xác định nội hàm của
khái niệm kinh tế trên “trường quốc tế” đang là vấn đề nan giải và đến
nay không có quan niệm thống nhất. Tuy nhiên, dù còn quan niệm khác nhau
về luật kinh tế nhưng vấn đề về luật kinh tế, tư duy về luật kinh tế
đang tồn tại ở nhiều nước khác nhau trên thế giới.
Nếu ở đâu đó các nhà khoa học không hiểu luật kinh tế
theo nghĩa rộng trên đây thì khi nói đến luật kinh tế, cảm nhận đầu
tiên của họ đều là lĩnh vực pháp luật thể hiện thái độ và khả năng can
thiệp (bằng pháp luật, theo pháp luật) của công quyền vào đời sống kinh
tế.
Ở Việt Nam trong mấy năm gần đây một số nhà khoa học
pháp lý đã đề xướng một cuộc tranh luận khoa học xung quanh khái niệm
luật kinh tế với mục đích nhằm khẳng định và sử dụng trong khoa học pháp
lý khái niệm luật kinh tế, luật kinh doanh hay luật thương mại. Các
cuộc tranh luận đó thường liên quan đến hai vấn đề chính là: xác định
lại nội dung của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực kinh tế và xem xét
luật kinh tế, kinh doanh hay thương mại có phải là một ngành luật độc
lập hay không?
Chúng tôi cho rằng, nếu chỉ xuất phát từ vấn đề tên
gọi, chúng ta còn phải tiếp tục thảo luận và khó có thể đi đến một kết
luận thỏa đáng và thống nhất. Bởi lẽ:
Thứ nhất: Việc đặt tên cho một ngành luật để
xác định biên giới của nó với các ngành luật khác hoàn toàn chỉ có tính
tương đối và ước lệ.
Thứ hai: Việc ấn định lại đối tượng cho một
ngành luật với tính cách là một bộ phận thuộc cơ cấu nội tại của một hệ
thống pháp luật sẽ không vì thế mà thay đổi được chất lượng và ý nghĩa
cũng như giá trị xã hội của hệ thống pháp luật hiện hành.
Thứ ba: Nếu như ứng với mỗi tên gọi ở dạng
khái niệm kể trên có thể là một nội hàm riêng biệt thì dù sao vẫn không
có khái niệm nào mang tính đặc trưng, tiêu biểu và hơn hẳn. Nếu như
người Nhật gọi cái đó là luật thương mại, người Mỹ gọi là luật kinh
doanh và người Đức gọi là luật kinh tế thì điều đó không có nghĩa đơn
giản là pháp luật của một trong các nước Nhật, nước Mỹ, nước Đức kém
hiệu quả hay thậm chí lạc hậu.
Quả thực, khi nghiên cứu so sánh, người ta tìm thấy
những khái niệm khác nhau đó và thậm chí những khái niệm (tên gọi) đó
không nhất thiết luôn luôn có nội dung giống nhau. Song, một số vấn đề
có tính phương pháp luận khi tìm hiểu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật
của nước ngoài là phải xem xét bản thân sự điều chỉnh đó trong khung
cảnh của những điều kiện lịch sử, dân tộc, truyền thống, kinh tế, xã hội
và triết học cụ thể và có thể riêng có ở từng quốc gia. Mặc khác, cũng
cần xem xét cơ cấu hay cách sắp xếp cơ cấu của những hệ thống pháp luật
mang tính cá biệt khác nhau mà trong đó luật kinh tế, kinh doanh hay
thương mại tồn tại. Chúng ta đã biết đến sự tồn tại của những hệ thống
pháp luật khác nhau trên thế giới như hệ Common Law, hệ Civil Law, hệ
Hồi giáo, hệ Nhật Bản, và hệ Xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cũng đã làm quen
với những hệ thống pháp luật mà ở đó cơ cấu của nó được phân thành luật
công và luật tư và ngược lại.
Tóm lại, không hề tồn tại một mô hình duy nhất tối ưu
về xác định cơ cấu và tên gọi của các bộ phận cấu thành của mọi hệ
thống pháp luật và cũng chưa có một hệ thống pháp luật cá biệt nào bị
coi là phá sản.
Tuy nhiên, khi mọi sự vật, hiện tượng, đều tồn tại
trong quá trình vận động và phát triển, khi mà điều đó cũng diễn ra
trong cơ cấu của hệ thống pháp luật nước ta, khi mà luật công tách ra
khỏi luật tư hay ngược lại, khi mà luật thương mại trở thành một ngành
luật riêng với tính cách là phát sinh, chuyên biệt so với luật dân sự và
kinh doanh, thuộc về chủ quyền của các doanh nghiệp, thương gia thì lúc
đó, rất có thể, luật kinh tế sẽ không còn được hiểu như ngày hôm nay và
tính chất công quyền của nó như khi nó ra đời sẽ là nội hàm chủ yếu của
lĩnh vực pháp luật này.
***
Cùng với quan niệm về luật kinh tế, nguồn của pháp
luật nói chung và của luật kinh tế nói riêng cũng là vấn đề mà ở đó,
khoa học pháp lý XHCN truyền thống cũng có sự khác biệt với phần còn lại
của thế giới.
Theo lý luận chung về Nhà nước và pháp luật XHCN thì
nguồn của luật kinh tế là những văn bản pháp luật, chứa đựng những quy
phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Hệ thống
pháp luật nước ta là hệ thống pháp luật theo trường phái luật quy phạm5.
Vì vậy, các án lệ không được coi là nguồn luật, là khuôn mẫu xử sự
chung cho các hành vi của các chủ thể pháp luật. Các quyết định hành
chính, các quyết định của trọng tài kinh tế, các bản án của Tòa án
thương mại (khi chúng ta thành lập) không phải là nguồn của luật kinh
tế. Theo truyền thống, nguồn của luật kinh tế ở nước ta bao gồm các văn
bản luật và những văn bản dưới luật.
Tuy nhiên, xét từ thực tiễn, chúng tôi cho rằng, ta
đang có những dấu hiệu thực tế của sự thừa nhận sơ khai giá trị pháp lý
của những “án lệ”. Bởi lý do, chúng tôi cho rằng, những hướng dẫn nghiệp
vụ công tác xét xử của các Tòa án cấp trên cũng như những báo cáo tổng
kết công tác ngành Tòa án không phải là những văn bản quy phạm hiểu theo
nghĩa truyền thống song lại có giá trị nhất định nào đó trong hoạt động
áp dụng pháp luật. Mặc khác, những vụ án trọng điểm, thí điểm cũng
nhiều khi được coi là “khuôn mẫu” nào đó trong công tác của Tòa án. Vì
vậy, có thể kết luận rằng, “án lệ” có thể sẽ hình thành trong đời sống
pháp lý ở nước ta, và nếu vậy, điều đó cũng không phải là không cần
thiết hoặc “phi khoa học”.
Trong đời sống kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực kinh
tế đối ngoại, tập quán thương mại ngày càng có giá trị quan trọng. Mọi
người đều biết rằng, khi chưa có luật thương mại (cổ điển), các thương
gia đã sử dụng những tập quán, thói quen, thông lệ trong buôn bán –
những “quy tắc xử sự” không thể hiện trong văn bản pháp luật nhưng rất
có ý nghĩa thực tế trong việc ràng buộc các quyền và nghĩa vụ của các
bên. Hơn thế nữa, kể cả trong điều kiện ngày nay, cách thức tổ chức và
thực hiện các hoạt động kinh doanh, thương mại là hết sức năng động. Vả
lại, tự do ý chí là nguyên tắc tối thượng của việc xác lập và thực hiện
các quan hệ pháp lý tư.
Vì vậy, tập quán thương mại có vị trí rất quan trọng
trong việc bổ sung cho các quy phạm pháp luật và vì được các thương gia
thừa nhận nên chúng có giá trị điều chỉnh hành vi gần như các quy phạm
pháp luật.
Ngoài ra, với tính cách là có khả năng điều chỉnh
hành vi kinh doanh – thương mại, có thể và cần phải xem xét đến cả những
bản điều kiện giao dịch chung hay điều lệ riêng của các doanh nghiệp.
Những điều kiện chung giao hàng đó thể hiện tương đối đa dạng như: quy
chế bán hàng, mẫu hợp đồng và thậm chí là trong cả điều lệ riêng của
từng doanh nghiệp. Ngày nay, trong điều kiện của tự do kinh doanh, tự do
ý chí, cần phải coi các điều lệ riêng của các doanh nghiệp cũng có giá
trị pháp lý trong một chừng mực nào đó với các bên tham gia giao dịch
pháp lý với doanh nghiệp vì đó là thành quả của sự tự do ý chí – những ý
chí hình thành nên doanh nghiệp và được coi là “Hiến pháp” của doanh
nghiệp. Để có thể có được giá trị pháp lý như vậy, những điều lệ cần
phải có sự chuẩn thuận của các cơ quan đăng ký kinh doanh và nói chung
các điều kiện chung giao hàng cần có sự chuẩn thuận của cơ quan Tòa án –
những cơ quan mà thực ra có chức năng phát triển pháp luật theo cách
thức riêng biệt.
Liên quan đến vấn đề nguồn của luật kinh tế còn có
vấn đề đang đặt ra trong thực tế mà cũng có ý nghĩa lý luận quan trọng
là liệu Bộ luật dân sự và luật thương mại có được coi là nguồn của luật
kinh tế hay không?
Nếu hiểu luật kinh tế là lĩnh vực pháp luật rất rộng
bao gồm cả luật công và luật tư thì ở phương diện luật tư của luật kinh
tế có thể áp dụng những nguyên tắc chung được ghi nhận trong Bộ luật dân
sự (thí dụ như về phần hợp đồng). Trong trường hợp này và ở lĩnh vực
này có thể coi Bộ luật dân sự là lex general còn Pháp lệnh về hợp đồng
kinh tế được coi là lex special. Đây cũng là cách thức để xem xét về mối
quan hệ giữa chế định pháp lý về hợp đồng kinh tế và hợp đồng thương
mại liên quan đến việc áp dụng pháp luật. Chỉ có điều là đến nay, về
phương diện tố tụng (lĩnh vực pháp luật công) vẫn thiếu vắng sự khẳng
định đó nên từ phương diện pháp luật thực định chưa thể coi những tranh
chấp từ hợp đồng thương mại là tranh chấp kinh tế ( theo Điều 12, Pháp
lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, ngày 16/3/1994) và để có
được tài phán ở các Tòa kinh tế hay các Trung tâm trọng tài kinh tế.
II. Mấy kinh nghiệm từ nước ngoài
1. Về chủ thể kinh doanh
1.1. Pháp nhân và thể nhân
Ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển
và hệ thống pháp luật lâu đời không có sự phân biệt và cách biệt giữa
khái niệm thương gia và doanh nghiệp với tính cách là những thành viên
hợp pháp của thương trường. Khi giao lưu trong thương trường, các thành
viên thường quan tâm đến tính chất và đặc tính pháp lý của nhau mà trước
hết đó là một pháp nhân hay thể nhân.
Thực ra, đây là cặp phạm trù cơ bản và kinh điển
trong pháp luật dân sự, thuộc lĩnh vực pháp luật và chủ thể. Song vì ở
nước ta hiện nay việc nhận thức về chúng trong nhiều giới hạn còn lẫn
lộn nên chúng tôi xin được bàn thêm.
Vào những buổi ban đầu của nước Việt Nam mới, pháp
luật đã sử dụng khái niệm pháp nhân để ám chỉ một loại chủ thể pháp luật
được phân biệt với con người. Sau nhiều năm bị lãng quên thì gần đây,
khái niệm pháp nhân lại được sử dụng trở lại trong cặp phạm trù pháp
nhân và cá nhân. Tại Bộ luật dân sự chương II có sử dụng khái niệm cá
nhân trong sự phân lập với pháp nhân và sau khi có ý kiến đóng góp để
chỉnh lý thì dự kiến của nhà làm luật vẫn không hề thay đổi.
Theo truyền thống khoa học pháp lý dân sự nói riêng
và khoa học pháp lý nói chung chia các chủ thể của luật dân sự thành hai
loại: pháp nhân và thể nhân. Mặc dù pháp nhân là một loại chủ thể không
phải là con người, một loại chủ thể trừu tượng, không có hình hài song
điều đó không có nghĩa là co người đồng nghĩa với “cá nhân”. Chẳng hạn,
trong Bộ luật dân sự, tổ hợp tác và hộ gia đình không hưởng quy chế của
một pháp nhân mà chúng cũng không phải là cá nhân. Chúng tôi cho rằng,
với phương pháp tiếp cận như trong Bộ luật thì còn nhiều khó khăn trong
việc hoạch định cơ cấu chủ thể của luật dân sự.
Bộ luật dân sự phân biệt các loại chủ thể theo dấu
hiệu pháp nhân và cá nhân nên đương nhiên phải đi tìm thêm những chủ thể
pháp luật khác để liệt kê trong bộ luật mà điển hình là hộ gia đình và
tổ hợp tác – những chủ thể pháp lý không phải là cá nhân mà cũng không
hưởng quy chế của một pháp nhân. Nếu cứ theo cách như vậy thì chưa cần
phải dự tính đến sự phát triển của kinh tế – xã hội mà ngay hiện nay bộ
luật đã không thể liệt kê hết. Đó là những cộng đồng người phải sinh ra
một chủ thể pháp luật mới nhưng không có tư cách pháp nhân thông qua sự
liên kết trên cơ sở của những sự kiện pháp lý. Ngay trong đời sống kinh
tế pháp luật của ta đã không chỉ đề cập đến hộ gia đình hoặc tổ hợp tác.
Các tổ chức liên kết kinh tế không nằm trong khái niệm tổ hợp tác “
nhóm kinh doanh” theo nghị định 66 – HĐBT ngày 23/3/1992 không phải là
cá nhân mà cũng chẳng là pháp nhân. Mặc khác, hiện nay trong xã hội đã
có không ít các tổ chức được thành lập theo nguyên tắc hiệp hội mà không
đủ điều kiện trở thành pháp nhân. Thậm chí, những doanh nghiệp nhà nước
hoạt động công ích có hưởng quy chế đầy đủ của một pháp nhân hay không:
vấn đề này vẫn còn phải được giải quyết cụ thể thông qua hoạt động hoàn
thiện pháp luật về doanh nghiệp Nhà nước.
Trong lịch sử, đã có thời kỳ pháp luật chưa hề biết
đến khái niệm pháp nhân. Từ thời cổ đại đến thời phong kiến đã xuất hiện
những phường hội, những tổ chức hình thành trên cơ sở hợp tác, liên
kết. Khi tham gia các quan hệ pháp luậ (mà ngày nay ta gọi là quan hệ
dân sự) các tổ chức này không nhân danh chính mình mà nhân danh các
thành viên, nhân danh các chủ sở hữu của các tài sản được đưa vào sử
dụng. Như vậy, các tổ chức này không có tư cách pháp nhân độc lập trong
việc sử dụng và định đoạt những tài sản khi nó buộc phải thành phương
tiện để thực hiện các quan hệ dân sự, thương mại. Điều đó có nghĩa rằng,
về mặt pháp lý, không có sự phân biệt và tách bạch giữa tài sản được
đưa vào tổ chức và phần tài sản còn lại mà cả hai đều thuộc sở hữu của
cùng một chủ. Vì hoạt động nhân danh chủ hữu nên khi tổ chức này vỡ nợ,
các quan toàn cùng với chủ nợ được phép đến gõ cửa nhà riêng từng con
nợ.
Song, khi sản xuất hàng hóa phát triển trong điều
kiện của chủ nghĩa tư bản, vấn đề cũng cố địa vị của các tổ chức kinh tế
bằng phương tiện pháp lý để các tổ chức này tham gia độc lập vào các
quan hệ dân sự – thương mại là nhu cầu cấp thiết đối với các lọai hình
tổ chức khác nhau và cũng là phương tiện, điều kiện để các nhà tư bản
cạnh tranh với nhau trong cơ chế thị trường. Để xác định tư cách pháp lý
độc lập cho các tổ chức này, và tránh rủi ro trong kinh doanh cũng như
giới hạn những hậu quả khủng khiếp của sự đổ vở trong các tổ chức; thực
tiễn của hoạt động dân sự – thương mại đòi hỏi phải tạo ra một khả năng
về sự tách bạch về tài sản giữa phần đưa vào lưu thông và phần còn lại
mà chủ sở hữu có nhu cầu sử dụng vào những mục đích khác.
Khi thực hiện nguyên tắc tách bạch về tài sản cũng là
khi xuất hiện một nhân cách pháp lý mới, tách bạch với nhân cách pháp
lý của chủ sở hữu hoặc công đồng sở hữu. Để đặt tên cho nhân cách pháp
lý mới đó, khái niệm pháp nhân đã ra đời6.
Như vậy với mục đích như trên, khái niệm pháp nhân
không liên quan đến vấn đề cá nhân hay tập thể; số ít hay số nhiều của
những con người. Nói như vậy là vì đã có lúc khoa học pháp lý của ta
nhầm tưởng rằng “tổ chức” hay “tập thể” là dấu hiệu của pháp nhân cũng
như cho rằng các đơn vị kinh tế quốc doanh dưới thời kế hoạch hóa cũng
có tư cách pháp nhân. Đành rằng, pháp nhân “không phải” là người, song
không phải mọi tổ chức đều là pháp nhân. Như đã trình bày ở trên, mục
đích của việc xác lập tư cách pháp nhân là việc tách biệt tài sản. Cho
nên chỉ có những tổ chức thực hiện nguyên tắc tách bạch về mặt tài sản
mới có được điều kiện quan trọng đầu tiên để trở thành pháp nhân.
Ý tưởng về tách bạch tài sản nhằm xác định tư cách
độc lập về mặt pháp lý cho một tổ chức được gọi là pháp nhân còn dẫn đến
một hậu quả pháp lý dân sự nữa là khẳng định tính chất trách nhiệm hữu
hạn của loại tổ chức này khi tham gia các quan hệ tài sản. Chính vì lẽ
đó mà các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh thời kế hoạch hóa trên thực
tế chưa hề tồn tại thực sự như một pháp nhân, vì chúng không có tài sản
riêng, tồn tại độc lập với toàn bộ phần còn lại thuộc sở hữu Nhà nước và
chúng không thực hiện chế độ trách nhiệm hữu hạn. Điều này là dễ hiểu
bởi vì, kinh tế chính trị học thời đó dạy rằng tài sản thuộc sở hữu toàn
dân (Nhà nước) là một thể thống nhất, không thể phân chia. Cho nên để
các doanh nghiệp Nhà nước có thể tồn tại như một pháp nhân trong cơ chế
mới, Nhà nước đã thực hiện việc trao vốn và trách nhiệm bảo toàn vốn và
xác lập tính độc lập về mắt pháp lý và kinh tế cho loại chủ thể này.
Cũng vì thế mà gần đây khoa học pháp lý nói chung và
pháp lý dân sự nói riêng vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về khái
niệm hay dấu hiệu của pháp nhân; song ngày càng thấy có nhiều tiêu chí
để xác định pháp nhân đã được xác định trước đây, nay không còn giá trị
và ngay Điều 94 của Bộ luật Dân sự cũng còn tỏ ra mơ hồ khi xác định các
dấu hiệu của pháp nhân.
Đã có thời kỳ khoa học pháp lý ấn định dấu hiệu của
pháp nhân là tài khoản ở ngân hàng và con dấu. Điều này có thể hiểu được
trong điều kiện của cơ chế cũ bởi lẽ khi đó chỉ có các đơn vị kinh tế
xã hội chủ nghĩa và các cơ quan, đơn vị thuộc Nhà nước mới được phép có
tài khoản và con dấu riêng. Ngày nay các cá nhân cũng có thể có tài
khoản tại ngân hàng và không ít các đơn vị, tổ chức không có tư cách
pháp nhân cũng có con dấu.
Điều 94 của Bộ luật dân sự lại đi tìm dấu hiệu “có cơ
cấu tổ chức” để xác định pháp nhân. Chúng tôi cho rằng, dấu hiệu này
không đặc trưng vì đã là đơn vị, tổ chức đều có thể có cơ cấu tổ chức
riêng, song như trên đã trình bày, không phải mọi tổ chức, đơn vị đều là
pháp nhân.
Tuy nhiên, Bộ luật dân sự đã đề cập đến bốn lọai chủ
thể các quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác
và hộ gia đình.
Pháp nhân là một khái niệm được sử dụng để ám chỉ một
loại chủ thể pháp lý độc lập, để phân biệt với các chủ thể là con người
(bao gồm cá nhân và tập thể người). Như vậy, pháp nhân là một thực thể
trừu tượng, được hư cấu, thể hiện tình trạng tách bạch về mặt tài sản
của nó với tài sản còn lại của chủ sở hữu, người đã sáng tạo ra nó.
Trong kinh doanh, người sáng tạo ra pháp nhân, hiểu theo nghĩa này, là
chủ sở hữu doanh nghiệp – người đầu tư vốn để thành lập doanh nghiệp có
tư cách pháp nhân. Nếu coi doanh nghiệp Nhà nước là pháp nhân (hay có tư
cách pháp nhân) nghĩa là toàn bộ vốn tài sản mà Nhà nước đã giao cho
doanh nghiệp, là của doanh nghiệp. Chúng tồn tại tách bạch và độc lập về
mặt pháp lý với toàn bộ tài sản khác thuộc sở hữu toàn dân. Vì lẽ đó,
khi thành lập các doanh nghiệp (theo nghị định 388 – HĐBT ngày
20/1/1991) và khi thành lập mới doanh nghiệp Nhà nước (theo luật doanh
nghiệp Nhà nước ngày 20/4/1996) đều có thủ tục giao và nhận vốn. Cũng vì
không có tài sản tách bạch nên trước đây các xí nghiệp công nghiệp quốc
doanh của ta chưa bao giờ tồn tại thực sự là những pháp nhân.
Trong trường hợp của công ty, điều này cũng có bản
chất pháp lý như vậy. Cụ thể, khi thành lập công ty, các thành viên góp
đủ số vốn đăng ký vào công ty thì phần vốn này thuộc công ty và tồn tại
tách bạch với toàn bộ tài sản còn lại thuộc sở hữu của thành viên công
ty.
Với tư cách thiết kế về pháp lý như vậy, suy cho cùng
chỉ nhằm mục đích là để các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hưởng
quy chế trách nhiệm hữu hạn mà thôi. Nói khác đi, pháp nhân không phải
là khái niệm nhằm khẳng định tính độc lập về pháp lý của mọi loại chủ
thể kinh doanh hay thương gia. Theo lẽ đó, pháp luật nước ta (mà trước
hết là pháp luật kinh tế – dân sự) cũng như pháp luật của mọi quốc gia
trên thế giới đều coi pháp nhân là một thực thể pháp lý:
1) Được thành lập hay thừa nhận một cách hợp pháp.
2) Có tài sản riêng.
3) Tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình bằng số tài sản riêng đó.
4) Là nguyên đơn hay bị đơn trước các cơ quan tài phán.
Trong đó dấu hiệu hai và ba là thuộc tính riêng của pháp nhân.
Bên cạnh pháp nhân còn một chủ thể pháp luật nữa,
cũng là một thực thể pháp lý độc lập về tư cách chủ thể. Song ở đó,
không có sự tách bạch về tài sản giữa phần của thực thể đó và của chủ sở
của nó. Vì vậy, ở dây khi xem xét tính chất về chế độ trách nhiệm về
mặt tài sản trong kinh doanh thì chính thực thể pháp lý đó và cùng với
chủ sở hữu của nó (các cá nhân và tổ chức góp vốn) cùng liên đới chịu
trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của thực thể pháp lý đó.
Như vậy, “đứng ra chịu trách nhiệm về mặt tài sản ở
đây trên thực tế có thể là cá nhân, là tập thể các cá nhân hay thậm chí
là tổ chức. Những tập thể pháp lý đó được khoa học pháp lý truyền thống
gọi chung là thể nhân mà không nhất thiết là cá nhân.
Vì hệ thống pháp luật của ta hiện nay sử dụng hai
phạm trù (chứ không hẳn là cặp phạm trù) cá nhân và pháp nhân nên rất
lúng túng khi phải đề cập đến những thực thể pháp lý không phải là pháp
nhân và cũng không phải là cá nhân như: Tổ hợp tác, hộ gia đình, nhóm
kinh doanh (theo Nghị định 66 HĐBT ngày 2/3/1992). Chúng ta sẽ ngày càng
trở nên lúng túng hơn khi đến lúc pháp luật cần phải thừa nhận nhiều
hơn nữa những chủ thể pháp lý không phải là pháp nhân và cũng chẳng phải
là cá nhân.
1.2 Trách nhiệm vô hạn và trách nhiệm hữu hạn
Như đã trình bày trên đây, khoa học pháp lý nước ta
trong một số năm gần đây đã sử dụng cặp phạm trù “trách nhiệm vô hạn” và
“trách nhiệm hữu hạn”. Tuy nhiên cho đến nay, theo nhận biết của chúng
tôi, trong giới pháp lý và giới kinh doanh chưa thực sự có sự thấu hiểu
thống nhất về hai dạng “trách nhiệm” này.
Trước hết cần nhấn mạnh rằng vô hạn hay hữu hạn là
tính chất của chế độ đảm bảo tài sản khi tham gia các quan hệ tài sản.
Điều này không liên quan gì đến chế độ trách nhiệm pháp lý phát sinh từ
sự vi phạm pháp luật mà hậu quả của nó là việc thực hiện các chế tài.
Trách nhiệm vô hạn được hiểu là sự tận cùng hay đến
cùng của việc trả nợ. Điều đó có nghĩa rằng, một chủ thể pháp luật nào
đó khi không thực hiện nguyên tắc tách bạch về mặt tài sản (đó là những
con người cụ thể hoặc các tổ chức không có tư cách pháp nhân) trong mọi
trường hợp vẫn phải trả hết số nợ mà nó có khi chủ thể đó bị vở nợ. Như
vậy, khi tham gia các quan hệ tài sản, đối với bên thiết lập quan hệ với
pháp nhân luôn luôn có nguy cơ không được trả nợ khi pháp nhân đó bị
tuyên bố phá sản.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng đặc tính trách nhiệm vô hạn
chỉ xuất hiện và chỉ được đề cập tới khi một chủ thể của luật dân sự –
kinh tế bị vỡ nợ mà đối với các doanh nghiệp được gọi là phá sản.
Như vậy mọi cá nhân và những tổ chức không phải là
pháp nhân, tư cách pháp lý của chúng được thể hiện và được thực hiện bởi
chính những thành viên của tổ chức đó. Trong khi đó, những pháp nhân
khi tham gia các quan hệ tài sản luôn hưởng quy chế trách nhiệm hữu hạn.
Chính vì vậy, pháp nhân có những dấu hiệu được phân biệt với thể nhân
như sau:
1) Có tài sản riêng, tồn tại độc lập về mặt pháp lý với phần tài sản còn lại của chủ sở hữu.
2) Hoạt động nhân danh mình và tự chịu trách nhiệm về
mọi hành vi của mình với số tài sản riêng có (tức là hưởng quy chế
trách nhiệm hữu hạn).
3) Có tư cách pháp lý độc lập và có thể là nguyên đơn hoặc bị đơn trước các cơ quan tài phán.
Vì sự nghèo nàn của ngôn ngữ pháp lý tiếng Việt nên phải nhấn mạnh rằng khái niệm trách nhiệm được
dùng ở đây hoàn toàn không đồng nghĩa và liên quan gì đến chế độ trách
nhiệm pháp lý – loại trách nhiệm phát sinh do hành vi vi phạm pháp luật
có lỗi.
Ở đây, trách nhiệm vô hạn được hiểu là tính vô hạn
(và thậm chí là vĩnh cửu) của nghĩa vụ trả nợ, còn trách nhiệm hữu hạn
là tính có giới hạn về khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra
là giới hạn đó được xác định như thế nào?
Theo lý thuyết chung và thông lệ quốc tế, một doanh
nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn chỉ có khả năng trả nợ đến mức giá
trị vốn tài sản của nó. Đó là vốn điều lệ.
Nếu chỉ hiểu đơn giản như vậy thì phải chăng một
doanh nghiệp với quy chế trách nhiệm hữu hạn không bao giờ thực hiện
được một trái vụ có giá trị lớn hơn mức vốn điều lệ của nó? Vấn đề không
phải là như vậy, mà vẫn là ở chỗ chế độ trách nhiệm vô hạn hay hữu hạn
chỉ được đưa ra áp dụng khi doanh nghiệp đó bị tuyên bố phá sản và toàn
bộ tài sản của nó được đưa ra phát mại để thanh toán các khoản nợ.
Đến lúc này, khi doanh nghiệp thuộc loại trách nhiệm
vô hạn sẽ có số tài sản để trả nợ bao gồm cả toàn bộ tài sản thuộc sở
hữu của chủ doanh nghiệp mà không tham gia vào kinh doanh. Trong trường
hợp này, nếu toàn bộ tài sản phá sản đó không đảm bảo để thanh toán hết
các khoản nợ thì chủ doanh nghiệp phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả
nợ. Đó chính là tính vô hạn hay “vĩnh cửu” của nghĩa vụ trả nợ. Vì ở
những doanh nghiệp này không có sự tách bạch về tài sản như đã nêu ở
trên nên chúng cũng không phải là những pháp nhân (mà là thể nhân). Theo
pháp luật nước ta thì đó là những trường hợp của doanh nghiệp tư nhân.
Trong khi đó, doanh nghiệp có quy chế trách nhiệm hữu
hạn khi bị tuyên bố phá sản, chỉ trả nợ đến mức giá trị toàn bộ tài sản
thuộc sở hữu của nó vào thời điểm đó. Vì ở những doanh nghiệp này có sự
tách bạch về mặt tài sản giữa nó và chủ sở hữu của nó và chúng đều được
thừa nhận là pháp nhân. bởi lẽ, thuộc tính của pháp nhân là có sự tách
bạch về tài sản và tự “chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình bằng
sở hữu tài sản đó” (trách nhiệm hữu hạn). Nói khác đi, tất cả các pháp
nhân (theo đúng nghĩa của nó) đều hưởng quy chế trách nhiệm hữu hạn.
Toàn bộ tinh thần trên đây đã được thể hiện trực tiếp
hay gián tiếp trong hệ thống pháp luật hiện hành, đặc biệt trong pháp
luật về phá sản, ở những quy định về tài sản phá sản và thứ tự ưu tiên
thanh toán.
Cần nói thêm rằng, tài sản phá sản của pháp nhân vào
thời điểm bị tuyên bố phá sản là số tài sản hiểu theo nghĩa pháp lý.
Điều đó có nghĩa rằng, vào thời điểm phá sản mà chủ sở hữu pháp nhân (
chủ doanh nghiệp) chưa thực hiện song cam kết về việc góp vốn vào điều
lệ thì phần chưa thực hiện đó vẫn được coi là tài sản của pháp nhân được
đưa ra để thực hiện chế độ trách nhiệm hữu hạn. Trong trường hợp này,
mối quan hệ giữa doanh nghiệp là pháp nhân và chủ sở hữu doanh nghiệp là
mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ.
Tóm lại, mô hình pháp lý về doanh nghiệp theo kiểu
pháp nhân hay thể nhân hiểu theo nghĩa này, suy cho cùng là để ấn định
tính chất của chế độ trách nhiệm về mặt tài sản trong kinh doanh (hữu
hạn hay vô hạn). Song vì trách nhiệm hữu hạn hay vô hạn chỉ thể hiện sự
khác biệt và được áp dụng trên thực tế khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá
sản. Chứng tỏ rằng, khi tồn tại và hoạt động trên thương trường giữa
pháp nhân và thể nhân không vì thế mà có sự bất bình đẳng. Tuy nhiên xét
từ góc độ về khả năng rủi ro của các nhà đầu tư hoặc do doanh nghiệp
gây ra cho bạn hàng thì ở hai doanh nghiệp này cũng có những đặc tính
khác nhau, nhà làm luật mới có thể thừa nhận những mô hình pháp lý về tổ
chức doanh nghiệp khác nhau, tạo cho các nhà đầu tư lựa chọn phù hợp
với khả năng và sở thích của họ.
Điểm mạnh của các doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô
hạn chính là ở chỗ nó ít có khả năng gây rủi ro cho bạn hàng vì tất cả
tài sản của chủ doanh nghiệp có trong hiện tại và tương lai, bất luận là
chúng có tham gia vào kinh doanh hay không, đều được sử dụng để thanh
toán nợ. Song, nhìn từ lợi ích của các chủ doanh nghiệp thì họ luôn bị
đe dọa bởi khả năng “được ăn cả, ngã về không” nên họ không mạnh dạn đầu
tư vào những lĩnh vực của nền kinh tế mà có hệ số rủi ro cao, và khi họ
liên kết góp vốn để thành lập công ty loại này họ luôn phải đi tìm
những người rất gần gũi bởi vì những phần tài sản “để dành” (không tham
gia vào kinh doanh) của tất cả các thành viên công ty đều có chung một
số phận. Vì lẽ đó, các doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn không bao
giờ trở thành những doanh nghiệp lớn trong cơ cấu kinh tế.
Trong khi đó các doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu
hạn lại khắc phục được “điểm yếu” đó, dễ dàng tồn tại trong mọi lĩnh vực
của cơ cấu kinh tế và có thể trở thành những đơn vị kinh tế mạnh. Thế
nhưng, loại doanh nghiệp này chỉ trả nợ trong phạm vi có giới hạn (khi
nó bị phá sản), nên nó dễ gây rủi ro cho bạn hàng. Kinh nghiệm cho thấy,
khi một pháp nhân bị phá sản, thì thông thường lợi ích của nhiều bạn
hàng không được đảm bảo. Vì lẽ đó, khi giao dịch trên thương trường,
những doanh nghiệp loại này sẽ bị bạn hàng “thẩm định” rất cẩn thận,
nhất là khi vay vốn. “Không có nguyên tắc nào không ngoại lệ”. Điều đó
cũng đúng khi áp dụng chế độ trách nhiệm hữu hạn của pháp nhân.
Theo nhận thức chung, pháp nhân chỉ có thể hoạt động
thông qua cơ quan đại diện. Tuy nhiên, không phải lúc nào đại diện pháp
nhân cũng xử sự nhân danh pháp nhân và về nguyên tắc, pháp nhân và đại
diện pháp nhân không phải là một thực thể thống nhất. Bên cạnh đó, thành
viên của pháp nhân cũng không đồng thời là pháp nhân (tách bạch). Thế
nhưng trên thực tế, nhìn từ bề ngoài ta thấy rằng cả thành viên pháp
nhân và cơ quan pháp nhân trong nhiều trường hợp cùng đều tham dự thực
hiện những hành vi liên quan đến pháp nhân7. Vì vậy, pháp luật của nhiều
quốc gia đều ghi nhận một hiện tượng mà theo đó, pháp nhân không độc
lập chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ mà ở đây có sự liên đới hay
trách nhiệm riêng của thành viên pháp nhân và / hoặc của chính bản thân
cơ quan pháp nhân. Hiện tượng này được một số tài liệu pháp lý gần đây
gọi là “phá hạn” hay “vén màng trách nhiệm” mà theo tiếng La tinh là
“ultra veris” và tiếng Đức là “Haftungsdurchsgriff”. Theo đó, “phá hạn”
sẽ xuất hiện khi:
- Thành viên pháp nhân hay cơ quan pháp nhân không đảm bảo điều kiện vật chất để thực hiện chế độ trách nhiệm hữu hạn.
- Thành viên hay cơ quan pháp nhân thực hiện hành vi không nhân danh pháp nhân.
2. Pháp luật về cạnh tranh
Các nhà tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin đều có dạy
rằng: “Đấu tranh là động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của mọi
hiện tượng và sự vật”. Vì vậy, muốn tạo ra sự vận động và phát triển
của hiện tượng kinh tế phải tìm cho được và gìn giữ cái động lực đó. Nếu
trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp người ta đi tìm những động
lực ở nơi quyền làm chủ tập thể, ở hoạt động kế hoạch hóa8, ở thi đua
XHCN… thì ngày nay, trong bối cảnh của một hiện tượng mới (kinh tế thị
trường), động lực đó chính là cạnh tranh.
Từ điển kinh doanh, xuất bản ở Anh năm 1922
đã định nghĩa “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh
doanh trên thị trường nhằm tranh dành một loại tài nguyên sản xuất hoặc
cùng một loại khách hàng về phía mình”. Như vậy, cạnh tranh chỉ có thể
xuất hiện trong điều kiện của cơ chế thị trường, nơi mà nhu cầu là cốt
vật chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh hồn sống của thị
trường. Cạnh tranh là cuộc đấu tranh giữa những nhà kinh doanh nhằm dành
các điều kiện có lợi nhất về sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ…trong
nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là áp lực cưỡng bức bên ngoài buộc
các nhà doanh nghiệp phải tìm mọi giải pháp để nâng cao năng suất lao
động trong doanh nghiệp đưa ra thị trường sản phẩm có chất lượng, giá cả
hợp lý… mở rộng kinh doanh. Vì vậy, khi đã tự xác định trách nhiệm điều
tiết và khuyến khích sự lớn mạnh của kinh tế thị trường, Nhà nước không
thể không khuyến khích và bảo vệ cạnh tranh.
Dưới góc độ pháp lý, pháp luật nói chung và kinh tế
nói riêng – lĩnh vực pháp luật mà ở chế độ nào cũng quan tâm đến hai vấn
đề chính là quyền tự do kinh doanh và khả năng, hình thức can thiệp của
công quyền vào đời sống kinh tế mà cuối cùng cũng chỉ là bảo đảm tự do
kinh doanh trong khuôn khổ của lợi ích cộng đồng, đã nhìn thấy nguồn gốc
và bản chất pháp lý của pháp luật cạnh tranh.
Tiền đề pháp lý của sự hình thành và phát triển của
kinh tế thị trường là tự do sở hữu, tự do kinh doanh, tự do lập hội và
tự do khế ước…cũng vì những quyền tự do đó được thừa nhận và đảm bảo và
cùng với sự giục giã của quy luật giá trị và bản tính cá nhân của con
người nên các hoạt động cạnh tranh tự phát luôn có thiên hướng thái quá,
cực đoan mà vô tình hay cố ý nhằm gây rối, ngăn cản hoặc thủ tiêu khả
năng cạnh tranh của các đối thủ. Những hành vi mang tính chất cạnh tranh
đó, đến lượt nó quay lại phá hủy động lực phát triển kinh tế. Những
hành vi đó, xuất phát từ tiền đề tự do, đến lúc này đã lâm vào tình
trạng vượt quá biên giới của “sự nhận thức được quy luật” và vì vậy đây
chính là cơ hội để công quyền phải can thiệp bằng pháp luật. Như thế,
pháp luật cạnh tranh đã tất yếu ra đời.
Có lẽ vì người phương Tây, những người tiên phong
trong việc phát triển cơ chế thị trường, cũng cảm nhận được điều đó và
tuân theo sự cảnh tỉnh của Mác nên từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đều
nhất loạt cho ban hành những văn bản pháp luật về cạnh ra sự vận động và
phát triển của hiện tượng kinh tế phải tìm cho được và gìn giữ cái động
lực đó. Nếu trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp người ta đi tìm
những động lực ở nơi quyền làm chủ tập thể, ở hoạt động kế hoạch hóa8, ở
thi đua XHCN… thì ngày nay, trong bối cảnh của một hiện tượng mới (kinh
tế thị trường), động lực đó chính là cạnh tranh.
Từ điển kinh doanh, xuất bản ở Anh năm 1922
đã định nghĩa “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh
doanh trên thị trường nhằm tranh dành một loại tài nguyên sản xuất hoặc
cùng một loại khách hàng về phía mình”. Như vậy, cạnh tranh chỉ có thể
xuất hiện trong điều kiện của cơ chế thị trường, nơi mà nhu cầu là cốt
vật chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh hồn sống của thị
trường. Cạnh tranh là cuộc đấu tranh giữa những nhà kinh doanh nhằm dành
các điều kiện có lợi nhất về sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ…trong
nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là áp lực cưỡng bức bên ngoài buộc
các nhà doanh nghiệp phải tìm mọi giải pháp để nâng cao năng suất lao
động trong doanh nghiệp đưa ra thị trường sản phẩm có chất lượng, giá cả
hợp lý… mở rộng kinh doanh. Vì vậy, khi đã tự xác định trách nhiệm điều
tiết và khuyến khích sự lớn mạnh của kinh tế thị trường, Nhà nước không
thể không khuyến khích và bảo vệ cạnh tranh.
Dưới góc độ pháp lý, pháp luật nói chung và kinh tế
nói riêng – lĩnh vực pháp luật mà ở chế độ nào cũng quan tâm đến hai vấn
đề chính là quyền tự do kinh doanh và khả năng, hình thức can thiệp của
công quyền vào đời sống kinh tế mà cuối cùng cũng chỉ là bảo đảm tự do
kinh doanh trong khuôn khổ của lợi ích cộng đồng, đã nhìn thấy nguồn gốc
và bản chất pháp lý của pháp luật cạnh tranh.
Tiền đề pháp lý của sự hình thành và phát triển của
kinh tế thị trường là tự do sở hữu, tự do kinh doanh, tự do lập hội và
tự do khế ước…cũng vì những quyền tự do đó được thừa nhận và đảm bảo và
cùng với sự giục giã của quy luật giá trị và bản tính cá nhân của con
người nên các hoạt động cạnh tranh tự phát luôn có thiên hướng thái quá,
cực đoan mà vô tình hay cố ý nhằm gây rối, ngăn cản hoặc thủ tiêu khả
năng cạnh tranh của các đối thủ. Những hành vi mang tính chất cạnh tranh
đó, đến lượt nó quay lại phá hủy động lực phát triển kinh tế. Những
hành vi đó, xuất phát từ tiền đề tự do, đến lúc này đã lâm vào tình
trạng vượt quá biên giới của “sự nhận thức được quy luật” và vì vậy đây
chính là cơ hội để công quyền phải can thiệp bằng pháp luật. Như thế,
pháp luật cạnh tranh đã tất yếu ra đời.
Có lẽ vì người phương Tây, những người tiên phong
trong việc phát triển cơ chế thị trường, cũng cảm nhận được điều đó và
tuân theo sự cảnh tỉnh của Mác nên từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đều
nhất loạt cho ban hành những văn bản pháp luật về cạnh
ra sự vận động và phát triển của hiện tượng kinh tế
phải tìm cho được và gìn giữ cái động lực đó. Nếu trong thời kỳ tập
trung quan liêu bao cấp người ta đi tìm những động lực ở nơi quyền làm
chủ tập thể, ở hoạt động kế hoạch hóa8, ở thi đua XHCN… thì ngày nay,
trong bối cảnh của một hiện tượng mới (kinh tế thị trường), động lực đó
chính là cạnh tranh.
Từ điển kinh doanh, xuất bản ở Anh năm 1922
đã định nghĩa “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh
doanh trên thị trường nhằm tranh dành một loại tài nguyên sản xuất hoặc
cùng một loại khách hàng về phía mình”. Như vậy, cạnh tranh chỉ có thể
xuất hiện trong điều kiện của cơ chế thị trường, nơi mà nhu cầu là cốt
vật chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh hồn sống của thị
trường. Cạnh tranh là cuộc đấu tranh giữa những nhà kinh doanh nhằm dành
các điều kiện có lợi nhất về sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ…trong
nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là áp lực cưỡng bức bên ngoài buộc
các nhà doanh nghiệp phải tìm mọi giải pháp để nâng cao năng suất lao
động trong doanh nghiệp đưa ra thị trường sản phẩm có chất lượng, giá cả
hợp lý… mở rộng kinh doanh. Vì vậy, khi đã tự xác định trách nhiệm điều
tiết và khuyến khích sự lớn mạnh của kinh tế thị trường, Nhà nước không
thể không khuyến khích và bảo vệ cạnh tranh.
Dưới góc độ pháp lý, pháp luật nói chung và kinh tế
nói riêng – lĩnh vực pháp luật mà ở chế độ nào cũng quan tâm đến hai vấn
đề chính là quyền tự do kinh doanh và khả năng, hình thức can thiệp của
công quyền vào đời sống kinh tế mà cuối cùng cũng chỉ là bảo đảm tự do
kinh doanh trong khuôn khổ của lợi ích cộng đồng, đã nhìn thấy nguồn gốc
và bản chất pháp lý của pháp luật cạnh tranh.
Tiền đề pháp lý của sự hình thành và phát triển của
kinh tế thị trường là tự do sở hữu, tự do kinh doanh, tự do lập hội và
tự do khế ước…cũng vì những quyền tự do đó được thừa nhận và đảm bảo và
cùng với sự giục giã của quy luật giá trị và bản tính cá nhân của con
người nên các hoạt động cạnh tranh tự phát luôn có thiên hướng thái quá,
cực đoan mà vô tình hay cố ý nhằm gây rối, ngăn cản hoặc thủ tiêu khả
năng cạnh tranh của các đối thủ. Những hành vi mang tính chất cạnh tranh
đó, đến lượt nó quay lại phá hủy động lực phát triển kinh tế. Những
hành vi đó, xuất phát từ tiền đề tự do, đến lúc này đã lâm vào tình
trạng vượt quá biên giới của “sự nhận thức được quy luật” và vì vậy đây
chính là cơ hội để công quyền phải can thiệp bằng pháp luật. Như thế,
pháp luật cạnh tranh đã tất yếu ra đời.
Có lẽ vì người phương Tây, những người tiên phong
trong việc phát triển cơ chế thị trường, cũng cảm nhận được điều đó và
tuân theo sự cảnh tỉnh của Mác nên từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đều
nhất loạt cho ban hành những văn bản pháp luật về cạnh tranh. Ngay cả
các quốc gia chuyển đổi, những quốc gia đã cùng ta tìm cách xây dựng nền
kinh tế kế hoạch nay cũng đã thiết lập trong hệ thống pháp luật của
mình lĩnh vực pháp luật về cạnh tranh9, chống độc quyền.
Theo thông lệ, pháp luật về chống độc quyền bao gồm 3 nội dung:
1) Cấm các – ten,
2) Kiểm soát sáp nhập,
3) Kiểm soát các doanh nghiệp có vị thế độc quyền tự nhiên.
Nhưng, có thể khẳng định rằng, vấn đề cấm các – ten
và giám sát về sự lạm dụng vị thế độc quyền của những doanh nghiệp đang
chiếm thị phần khống chế thị trường hầu như chưa được đặt ra kể cả từ
phương diện chính sách kinh tế lẫn từ phương diện điều chỉnh pháp lý.
Trong khi đó, khó mà có thể khẳng định rằng, trong cơ cấu của hệ thống
các doanh nghiệp đã và đang không thể xuất hiện những thỏa thuận ngầm
mang tính chất của những các – ten. Bên cạnh đó, sự lạm dụng tình trạng
độc quyền để thủ tiêu cạnh tranh và chèn ép người tiêu dùng đã tồn tại
từ lâu mà vụ “bê bối” ở Tổng công ty xi măng cách đây mấy năm là một
điển hình.
Tư tưởng về chống cạnh tranh không lành mạnh và chống
hạn chế cạnh tranh cũng đã bắt đầu xuất hiện rải rác ở một số văn bản
pháp luật kinh tế. Cụ thể là, Nghị định 48/1998/NĐ – CP (ngày 11/7/1998)
đã công khai việc kiểm soát hành vi thâu tóm và sát nhập doanh nghiệp
thông qua thị trường chứng khoán cũng như chống hành vi lũng đoạn thị
trường trong khi mua hoặc bán chứng khoán. Đây cũng là những hành vi tuy
không điển hình nhưng cũng được điều chỉnh bởi pháp luật chống độc
quyền.
Trong khi pháp luật về chống độc quyền mà còn rất xa
lạ trong đời sống pháp lý thì pháp luật về chống cạnh tranh không lành
mạnh, một lĩnh vực pháp luật đồng hành với chống độc quyền và cùng có
chung mục đích là khuyến khích và bảo vệ cạnh tranh, lại được quan tâm
hơn và có sự khởi xướng tương đối rõ rệt.
Trong lĩnh vực quảng cáo, một lĩnh vực thường được
lạm dụng để cạnh tranh không lành mạnh, Nhà nước đã ban hành Nghị định
194/CP ngày 31/12/1994 trong đó có quy định cấm quảng cáo sai chất lượng
hàng hóa đã đăng ký, nói xấu người khác và hàng hóa của người khác.
Tuy nhiên, vấn đề cạnh tranh mới chỉ được chính thức
ghi nhận khi Quốc hội ban hành Luật thương mại ngày 10/5/1997. tại Điều 8
của Luật, những hành vi cạnh tranh không lành mạnh thông thường đã được
liệt kê và bị nghiêm cấm thực hiện, như:
- Đầu cơ để lũng đoạn thị trường;
- Bán phá giá để cạnh tranh;
- Dèm pha thương nhân khác;
- Ngăn cản, lôi kéo, mua chuộc, đe dọa nhân viên hoặc khách hàng của thương nhân khác.
Bên cạnh đó, từ góc độ bảo vệ người tiêu dùng, Luật
thương mại cũng có những quy định nhằm chống lại cạnh tranh không lành
mạnh. Điều 9 khoản 3 quy định: cấm thương nhân nâng giá, ép giá gây
thiệt hại cho nền sản xuất, người tiêu dùng; gây nhầm lẫn cho người tiêu
dùng; quảng cáo dối trá; khuyến mại bất hợp pháp…
Để bảo vệ các lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp
trước những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Bộ luật dân sự còn quy
định: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có hành vi xâm phạm đến
danh dự, uy tín của người sản xuất, kinh doanh mà gây thiệt hại cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh cho người đó thì phải bồi thường” (Điều 633).
Tóm lại, mặc dù chống độc quyền còn đang là vấn đề
nhạy cảm trong đời sống chính trị pháp lý của đất nước. Song, Dự thảo về
luật cạnh tranh nếu được Quốc hội thông qua sẽ tạo thành cơ sở pháp lý
vững chắc cho cơ chế thị trường – một cơ chế mà sự tồn tại, vận động và
phát triển của nó bị chi phối căn bản bởi những quy luật và nguyên lý
của cạnh tranh. Bởi lẽ, trong cơ chế thị trường, Nhà nước tiến bộ phải
là Nhà nước có chức năng đầu tiên là khuyến khích và bảo hộ cạnh tranh –
động lực của phát triển kinh tế.
Chú thích:
1 Mô hình kinh tế kế hoạch không chỉ đã tồn tại ở
Việt nam mà ở cả hệ thống các nước XHCN trước đây. Hơn thế nữa, trong
lịch sử các mô hình kinh tế của nhân loại, kinh tế kế hoạch cũng đã từng
tồn tại ở các nước không xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2 Bài giảng của GS.TS Depenheuer, Đại học Tổng hợp Mahnheim, CHLB Đức, tại Bộ Tư pháp, tháng 3/1997.
3 Ở các quốc gia thuộc hệ Civil Law thì sự phân
biệt này được thể hiện khá rõ mà theo đó, việc nghiên cứu, giảng dạy,
xem xét, đánh giá về hệ thống pháp luật cũng như tổ chức, hoạt động,
thẩm quyền và các nguyên tắc tố tụng ở Tòa án cũng thể hiện sự phân biệt
giữa luật công và luật tư. Trong khi đó ở các quốc gia thuộc hệ Common
Law thì sự phân biệt này không rõ rệt nhưng khi xem xét từng văn bản
pháp luật, từng hành vi pháp lý cụ thể đều cho thấy có sự khác biệt.
4 Những từ “công” hay “tư” ở đây không liên quan đến khái niệm tư nhân hay Nhà nước hoặc cơ quan hay ngành tư pháp.
5 Ngay cả ở các quốc gia thuộc hệ Châu Au lục địa
(Civil Law), nơi mà nguồn luật chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp
luật – Điều cơ bản để phân biệt với hệ thống thông luật (Common Law),
các án lệ của Tòa án cũng được coi là những quy tắc xử sự chung cho các
hoạt động áp dụng pháp luật và đây cũng là một dạng thể hiện của pháp
luật.
6 Thực ra, khi thiết kế chế định pháp nhân, các nhà luật học đã xuất phát từ các học thuyến như:
- Học thuyết hư cấu (fiktion) mà theo đó có thể
hình thành một loại chủ thể pháp luật trừu tượng không phải là người để
phân biệt với con người ( thể nhân).
- Học thuyết tách bạch mà theo đó tài sản của pháp nhân là một thực thể tài sản được phân biệt
(tách bạch) với tài sản của các thành viên.
- Học thuyết về khối tài sản thống nhất mà theo đó, tài sản của pháp nhân là một khối thống
nhất không thể chia được, được coi như thuộc sở
hữu của pháp nhân và vì vậy, khi các thành viên góp vốn phải làm thủ tục
chuyển quyền sở hữu và áp dụng nguyên tắc cấm rút vốn trực tiếp khi các
thành viên có nhu cầu rút ra khỏi tư cách thành viên của pháp nhân.
(Xem: Karl Larenz, Luật Dân sự , phần chung, NXB C.H.Beck, CHLB Đức, 1977, tr.111 – 112).
7 Xem thêm: Nguyễn Như Phát, An toàn pháp lý
trong doanh nghiệp Nhà nước, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/1997;
Quyền tự chủ về vốn và tài sản của doanh nghiệp Nhà nước, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 3/ 1999.
8 Nếu xét về tính kế hoạch thì kinh tế thị trường
và kinh tế kế hoạch khác nhau chỉ ở chỗ: Thế nào là kế hoạch, ai là
người làm kế hoạch và kế hoạch được thiết lập và thực hiện theo những
nguyên tắc nào?
9 Cho đến nay, ở nhiều quốc gia như Hungari,
Bungari, Nga, C.H Séc, Ba Lan…đã ban hành pháp luật về cạnh tranh. Ngay
cả Trung Quốc, ngày 2/9/1993, Luật chống cạnh tranh không lành mạnh đã
được ban hành và đang xúc tiến việc ban hành Luật chống độc quyền.
Các bài viết có liên quan: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/?s=%22s%E1%BB%9F+h%E1%BB%AFu+nh%C3%A0+n%C6%B0%E1%BB%9Bc%22
SOURCE; TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 1/2001
0 comments:
Post a Comment