Tuesday, January 21, 2014

VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT KINH TẾ TRONG VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO KINH DOANH

TS. BÙI NGỌC CƯỜNG – Khoa Pháp luật kinh tế – ĐH Luật Hà Nội
1. Pháp luật kinh tế thể chế hóa những đòi hỏi của quyền tự do kinh doanh
Tự do kinh doanh về thực chất là khả năng của chủ thể được thực hiện những hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, cung cấp dịch vụ kinh doanh dưới những hình thức thích hợp với khả năng vốn, khả năng quản lý của mình nhằm thu lợi nhuận. Tuy nhiên, khả năng này có được đảm bảo thực hiện hay không và cơ sở nào để bảo đảm thực hiện nó là điều có ý nghĩa quan trọng. Chắc chắn trong bất cứ nền kinh tế hàng hóa nào cũng không thiếu các chủ thể muốn được kinh doanh một cách tự do. Ngay cả trong nền kinh tế kế hoạch tập trung của chúng ta trước đây cũng có không ít người muốn tham gia vào quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hay cung cấp dịch vụ nhằm thu lợi nhuận. Tuy nhiên, trong các xã hội khác nhau thì mức độ đảm bảo việc thực hiện nhu cầu này lại rất khác nhau. Điều này tùy thuộc vào hệ thống pháp luật và khả năng của các cơ quan nhà nước trong việc thực thi pháp luật, đặc biệt là những lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến tự do kinh doanh. Rõ ràng, hệ thống pháp luật của quốc gia có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Sự khác nhau về tính toàn diện, tính hiệu quả của hệ thống pháp luật là một trong những nhân tố quyết định cho sự phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Thông thường, những nơi có hệ thống pháp luật minh bạch, có hiệu lực là những nơi có thể thu hút được các nguồn đầu tư cho sự phát triển kinh tế. Vậy, điều gì ẩn trong mối liên hệ giữa quyền tự do kinh doanh và pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng? Muốn trả lời câu hỏi này, cần phải xác định vai trò đặc biệt của pháp luật trong việc khẳng định tự do kinh doanh và mối liên hệ giữa pháp luật với các đòi hỏi của tự do kinh doanh.
Thứ nhất, pháp luật có vai trò đặc biệt đối với tự do kinh doanh vì nó biến nhu cầu kinh doanh thành một quyền pháp định và thậm chí cao hơn, là quyền Hiến định. Nhu cầu kinh doanh là một nhu cầu mang tính xã hội. Vì vậy, biến nhu cầu xã hội này thành quyền Hiến định hay pháp định là tiền đề thực hiện tự do kinh doanh. Như chúng ta đã thấy, ngay cả trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây, sự tồn tại nhu cầu tự do kinh doanh là điều không thể phủ nhận, mặc dù sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất lúc đó rất bị hạn chế và phân biệt đối xử. Tuy nhiên, do những lý do khác nhau, tự do kinh doanh không được pháp luật công nhận và thực tế nó không tồn tại. Trong các văn bản pháp luật cũng như các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước ta lúc đó khó có thể tìm thấy khái niệm tự do kinh doanh, tự do sở hữu tư liệu sản xuất. Khó có thể có sự tồn tại kinh doanh đối với cá nhân khi sở hữu về tư liệu sản xuất chỉ được áp dụng đối với một số hộ kinh doanh cá thể, quy mô không lớn. Ngay cả những chủ thể được phép kinh doanh và được Nhà nước ưu tiên và khuyến khích như xí nghiệp quốc doanh (nay gọi là doanh nghiệp nhà nước) cũng không hoàn toàn được tự do kinh doanh. Những chỉ tiêu kế hoạch ràng buộc doanh nghiệp trên mọi lĩnh vực như lao động, tiền lương, vật tư, tiêu thụ v.v… đã biến doanh nghiệp thành một cỗ máy thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Như vậy, pháp luật kinh tế trong mối liên hệ với quyền tự do kinh doanh đã đóng vai trò khai phá, dọn đường. Nếu không biến tự do kinh doanh thành một quyền luật định của công dân thì khó có thể nói biến nó thành hiện thực cuộc sống.
Thứ hai, pháp luật thể chế hóa các đòi hỏi của tự do kinh doanh. Như chúng ta biết, tự do kinh doanh có những đòi hỏi riêng của nó. Kinh doanh là hành vi mang tính xã hội hóa cao của chủ thể. Muốn thực hiện hành vi này, chủ thể cần phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định. Khác với nhiều hành vi đơn giản khác, kinh doanh hàm chứa những đòi hỏi phong phú, đa dạng và dưới nhiều phương diện khác nhau. Khó có thể liệt kê hết tất cả những đòi hỏi này nên trong phạm vi của bài này, chúng tôi chỉ phân tích những đòi hỏi cơ bản mà pháp luật cần thể chế hóa để quyền tự do kinh doanh được thực hiện trong cuộc sống.
- Đòi hỏi thứ nhất là đòi hỏi mang tính chất tiền đề vật chất – đó là quyền sở hữu, đặc biệt là quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Muốn kinh doanh thì phải có vốn và tài sản. Không ai kinh doanh lại không có trong tay mình những điều kiện tối thiểu đó. Về chủ quan, chủ thể phải có tư liệu sản xuất, có vốn và có quyền định đoạt đối với những tài sản này. Pháp luật phải khẳng định địa vị chủ sở hữu về tư liệu sản xuất nếu muốn để cho các công dân và tổ chức thực sử được hưởng quyền tự do kinh doanh.
Về khách quan, các chủ sở hữu phải được các thành viên khác trong xã hội thừa nhận, tôn trọng. Sự thừa nhận và tôn trọng này là điều kiện cần thiết để chủ thể sở hữu tham gia các quan hệ pháp luật khác cần thiết cho việc trao đổi, mua bán nguyên liệu, thuê lao động, sản xuất ra sản phẩm và dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, cung ứng dịch vụ. Muốn có sự thừa nhận này, ngoài yếu tố tự giác của các thành viên trong xã hội, pháp luật phải bảo vệ chủ sở hữu một cách có hiệu quả các quyền và lợi ích chính đáng của họ bị xâm hại. Các cơ quan nhà nước phải đối xử với các chủ sở hữu một cách bình đẳng, có hiệu quả. Như vậy, pháp luật đã xác lập quyền sở hữu tư liệu sản xuất và tạo ra điều kiện, tiền đề cho việc thực hiện tự do kinh doanh.
Sở hữu là vấn đề phức tạp và then chốt của tự do kinh doanh. Sự khác nhau giữa kinh tế kế hoạch hóa tập trung và kinh tế thị trường suy cho cùng là vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất. “Hai nền kinh tế khác nhau ở hai khía cạnh chính. Thứ nhất, chúng đưa ra những câu trả lời khác nhau cho câu hỏi: các hoạt động kinh tế được tổ chức như thế nào? Bởi thị trường hay bởi kế hoạch? Thứ hai, chúng đưa ra những câu trả lời khác nhau cho câu hỏi: Ai sở hữu tư liệu sản xuất? Nhà nước hay cá nhân?”1. Sở hữu là phạm trù kinh tế được sử dụng để chỉ sự xác lập chủ quyền của cá nhân, tổ chức đối với tài sản nhất định. Với tư cách là phạm trù kinh tế thì sở hữu tồn tại ở mọi thời kỳ. Tuy nhiên, phạm trù pháp lý quyền sở hữu lại chỉ gắn với sự xuất hiện của nhà nước và pháp luật. Nội dung của quyền sở hữu thay đổi cùng với sự phát triển của khái niệm tài sản. Tài sản trong nền kinh tế thị trường hiện đại được hiểu là bất cứ giá trị nào chứ không đơn thuần chỉ là những tài sản hữu hình. Sự đa dạng của các loại tài sản và sự chuyển hóa, sự biến đổi của các loại hình sở hữu đối với chúng dẫn đến sự đa dạng của loại hình doanh nghiệp, loại hình kinh doanh. Vấn đề đặt ra là pháp luật phải đáp ứng được sự đa dạng của tài sản và sự biến đổi của các loại hình sở hữu. Sẽ rất khó bảo vệ được lợi ích đa dạng của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nếu vấn đề sở hữu không được giải quyết thỏa đáng.
Việc thể chế hóa yếu tố sở hữu có thể thực hiện theo nhiều mô hình và cách tiếp cận khác nhau. Có những hệ thống pháp luật cho phép công dân sở hữu bất cứ tư liệu sản xuất, thực hiện bất cứ hoạt động dịch vụ nào. Song, cũng có những hệ thống pháp luật hạn chế việc sở hữu một số tư liệu sản xuất, thực hiện một số dịch vụ nhất định. Chẳng hạn, sở hữu sòng bạc và kinh doanh sòng bạc không được chấp nhận ở hệ thống pháp luật này, song lại được chấp nhận ở hệ thống pháp luật khác. Tương tự, có thể nói về sở hữu đất đai. Pháp luật Việt Nam hiện đang có xu hướng ngày càng tự do hóa sở hữu. Ngay cả việc hạn chế sở hữu cá nhân về đất đai hiện cũng đang có xu hướng giảm bớt thông qua việc quy định cho người sử dụng đất những quyền năng tiếp cận tối đa quyền năng sở hữu: quyền thừa kế, quyền chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố, quyền sử dụng đất.
- Đòi hỏi thứ hai liên quan đến việc xác định các loại hình doanh nghiệp mà các tổ chức, cá nhân có thể lựa chọn. Muốn kinh doanh, các nhà đầu tư phải lựa chọn một loại hình doanh nghiệp hoặc một phương thức kinh doanh nhất định mà pháp luật đã quy định. Thực tế của đất nước ta đầu những năm 90 cho thấy, do thiếu các loại hình doanh nghiệp thích ứng, hoạt động kinh doanh tín dụng vô tổ chức đã dẫn đến những tổn thất về kinh tế xã hội cho đất nước. Các nhà đầu tư cần phải có được những loại hình doanh nghiệp hoặc những phương thức kinh doanh nhất định. Những loại hình hoặc phương thức kinh doanh phải được pháp luật quy định. Nhà đầu tư chỉ có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi họ đầu tư, kinh doanh trên những cơ sở pháp lý vững chắc.
Một điểm đáng đặc biệt lưu ý là nền kinh tế thị trường rất năng động và rất đa dạng xét về chủ thể tham gia. Nếu như trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung của chúng ta trước đây chỉ có một số loại chủ thể ít ỏi, thì trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta có nhiều loại chủ thể tham gia vào nền kinh tế. Sự độc diễn của một vài loại hình doanh nghiệp dĩ nhiên không thể dẫn tới nhu cầu chuyển đổi và cũng không tạo điều kiện cho sự lựa chọn. Nền kinh tế kế hoạch hóa trước đây chỉ chủ yếu có doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác xã. Sự lựa chọn đương nhiên khó xảy ra và sự chuyển đổi từ loại hình doanh nghiệp này sang loại hình doanh nghiệp khác cũng rất khó khăn. Tình trạng kể trên không thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà vì sự cạnh tranh, tức là vì lợi nhuận và sự sống còn của mình, các doanh nghiệp phải luôn luôn tìm cách thích nghi với sự biến đổi của cung và cầu. Chính vì nhu cầu thích nghi này mà các nhà đầu tư luôn mong muốn có được nhiều cơ hội lựa chọn kể cả mặt hàng, phương thức kinh doanh lẫn loại hình doanh nghiệp. Các nhà đầu tư rất muốn có một sự lựa chọn tương đối rộng rãi về loại hình doanh nghiệp và khả năng chuyển đổi dễ dàng từ loại hình doanh nghiệp, phương thức kinh doanh đã chọn sang một loại hình doanh nghiệp và phương thức kinh doanh khác khi cần phải thích nghi với những thay đổi của nền kinh tế.
Cách thức và phương pháp thể chế hóa đòi hỏi này của hệ thống pháp luật ở các hệ thống pháp luật khác nhau cũng có nhiều điểm chung song cũng có nhiều điểm khác nhau. Nhìn chung, đa số các hệ thống pháp luật đều tìm mọi cách đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp và phương thức kinh doanh. Những gì xuất hiện trong thực tiễn kinh doanh, có tác động đều được chọn lọc và thể chế hóa. Ví dụ, trong lĩnh vực đầu tư, cùng với sự phát triển về quy mô đầu tư, chúng ta đã thấy xuất hiện nhiều loại hình đầu tư mới: BOT, BT và BTO. Trong thương mại quốc tế, các điều kiện kinh doanh vận tải truyền thống như CIF, FOB, FAB đã được bổ sung thêm hàng loạt phương thức mới mà trước đây không có. Những phương thức mới này được các hệ thống pháp luật khác nhau tiếp nhận và áp dụng. Hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã có những bước đi quan trọng trong việc đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp nhằm tạo ra khả năng lựa chọn rộng rãi cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Từ một vài loại hình doanh nghiệp trong hệ thống pháp luật trước 1990, hiện nay, trong hệ thống pháp luật nước ta đã có một danh mục khá dài các loại công ty, các loại doanh nghiệp. Đó là doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài); doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ, công ty hợp danh v.v… (trong lĩnh vực đầu tư trong nước). Tuy nhiên, so với hệ thống pháp luật của các nước thì loại hình doanh nghiệp hiện có vẫn còn đang thiếu nhiều.
- Đòi hỏi thứ ba liên quan đến quyền của nhà kinh doanh trong việc định đoạt các vấn đề khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế thị trường chứa đựng tính cơ hội rất lớn. Điều này có nghĩa là khi có một cơ hội kinh doanh đến, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp phải nắm bắt ngay. Sự chậm trễ trong việc nắm bắt nó đồng nghĩa với sự chuyển dịch cơ hội này sang các doanh nghiệp khác đang đón đợi. Chính vì vậy, khả năng tự quyết định các vấn đề sản xuất kinh doanh được coi là một yếu tố không thể thiếu trong địa vị pháp lý của doanh nghiệp. quyền tự chủ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có nội hàm rất rộng, khác hẳn với các doanh nghiệp trong cơ chế hoạch tập trung trước đây. Chính vì vậy, cần thoát khỏi cách tiếp cận trước đây đối với doanh nghiệp để có thể tạo ra được trong các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước, một cơ chế ra quyết định (Decision – making mechanism) thích hợp với nền kinh tế thị trường. Việc xác lập quyền tự do kinh doanh biểu hiện khá rõ nét ngay cả ở khía cạnh này. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cần được tự mình quyết định các vấn đề sau:
1. Chấm dứt, chuyển đổi, thu hẹp hay mở rộng doanh nghiệp;
2. Sử dụng vốn, lao động căn cứ vào nhu cầu thực tế của mình;
3. Ký kết và thực hiện các hợp đồng, các liên kết kinh tế phù hợp với lợi ích của mình;
4. Khởi kiện hoặc hòa giải đối với các vi phạm hợp đồng từ phía đối tác;
5. Phát hành trái phiếu, cổ phiếu khi thấy cần thiết.
Quyền của doanh nghiệp, của nhà đầu tư được pháp luật thể chế hóa theo những cách thức và cách tiếp cận khác nhau. Nhiều hệ thống pháp luật cho phép các doanh nghiệp tự xác định quyền của mình trong các điều lệ và quy chế của doanh nghiệp. Pháp luật coi quy chế, điều lệ của doanh nghiệp là “luật của doanh nghiệp” và Tòa án, các cơ quan bảo vệ pháp luật khi xem xét một số tranh chấp phát sinh giữa các doanh nghiệp cũng có thể coi chúng là “nguồn luật áp dụng”. Các hệ thống pháp luật này chỉ quy định những nguyên tắc chung về mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Cách tiếp cận này có ưu điểm là tạo ra được sự năng động của doanh nghiệp. Một số hệ thống pháp luật tìm cách quy định quyền của doanh nghiệp trong các luật và nghị định. Cách tiếp cận này tạo ra được các quy định pháp luật tương đối thống nhất về quyền của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các quy định như vậy khó phản ánh hết những đặc thù của các doanh nghiệp. Thông thường, các hệ thống pháp luật có cách tiếp cận này thường ban hành các văn bản luật về từng loại hình doanh nghiệp, ví dụ như luật về hợp tác xã, luật doanh nghiệp nhà nước, luật về công ty.
Pháp luật Việt Nam hiện nay đang tiếp cận theo cách thứ hai, tức là quy định địa vị pháp lý của doanh nghiệp trong những luật đơn hành khác nhau. Tuy nhiên, pháp luật kinh tế Việt Nam hiện đang có xu hướng nhất thể hóa các văn bản luật đơn hành về doanh nghiệp thành một văn bản luật thống nhất về doanh nghiệp. Xu hướng này thể hiện rõ trong việc ban hành Luật Doanh nghiệp năm 1999.
Thứ ba, khi tiến hành kinh doanh, chủ thể phải thực hiện một hành vi mang tính chất tiền đề khá quan trọng. Đó là hành vi đăng ký kinh doanh. Về bản chất, đăng ký kinh doanh được xem xét dưới hai góc độ: thứ nhất, hành vi của chủ thể nhằm thực hiện nhu cầu kinh doanh của mình; và thứ hai, đó là hành vi quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Với tư cách hành vi của chủ thể thì đây được coi là việc chủ thể muốn xác lập quyền tự do kinh doanh của mình. Chủ thể đã tự tìm mọi cách để thực hiện nhu cầu của mình. Với tư cách là hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì đây là sự khẳng định của Nhà nước về tư cách chủ thể kinh doanh: hoặc là tạo cho họ tư cách chủ thể kinh doanh độc lập, hoặc tạo cho họ một tư cách chủ thể mang tính nhân định (pháp nhân). Dù xét ở góc độ nào thì hành vi đăng ký kinh doanh cũng được thực hiện theo những trình tự và thủ tục mà pháp luật quy định. Điều này có nghĩa là tự do kinh doanh sẽ không thể được xác lập nếu thiếu những quy định pháp luật đảm bảo việc đăng ký kinh doanh của các cá nhân và tổ chức. Xét dưới góc độ khác, đăng ký kinh doanh là hành vi quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, là việc Nhà nước chính thức thừa nhận tư cách pháp lý của doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác và sẽ thực hiện việc giám sát đối với hoạt động của chúng. Sự giám sát này được thực hiện nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể không dẫn xã hội đến những hậu quả tiêu cực, mà ví dụ rõ nét nhất là sự suy thoái môi trường sống. Việc xác lập tư cách pháp lý của các chủ thể kinh doanh là một trong những phương thức xác lập quyền tự do kinh doanh.
Thực tế ở nước ta cho thấy, quyền tự do kinh doanh cho dù được khẳng định trong luật hay Hiến pháp thì việc thực hiện nó phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế đăng ký kinh doanh. Việc đăng ký kinh doanh, cơ chế thực hiện đăng ký kinh doanh cản trở việc thực hiện quyền tự do kinh doanh, nếu nó được xây dựng trên quan điểm thuần túy quản lý nhà nước. Với quan điểm này, các cơ quan nhà nước sẽ áp đặt những điều kiện và thủ tục nhằm làm cho chủ thể kinh doanh phụ thuộc vào mình càng nhiều càng tốt. Cơ chế đăng ký kinh doanh được xác lập trong Luật Công ty (1990) là ví dụ cho cách tiếp cận này. Ngược lại, việc đăng ký kinh doanh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức thực hiện quyền tự do kinh doanh nếu nó được xây dựng trên quan điểm vì sự tăng trưởng của nền kinh tế. Do Nhà nước không thể không thực hiện hoạt động quản lý đối với doanh nghiệp, nên hành vi đăng ký kinh doanh là tất yếu. Vì vậy, gắn quản lý doanh nghiệp với sự tăng trưởng kinh tế đồng nghĩa với việc thể chế hóa nhu cầu xác lập tư cách doanh nghiệp thông qua một cơ chế đơn giản, thuận tiện, ít chi phí và hiệu quả nhất. Hệ thống pháp luật nước ta đang tìm mọi cách tiến gần đến một cơ chế như vậy.
Một trong những yếu tố chi phối mạnh mẽ quyền tự do kinh doanh là quyền tự do ký kết các hợp đồng. Đây là yếu tố thể hiện khá rõ nét quyền tự chủ của doanh nghiệp mặc dù không phải là yếu tố duy nhất. Có thể nói hợp đồng là hình thức pháp lý cơ bản của việc xác lập các mối quan hệ trong doanh nghiệp và các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác. Quan hệ về sử dụng lao động giữa bản thân doanh nghiệp với người lao động được xây dựng trên cơ sở hợp đồng. Mối quan hệ giữa các công ty đối vốn với cổ đông của chúng cũng hình thành trên cơ sở hợp đồng. Hợp đồng được sử dụng đặc biệt phổ biến trong quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa doanh nghiệp với khách hàng. Do bản chất là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý, nên hợp đồng được coi là công cụ quan trọng của việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế thị trường. Trong bất kỳ hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường nào, hợp đồng cũng được coi là xương sống của hệ thống pháp luật kinh tế. Tuyệt đại đa số các giao dịch kinh tế thị trường đều được thực hiện thông qua các hợp đồng.
Hợp đồng có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện quyền tự do kinh doanh. “Hợp đồng, định nghĩa một cách đơn giản nhất, là những thỏa thuận có giá trị pháp lý ràng buộc các bên”2. Thỏa thuận chính là yếu tố bản chất của hợp đồng và chính nhờ nó mà hợp đồng có vai trò lớn trong việc định đoạt lợi ích của các bên, đưa các bên đến những thỏa hiệp có lợi nhất cho họ. Như chúng ta đã biết, nền kinh tế thị trường được thúc đẩy bởi động lực lợi nhuận. Vì thế, các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế phải luôn tính toán để làm sao đạt được lợi nhuận tối đa. Việc đàm phán và ký kết các hợp đồng không là ngoại lệ. Bởi lẽ đó, các chủ thể phải được hoàn toàn tự do quyết định ký với ai, khi nào ký, trên những điều kiện nào họ cần ký hợp đồng. Yếu tố bản chất của hợp đồng giúp các bên có được sự lựa chọn thích hợp. Chỉ khi các chủ thể thấy lợi ích của họ có thể được đáp ứng, họ sẽ tham gia ký kết hợp đồng.
Vì vai trò quan trọng này, chế định hợp đồng đặc biệt được chú trọng trong hệ thống pháp luật của các nước có nền kinh tế thị trường. Xây dựng được chế định hợp đồng thích hợp là một bước tiến quan trọng cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh. Trong thực tiễn của nước ta, hợp đồng cũng là chế định pháp luật rất được chú ý, đặc biệt kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, sau đó là Pháp lệnh Hợp đồng dân sự, Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại là những cố gắng của hệ thống pháp luật nước ta nhằm tạo ra những tiền đề pháp lý quan trọng cho tự do kinh doanh. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế có thể được coi là phản ứng đầu tiên của hệ thống pháp luật nước ta đối với đòi hỏi của tự do kinh doanh. Bằng việc ban hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, lần đầu tiên, hệ thống pháp luật nước ta đã khẳng định ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các tổ chức kinh tế. Tiếp theo đó, với việc ban hành Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại, chế định hợp đồng được hoàn thiện thêm một bước. Tuy nhiên, so với những đòi hỏi của thực tiễn thì pháp luật về hợp đồng ở nước ta cần được tiếp tục hoàn thiện.
Cách tiếp cận cơ bản của pháp luật nước ta về hợp đồng nói chung và hợp đồng kinh tế nói riêng về cơ bản phù hợp với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Những nguyên tắc chung chi phối chế định hợp đồng nước ta bao gồm: tự do hợp đồng, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí và cùng có lợi. Các quy định cụ thể của pháp luật hợp đồng đều hướng vào việc thể hiện các nguyên tắc này.
2. Pháp luật kinh tế tạo ra những đảm bảo cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh
Như đã nêu ở trên, tự do kinh doanh, về thực chất, là khả năng của chủ thể được thực hiện những hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ hoặc bất cứ những hoạt động gì nhằm mang lại lợi nhuận. Những hành vi này của chủ thể trong nền kinh tế thị trường luôn luôn bị thúc đẩy bởi mục tiêu lợi nhuận. Các chủ thể, dù đó là doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh nhỏ hay các doanh nghiệp lớn, thuộc sở hữu tư nhân hay sở hữu tập thể, cá thể đều luôn luôn vươn tới lợi nhuận. Lợi nhuận chính là động lực thúc đẩy họ trong hoạt động kinh doanh. Trong bất cứ nền kinh tế thị trường nào, tự do kinh doanh cũng có thể dẫn tới tình trạng các chủ thể có thể chèn ép nhau, tìm cách loại bỏ nhau trong xu thế cạnh tranh khốc liệt. Lừa đảo, gian lận thương mại, vi phạm quyền sở hữu công nghiệp là những mánh khóe dễ thấy trong nền kinh tế thị trường. Chính vì lý do này, trong nền kinh tế thị trường, việc tạo ra những đảm bảo cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh là một đòi hỏi cực kỳ quan trọng. Tạo ra những đảm bảo cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh tức là xác định những hành vi mà các doanh nghiệp, các nhà đầu tư cần phải thực hiện hoặc cần phải tránh để không làm tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư khác. Trong lịch sử nền kinh tế thị trường, có những lúc tự do kinh doanh được coi như là một giá trị tự tại, không thể bị chi phối bởi Nhà nước, bởi pháp luật mà chỉ bị chi phối bởi những bàn tay vô hình của thị trường. Quan niệm nền kinh tế Laiser Faire cũng từ quan điểm này mà hình thành. Những người theo quan điểm laiser faire cho rằng Nhà nước không cần can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà đơn thuần chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự. Quan điểm này hạn chế rất nhiều việc sử dụng pháp luật với tư cách là công cụ điều chỉnh các quan hệ liên quan đến quyền tự do kinh doanh. Thực tế cho thấy quyền tự do kinh doanh trong nền kinh tế thị trường cũng cần phải được đặt trong những giới hạn nhất định của pháp luật. Sự can thiệp của Nhà nước là cần thiết vì chính Nhà nước mới đảm bảo cho nền kinh tế thị trường không tự hủy hoại chính mình bởi động lực lợi nhuận. Cùng với sự phát triển ngày càng đa dạng của các quan hệ sản xuất kinh doanh, vai trò của pháp luật ngày càng trở nên nổi bật không chỉ trong việc xác lập các yếu tố của tự do kinh doanh mà cả trong việc tạo ra các đảm bảo cho việc thực hiện tự do kinh doanh.
Vai trò của pháp luật kinh tế đối với việc tạo ra các đảm bảo cho việc thực hiện tự do kinh doanh thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
- Pháp luật kinh tế bảo vệ những hoạt động thúc đẩy tự do kinh doanh, đồng thời hạn chế những hoạt động xâm phạm hoặc cản trở tự do kinh doanh.
Những hoạt động mà pháp luật kinh tế cho phép và khuyến khích thực hiện bao gồm:
1. Cạnh tranh lành mạnh;
2. Hạn chế độc quyền;
3. Quyền tự định đoạt của doanh nghiệp trong việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh;
4. Tự do hợp đồng;
Những hoạt động mà pháp luật kinh tế cấm hoặc hạn chế bao gồm:
1. Độc quyền, hạn chế cạnh tranh;
2. Vi phạm quyền sở hữu công nghiệp;
3. Vi phạm nghĩa vụ cam kết;
4. Gian lận thương mại;
5. Lừa đảo v.v…
- Pháp luật kinh tế tạo ra cơ chế xử lý nhanh chóng các tranh chấp phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc thực hiện quyền tự do kinh doanh phụ thuộc không chỉ vào sự đảm bảo của Nhà nước trong việc xác lập các yếu tố cần thiết của nó mà còn phụ thuộc vào thiện chí và trách nhiệm của các đối tác trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nhà đầu tư hay doanh nghiệp sẽ không tiến hành sản xuất kinh doanh được một cách đầy đủ nếu những hợp đồng, những giao kết kinh tế mà họ tham gia không được thực hiện đầy đủ. Nhà đầu tư dù có kinh doanh dưới một loại hình doanh nghiệp luật định, được đảm bảo đầy đủ quyền tự quyết định các vấn đề sản xuất kinh doanh, vẫn khó có thể thực hiện trọn vẹn quyền tự do kinh doanh, nếu những cam kết mà họ đã đưa ra không được thực hiện. Thông thường, các hợp đồng, các giao kết kinh tế mà các doanh nghiệp tham gia đều nhằm vào mục đích chủ yếu là huy động vốn, mua sắm trang thiết bị, nguyên liệu, thuê lao động và tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp sẽ không kinh doanh được, nếu các nghĩa vụ này thường xuyên bị vi phạm mà không có bất cứ cơ chế nào để đảm bảo thực hiện chúng. Bằng các chế tài kinh tế, pháp luật kinh tế buộc các bên phải tôn trọng các hợp đồng đã ký kết. Bên cạnh đó, pháp luật còn tác động đến các chủ thể tham gia các hợp đồng trong việc thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp. Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các doanh nghiệp thường được xây dựng trên nguyên lý đảm bảo tự do kinh doanh kể cả trong việc lựa chọn phương án giải quyết tranh chấp. Các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc khởi kiện hoặc không khởi kiện các đối tác của mình hoặc sử dụng các phương thức như hòa giải, thương lượng để giải quyết các tranh chấp. Pháp luật tôn trọng quyền tự quyết của doanh nghiệp vì chỉ có doanh nghiệp mới hiểu rõ đối tác của mình, hiểu rõ cái lợi, cái hại khi khởi kiện đối tác. Tuy nhiên, trong bất cứ trường hợp nào, pháp luật vẫn để dành cho doanh nghiệp cơ hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Khi xét thấy những vi phạm từ phía đối tác có ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do kinh doanh của mình, doanh nghiệp hoàn toàn có đủ những biện pháp để tự bảo vệ.
- Pháp luật quy định những lĩnh vực cấm và hạn chế đối với doanh nghiệp. Việc xác lập những lĩnh vực cấm hoặc hạn chế đối với kinh doanh là một hoạt động mang nặng tính chất quản lý nhà nước, song lại có ý nghĩa rất to lớn đối với việc xác lập quyền tự do kinh doanh. Quá trình thực hiện Luật Doanh nghiệp (1999) cũng đã cho thấy ảnh hưởng của việc quy định các lĩnh vực bị cấm hay bị hạn chế kinh doanh đối với việc thực hiện quyền tự do kinh doanh, cụ thể là đối với việc thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh. Trong một thời gian dài, các cơ quan có thẩm quyền lúng túng trong việc cho đăng ký kinh doanh hay không cho đăng ký kinh doanh đối với những người tổ chức công ty cung cấp dịch vụ vệ sĩ hay thám tử tư. Tương tự như vậy, có thể nói về các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện.
Sự thiếu vắng những quy định về vấn đề này có ảnh hưởng lớn đối với việc xác lập quyền tự do kinh doanh. Ảnh hưởng của việc xác lập những lĩnh vực cấm và hạn chế đối với kinh doanh thể hiện ở hai khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, nếu các lĩnh vực bị cấm hoặc hạn chế kinh doanh không được xác định rõ thì doanh nghiệp và các nhà đầu tư luôn bị đặt trong một tình trạng rủi ro. Việc Nhà nước buộc các nhà đầu tư phải giải thể doanh nghiệp, chấm dứt hoạt động kinh doanh mà họ đã thực hiện trong một lĩnh vực cụ thể, do trước đó không có những quy định rõ ràng về cấm hay hạn chế đối với họ, sẽ gây tổn thất to lớn cho họ, làm cho họ mất niềm tin vào sự đảm bảo quyền tự do kinh doanh từ phía Nhà nước.
Thứ hai, việc quy định quá nhiều lĩnh vực bị cấm hoặc bị hạn chế một mặt dễ tạo ra những chướng ngại cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh và mặt khác dẫn đến sự độc quyền của một số doanh nghiệp được phép kinh doanh trong những lĩnh vực như vậy.
Chú thích:
1 Jame W. Vander Zanden, The social experiences, New York, 1988, tr. 405.
2 Devid Kely & Ann Holmes, Principles of Business Law, London, Sydney, 1997, tr. 63.
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 7/2002

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code