TS. BÙI NGỌC CƯỜNG – Khoa Pháp luật kinh tế – ĐH Luật Hà Nội
1. Pháp luật kinh tế thể chế hóa những đòi hỏi của quyền tự do kinh doanh
Tự do kinh doanh về thực chất là khả năng
của chủ thể được thực hiện những hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm,
cung cấp dịch vụ kinh doanh dưới những hình thức thích hợp với khả năng
vốn, khả năng quản lý của mình nhằm thu lợi nhuận. Tuy nhiên, khả năng
này có được đảm bảo thực hiện hay không và cơ sở nào để bảo đảm thực
hiện nó là điều có ý nghĩa quan trọng. Chắc chắn trong bất cứ nền kinh
tế hàng hóa nào cũng không thiếu các chủ thể muốn được kinh doanh một
cách tự do. Ngay cả trong nền kinh tế kế hoạch tập trung của chúng ta
trước đây cũng có không ít người muốn tham gia vào quá trình sản xuất,
tiêu thụ sản phẩm hay cung cấp dịch vụ nhằm thu lợi nhuận. Tuy nhiên,
trong các xã hội khác nhau thì mức độ đảm bảo việc thực hiện nhu cầu này
lại rất khác nhau. Điều này tùy thuộc vào hệ thống pháp luật và khả
năng của các cơ quan nhà nước trong việc thực thi pháp luật, đặc biệt là
những lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến tự do kinh doanh. Rõ ràng, hệ
thống pháp luật của quốc gia có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc
đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Sự khác nhau về tính toàn diện, tính
hiệu quả của hệ thống pháp luật là một trong những nhân tố quyết định
cho sự phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Thông thường, những nơi
có hệ thống pháp luật minh bạch, có hiệu lực là những nơi có thể thu hút
được các nguồn đầu tư cho sự phát triển kinh tế. Vậy, điều gì ẩn trong
mối liên hệ giữa quyền tự do kinh doanh và pháp luật nói chung và pháp
luật kinh tế nói riêng? Muốn trả lời câu hỏi này, cần phải xác định vai
trò đặc biệt của pháp luật trong việc khẳng định tự do kinh doanh và mối
liên hệ giữa pháp luật với các đòi hỏi của tự do kinh doanh.
Thứ nhất, pháp
luật có vai trò đặc biệt đối với tự do kinh doanh vì nó biến nhu cầu
kinh doanh thành một quyền pháp định và thậm chí cao hơn, là quyền Hiến
định. Nhu cầu kinh doanh là một nhu cầu mang tính xã hội. Vì vậy, biến
nhu cầu xã hội này thành quyền Hiến định hay pháp định là tiền đề thực
hiện tự do kinh doanh. Như chúng ta đã thấy, ngay cả trong nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung trước đây, sự tồn tại nhu cầu tự do kinh doanh là
điều không thể phủ nhận, mặc dù sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất lúc
đó rất bị hạn chế và phân biệt đối xử. Tuy nhiên, do những lý do khác
nhau, tự do kinh doanh không được pháp luật công nhận và thực tế nó
không tồn tại. Trong các văn bản pháp luật cũng như các văn kiện chính
thức của Đảng và Nhà nước ta lúc đó khó có thể tìm thấy khái niệm tự do
kinh doanh, tự do sở hữu tư liệu sản xuất. Khó có thể có sự tồn tại kinh
doanh đối với cá nhân khi sở hữu về tư liệu sản xuất chỉ được áp dụng
đối với một số hộ kinh doanh cá thể, quy mô không lớn. Ngay cả những chủ
thể được phép kinh doanh và được Nhà nước ưu tiên và khuyến khích như
xí nghiệp quốc doanh (nay gọi là doanh nghiệp nhà nước) cũng
không hoàn toàn được tự do kinh doanh. Những chỉ tiêu kế hoạch ràng buộc
doanh nghiệp trên mọi lĩnh vực như lao động, tiền lương, vật tư, tiêu
thụ v.v… đã biến doanh nghiệp thành một cỗ máy thực hiện các nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh. Như vậy, pháp luật kinh tế trong mối liên hệ với
quyền tự do kinh doanh đã đóng vai trò khai phá, dọn đường. Nếu không
biến tự do kinh doanh thành một quyền luật định của công dân thì khó có
thể nói biến nó thành hiện thực cuộc sống.
Thứ hai, pháp
luật thể chế hóa các đòi hỏi của tự do kinh doanh. Như chúng ta biết, tự
do kinh doanh có những đòi hỏi riêng của nó. Kinh doanh là hành vi mang
tính xã hội hóa cao của chủ thể. Muốn thực hiện hành vi này, chủ thể
cần phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định. Khác với
nhiều hành vi đơn giản khác, kinh doanh hàm chứa những đòi hỏi phong
phú, đa dạng và dưới nhiều phương diện khác nhau. Khó có thể liệt kê hết
tất cả những đòi hỏi này nên trong phạm vi của bài này, chúng tôi chỉ
phân tích những đòi hỏi cơ bản mà pháp luật cần thể chế hóa để quyền tự
do kinh doanh được thực hiện trong cuộc sống.
- Đòi hỏi thứ nhất là đòi hỏi
mang tính chất tiền đề vật chất – đó là quyền sở hữu, đặc biệt là quyền
sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Muốn kinh doanh thì phải có vốn và tài
sản. Không ai kinh doanh lại không có trong tay mình những điều kiện tối
thiểu đó. Về chủ quan, chủ thể phải có tư liệu sản xuất, có vốn và có
quyền định đoạt đối với những tài sản này. Pháp luật phải khẳng định địa
vị chủ sở hữu về tư liệu sản xuất nếu muốn để cho các công dân và tổ
chức thực sử được hưởng quyền tự do kinh doanh.
Về khách quan, các chủ sở hữu phải được
các thành viên khác trong xã hội thừa nhận, tôn trọng. Sự thừa nhận và
tôn trọng này là điều kiện cần thiết để chủ thể sở hữu tham gia các quan
hệ pháp luật khác cần thiết cho việc trao đổi, mua bán nguyên liệu,
thuê lao động, sản xuất ra sản phẩm và dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, cung
ứng dịch vụ. Muốn có sự thừa nhận này, ngoài yếu tố tự giác của các
thành viên trong xã hội, pháp luật phải bảo vệ chủ sở hữu một cách có
hiệu quả các quyền và lợi ích chính đáng của họ bị xâm hại. Các cơ quan
nhà nước phải đối xử với các chủ sở hữu một cách bình đẳng, có hiệu quả.
Như vậy, pháp luật đã xác lập quyền sở hữu tư liệu sản xuất và tạo ra
điều kiện, tiền đề cho việc thực hiện tự do kinh doanh.
Sở hữu là vấn đề phức tạp và then chốt
của tự do kinh doanh. Sự khác nhau giữa kinh tế kế hoạch hóa tập trung
và kinh tế thị trường suy cho cùng là vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất. “Hai
nền kinh tế khác nhau ở hai khía cạnh chính. Thứ nhất, chúng đưa ra
những câu trả lời khác nhau cho câu hỏi: các hoạt động kinh tế được tổ
chức như thế nào? Bởi thị trường hay bởi kế hoạch? Thứ hai, chúng đưa ra những câu trả lời khác nhau cho câu hỏi: Ai sở hữu tư liệu sản xuất? Nhà nước hay cá nhân?”1.
Sở hữu là phạm trù kinh tế được sử dụng để chỉ sự xác lập chủ quyền của
cá nhân, tổ chức đối với tài sản nhất định. Với tư cách là phạm trù
kinh tế thì sở hữu tồn tại ở mọi thời kỳ. Tuy nhiên, phạm trù pháp lý
quyền sở hữu lại chỉ gắn với sự xuất hiện của nhà nước và pháp luật. Nội
dung của quyền sở hữu thay đổi cùng với sự phát triển của khái niệm tài
sản. Tài sản trong nền kinh tế thị trường hiện đại được hiểu là bất cứ
giá trị nào chứ không đơn thuần chỉ là những tài sản hữu hình. Sự đa
dạng của các loại tài sản và sự chuyển hóa, sự biến đổi của các loại
hình sở hữu đối với chúng dẫn đến sự đa dạng của loại hình doanh nghiệp,
loại hình kinh doanh. Vấn đề đặt ra là pháp luật phải đáp ứng được sự
đa dạng của tài sản và sự biến đổi của các loại hình sở hữu. Sẽ rất khó
bảo vệ được lợi ích đa dạng của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nếu vấn
đề sở hữu không được giải quyết thỏa đáng.
Việc thể chế hóa yếu tố sở hữu có thể
thực hiện theo nhiều mô hình và cách tiếp cận khác nhau. Có những hệ
thống pháp luật cho phép công dân sở hữu bất cứ tư liệu sản xuất, thực
hiện bất cứ hoạt động dịch vụ nào. Song, cũng có những hệ thống pháp
luật hạn chế việc sở hữu một số tư liệu sản xuất, thực hiện một số dịch
vụ nhất định. Chẳng hạn, sở hữu sòng bạc và kinh doanh sòng bạc không
được chấp nhận ở hệ thống pháp luật này, song lại được chấp nhận ở hệ
thống pháp luật khác. Tương tự, có thể nói về sở hữu đất đai. Pháp luật
Việt Nam hiện đang có xu hướng ngày càng tự do hóa sở hữu. Ngay cả việc
hạn chế sở hữu cá nhân về đất đai hiện cũng đang có xu hướng giảm bớt
thông qua việc quy định cho người sử dụng đất những quyền năng tiếp cận
tối đa quyền năng sở hữu: quyền thừa kế, quyền chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố, quyền sử dụng đất.
- Đòi hỏi thứ hai liên quan đến
việc xác định các loại hình doanh nghiệp mà các tổ chức, cá nhân có thể
lựa chọn. Muốn kinh doanh, các nhà đầu tư phải lựa chọn một loại hình
doanh nghiệp hoặc một phương thức kinh doanh nhất định mà pháp luật đã
quy định. Thực tế của đất nước ta đầu những năm 90 cho thấy, do thiếu
các loại hình doanh nghiệp thích ứng, hoạt động kinh doanh tín dụng vô
tổ chức đã dẫn đến những tổn thất về kinh tế xã hội cho đất nước. Các
nhà đầu tư cần phải có được những loại hình doanh nghiệp hoặc những
phương thức kinh doanh nhất định. Những loại hình hoặc phương thức kinh
doanh phải được pháp luật quy định. Nhà đầu tư chỉ có thể bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình khi họ đầu tư, kinh doanh trên những cơ sở
pháp lý vững chắc.
Một điểm đáng đặc biệt lưu ý là nền kinh
tế thị trường rất năng động và rất đa dạng xét về chủ thể tham gia. Nếu
như trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung của chúng ta trước đây chỉ
có một số loại chủ thể ít ỏi, thì trong nền kinh tế thị trường hiện nay,
chúng ta có nhiều loại chủ thể tham gia vào nền kinh tế. Sự độc diễn
của một vài loại hình doanh nghiệp dĩ nhiên không thể dẫn tới nhu cầu
chuyển đổi và cũng không tạo điều kiện cho sự lựa chọn. Nền kinh tế kế
hoạch hóa trước đây chỉ chủ yếu có doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác
xã. Sự lựa chọn đương nhiên khó xảy ra và sự chuyển đổi từ loại hình
doanh nghiệp này sang loại hình doanh nghiệp khác cũng rất khó khăn.
Tình trạng kể trên không thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi
mà vì sự cạnh tranh, tức là vì lợi nhuận và sự sống còn của mình, các
doanh nghiệp phải luôn luôn tìm cách thích nghi với sự biến đổi của cung
và cầu. Chính vì nhu cầu thích nghi này mà các nhà đầu tư luôn mong
muốn có được nhiều cơ hội lựa chọn kể cả mặt hàng, phương thức kinh
doanh lẫn loại hình doanh nghiệp. Các nhà đầu tư rất muốn có một sự lựa
chọn tương đối rộng rãi về loại hình doanh nghiệp và khả năng chuyển đổi
dễ dàng từ loại hình doanh nghiệp, phương thức kinh doanh đã chọn sang
một loại hình doanh nghiệp và phương thức kinh doanh khác khi cần phải
thích nghi với những thay đổi của nền kinh tế.
Cách thức và phương pháp thể chế hóa đòi
hỏi này của hệ thống pháp luật ở các hệ thống pháp luật khác nhau cũng
có nhiều điểm chung song cũng có nhiều điểm khác nhau. Nhìn chung, đa số
các hệ thống pháp luật đều tìm mọi cách đa dạng hóa các loại hình doanh
nghiệp và phương thức kinh doanh. Những gì xuất hiện trong thực tiễn
kinh doanh, có tác động đều được chọn lọc và thể chế hóa. Ví dụ, trong
lĩnh vực đầu tư, cùng với sự phát triển về quy mô đầu tư, chúng ta đã
thấy xuất hiện nhiều loại hình đầu tư mới: BOT, BT và BTO. Trong thương
mại quốc tế, các điều kiện kinh doanh vận tải truyền thống như CIF, FOB,
FAB đã được bổ sung thêm hàng loạt phương thức mới mà trước đây không
có. Những phương thức mới này được các hệ thống pháp luật khác nhau tiếp
nhận và áp dụng. Hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã có những bước đi
quan trọng trong việc đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp nhằm tạo ra
khả năng lựa chọn rộng rãi cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Từ một
vài loại hình doanh nghiệp trong hệ thống pháp luật trước 1990, hiện
nay, trong hệ thống pháp luật nước ta đã có một danh mục khá dài các
loại công ty, các loại doanh nghiệp. Đó là doanh nghiệp liên doanh,
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài);
doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ,
công ty hợp danh v.v… (trong lĩnh vực đầu tư trong nước). Tuy nhiên, so
với hệ thống pháp luật của các nước thì loại hình doanh nghiệp hiện có
vẫn còn đang thiếu nhiều.
- Đòi hỏi thứ ba liên quan đến
quyền của nhà kinh doanh trong việc định đoạt các vấn đề khác nhau của
quá trình sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế thị trường chứa đựng tính cơ
hội rất lớn. Điều này có nghĩa là khi có một cơ hội kinh doanh đến, các
nhà đầu tư, các doanh nghiệp phải nắm bắt ngay. Sự chậm trễ trong việc
nắm bắt nó đồng nghĩa với sự chuyển dịch cơ hội này sang các doanh
nghiệp khác đang đón đợi. Chính vì vậy, khả năng tự quyết định các vấn
đề sản xuất kinh doanh được coi là một yếu tố không thể thiếu trong địa
vị pháp lý của doanh nghiệp. quyền tự chủ của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường có nội hàm rất rộng, khác hẳn với các doanh nghiệp
trong cơ chế hoạch tập trung trước đây. Chính vì vậy, cần thoát khỏi
cách tiếp cận trước đây đối với doanh nghiệp để có thể tạo ra được trong
các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước, một cơ
chế ra quyết định (Decision – making mechanism) thích hợp với
nền kinh tế thị trường. Việc xác lập quyền tự do kinh doanh biểu hiện
khá rõ nét ngay cả ở khía cạnh này. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường cần được tự mình quyết định các vấn đề sau:
1. Chấm dứt, chuyển đổi, thu hẹp hay mở rộng doanh nghiệp;
2. Sử dụng vốn, lao động căn cứ vào nhu cầu thực tế của mình;
3. Ký kết và thực hiện các hợp đồng, các liên kết kinh tế phù hợp với lợi ích của mình;
4. Khởi kiện hoặc hòa giải đối với các vi phạm hợp đồng từ phía đối tác;
5. Phát hành trái phiếu, cổ phiếu khi thấy cần thiết.
Quyền của doanh nghiệp, của nhà đầu tư
được pháp luật thể chế hóa theo những cách thức và cách tiếp cận khác
nhau. Nhiều hệ thống pháp luật cho phép các doanh nghiệp tự xác định
quyền của mình trong các điều lệ và quy chế của doanh nghiệp. Pháp luật
coi quy chế, điều lệ của doanh nghiệp là “luật của doanh nghiệp” và Tòa
án, các cơ quan bảo vệ pháp luật khi xem xét một số tranh chấp phát sinh
giữa các doanh nghiệp cũng có thể coi chúng là “nguồn luật áp dụng”.
Các hệ thống pháp luật này chỉ quy định những nguyên tắc chung về mối
quan hệ giữa các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Cách tiếp cận này có ưu
điểm là tạo ra được sự năng động của doanh nghiệp. Một số hệ thống pháp
luật tìm cách quy định quyền của doanh nghiệp trong các luật và nghị
định. Cách tiếp cận này tạo ra được các quy định pháp luật tương đối
thống nhất về quyền của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các quy định như
vậy khó phản ánh hết những đặc thù của các doanh nghiệp. Thông thường,
các hệ thống pháp luật có cách tiếp cận này thường ban hành các văn bản
luật về từng loại hình doanh nghiệp, ví dụ như luật về hợp tác xã, luật
doanh nghiệp nhà nước, luật về công ty.
Pháp luật Việt Nam hiện nay đang tiếp cận
theo cách thứ hai, tức là quy định địa vị pháp lý của doanh nghiệp
trong những luật đơn hành khác nhau. Tuy nhiên, pháp luật kinh tế Việt
Nam hiện đang có xu hướng nhất thể hóa các văn bản luật đơn hành về
doanh nghiệp thành một văn bản luật thống nhất về doanh nghiệp. Xu hướng
này thể hiện rõ trong việc ban hành Luật Doanh nghiệp năm 1999.
Thứ ba, khi
tiến hành kinh doanh, chủ thể phải thực hiện một hành vi mang tính chất
tiền đề khá quan trọng. Đó là hành vi đăng ký kinh doanh. Về bản chất,
đăng ký kinh doanh được xem xét dưới hai góc độ: thứ nhất, hành vi của
chủ thể nhằm thực hiện nhu cầu kinh doanh của mình; và thứ hai, đó là
hành vi quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Với tư cách hành vi
của chủ thể thì đây được coi là việc chủ thể muốn xác lập quyền tự do
kinh doanh của mình. Chủ thể đã tự tìm mọi cách để thực hiện nhu cầu của
mình. Với tư cách là hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì đây
là sự khẳng định của Nhà nước về tư cách chủ thể kinh doanh: hoặc là
tạo cho họ tư cách chủ thể kinh doanh độc lập, hoặc tạo cho họ một tư
cách chủ thể mang tính nhân định (pháp nhân). Dù xét ở góc độ nào thì
hành vi đăng ký kinh doanh cũng được thực hiện theo những trình tự và
thủ tục mà pháp luật quy định. Điều này có nghĩa là tự do kinh doanh sẽ
không thể được xác lập nếu thiếu những quy định pháp luật đảm bảo việc
đăng ký kinh doanh của các cá nhân và tổ chức. Xét dưới góc độ khác,
đăng ký kinh doanh là hành vi quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, là
việc Nhà nước chính thức thừa nhận tư cách pháp lý của doanh nghiệp và
các chủ thể kinh doanh khác và sẽ thực hiện việc giám sát đối với hoạt
động của chúng. Sự giám sát này được thực hiện nhằm mục đích đảm bảo cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể không dẫn xã hội đến
những hậu quả tiêu cực, mà ví dụ rõ nét nhất là sự suy thoái môi trường
sống. Việc xác lập tư cách pháp lý của các chủ thể kinh doanh là một
trong những phương thức xác lập quyền tự do kinh doanh.
Thực tế ở nước ta cho thấy, quyền tự do
kinh doanh cho dù được khẳng định trong luật hay Hiến pháp thì việc thực
hiện nó phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế đăng ký kinh doanh. Việc đăng ký
kinh doanh, cơ chế thực hiện đăng ký kinh doanh cản trở việc thực hiện
quyền tự do kinh doanh, nếu nó được xây dựng trên quan điểm thuần túy
quản lý nhà nước. Với quan điểm này, các cơ quan nhà nước sẽ áp đặt
những điều kiện và thủ tục nhằm làm cho chủ thể kinh doanh phụ thuộc vào
mình càng nhiều càng tốt. Cơ chế đăng ký kinh doanh được xác lập trong
Luật Công ty (1990) là ví dụ cho cách tiếp cận này. Ngược lại, việc đăng
ký kinh doanh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức thực
hiện quyền tự do kinh doanh nếu nó được xây dựng trên quan điểm vì sự
tăng trưởng của nền kinh tế. Do Nhà nước không thể không thực hiện hoạt
động quản lý đối với doanh nghiệp, nên hành vi đăng ký kinh doanh là tất
yếu. Vì vậy, gắn quản lý doanh nghiệp với sự tăng trưởng kinh tế đồng
nghĩa với việc thể chế hóa nhu cầu xác lập tư cách doanh nghiệp thông
qua một cơ chế đơn giản, thuận tiện, ít chi phí và hiệu quả nhất. Hệ
thống pháp luật nước ta đang tìm mọi cách tiến gần đến một cơ chế như
vậy.
Một trong những yếu tố chi phối mạnh mẽ
quyền tự do kinh doanh là quyền tự do ký kết các hợp đồng. Đây là yếu tố
thể hiện khá rõ nét quyền tự chủ của doanh nghiệp mặc dù không phải là
yếu tố duy nhất. Có thể nói hợp đồng là hình thức pháp lý cơ bản của
việc xác lập các mối quan hệ trong doanh nghiệp và các mối quan hệ giữa
doanh nghiệp với các chủ thể khác. Quan hệ về sử dụng lao động giữa bản
thân doanh nghiệp với người lao động được xây dựng trên cơ sở hợp đồng.
Mối quan hệ giữa các công ty đối vốn với cổ đông của chúng cũng hình
thành trên cơ sở hợp đồng. Hợp đồng được sử dụng đặc biệt phổ biến trong
quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa doanh nghiệp với khách
hàng. Do bản chất là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý, nên hợp đồng được coi là
công cụ quan trọng của việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế thị trường.
Trong bất kỳ hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường nào, hợp đồng
cũng được coi là xương sống của hệ thống pháp luật kinh tế. Tuyệt đại
đa số các giao dịch kinh tế thị trường đều được thực hiện thông qua các
hợp đồng.
Hợp đồng có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện quyền tự do kinh doanh. “Hợp đồng, định nghĩa một cách đơn giản nhất, là những thỏa thuận có giá trị pháp lý ràng buộc các bên”2.
Thỏa thuận chính là yếu tố bản chất của hợp đồng và chính nhờ nó mà hợp
đồng có vai trò lớn trong việc định đoạt lợi ích của các bên, đưa các
bên đến những thỏa hiệp có lợi nhất cho họ. Như chúng ta đã biết, nền
kinh tế thị trường được thúc đẩy bởi động lực lợi nhuận. Vì thế, các chủ
thể tham gia các quan hệ kinh tế phải luôn tính toán để làm sao đạt
được lợi nhuận tối đa. Việc đàm phán và ký kết các hợp đồng không là
ngoại lệ. Bởi lẽ đó, các chủ thể phải được hoàn toàn tự do quyết định ký
với ai, khi nào ký, trên những điều kiện nào họ cần ký hợp đồng. Yếu tố
bản chất của hợp đồng giúp các bên có được sự lựa chọn thích hợp. Chỉ
khi các chủ thể thấy lợi ích của họ có thể được đáp ứng, họ sẽ tham gia
ký kết hợp đồng.
Vì vai trò quan trọng này, chế định hợp
đồng đặc biệt được chú trọng trong hệ thống pháp luật của các nước có
nền kinh tế thị trường. Xây dựng được chế định hợp đồng thích hợp là một
bước tiến quan trọng cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh. Trong
thực tiễn của nước ta, hợp đồng cũng là chế định pháp luật rất được chú
ý, đặc biệt kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường. Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế, sau đó là Pháp lệnh Hợp đồng dân sự, Bộ luật Dân
sự, Luật Thương mại là những cố gắng của hệ thống pháp luật nước ta nhằm
tạo ra những tiền đề pháp lý quan trọng cho tự do kinh doanh. Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế có thể được coi là phản ứng đầu tiên của hệ thống pháp
luật nước ta đối với đòi hỏi của tự do kinh doanh. Bằng việc ban hành
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, lần đầu tiên, hệ thống pháp luật nước ta đã
khẳng định ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các tổ chức kinh tế.
Tiếp theo đó, với việc ban hành Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại, chế
định hợp đồng được hoàn thiện thêm một bước. Tuy nhiên, so với những đòi
hỏi của thực tiễn thì pháp luật về hợp đồng ở nước ta cần được tiếp tục
hoàn thiện.
Cách tiếp cận cơ bản của pháp luật nước
ta về hợp đồng nói chung và hợp đồng kinh tế nói riêng về cơ bản phù hợp
với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Những nguyên tắc chung
chi phối chế định hợp đồng nước ta bao gồm: tự do hợp đồng, tự nguyện,
bình đẳng, thiện chí và cùng có lợi. Các quy định cụ thể của pháp luật
hợp đồng đều hướng vào việc thể hiện các nguyên tắc này.
2. Pháp luật kinh tế tạo ra những đảm bảo cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh
Như đã nêu ở trên, tự do kinh doanh, về
thực chất, là khả năng của chủ thể được thực hiện những hoạt động sản
xuất, cung ứng dịch vụ hoặc bất cứ những hoạt động gì nhằm mang lại lợi
nhuận. Những hành vi này của chủ thể trong nền kinh tế thị trường luôn
luôn bị thúc đẩy bởi mục tiêu lợi nhuận. Các chủ thể, dù đó là doanh
nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh nhỏ hay các doanh nghiệp lớn, thuộc sở
hữu tư nhân hay sở hữu tập thể, cá thể đều luôn luôn vươn tới lợi
nhuận. Lợi nhuận chính là động lực thúc đẩy họ trong hoạt động kinh
doanh. Trong bất cứ nền kinh tế thị trường nào, tự do kinh doanh cũng có
thể dẫn tới tình trạng các chủ thể có thể chèn ép nhau, tìm cách loại
bỏ nhau trong xu thế cạnh tranh khốc liệt. Lừa đảo, gian lận thương mại,
vi phạm quyền sở hữu công nghiệp là những mánh khóe dễ thấy trong nền
kinh tế thị trường. Chính vì lý do này, trong nền kinh tế thị trường,
việc tạo ra những đảm bảo cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh là
một đòi hỏi cực kỳ quan trọng. Tạo ra những đảm bảo cho việc thực hiện
quyền tự do kinh doanh tức là xác định những hành vi mà các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư cần phải thực hiện hoặc cần phải tránh để không
làm tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, các nhà
đầu tư khác. Trong lịch sử nền kinh tế thị trường, có những lúc tự do
kinh doanh được coi như là một giá trị tự tại, không thể bị chi phối bởi
Nhà nước, bởi pháp luật mà chỉ bị chi phối bởi những bàn tay vô hình
của thị trường. Quan niệm nền kinh tế Laiser Faire cũng từ quan điểm này mà hình thành. Những người theo quan điểm laiser faire cho
rằng Nhà nước không cần can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà
đơn thuần chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự. Quan điểm này hạn chế rất
nhiều việc sử dụng pháp luật với tư cách là công cụ điều chỉnh các quan
hệ liên quan đến quyền tự do kinh doanh. Thực tế cho thấy quyền tự do
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường cũng cần phải được đặt trong
những giới hạn nhất định của pháp luật. Sự can thiệp của Nhà nước là cần
thiết vì chính Nhà nước mới đảm bảo cho nền kinh tế thị trường không tự
hủy hoại chính mình bởi động lực lợi nhuận. Cùng với sự phát triển ngày
càng đa dạng của các quan hệ sản xuất kinh doanh, vai trò của pháp luật
ngày càng trở nên nổi bật không chỉ trong việc xác lập các yếu tố của
tự do kinh doanh mà cả trong việc tạo ra các đảm bảo cho việc thực hiện
tự do kinh doanh.
Vai trò của pháp luật kinh tế đối với
việc tạo ra các đảm bảo cho việc thực hiện tự do kinh doanh thể hiện ở
các khía cạnh sau đây:
- Pháp luật kinh tế bảo vệ những hoạt
động thúc đẩy tự do kinh doanh, đồng thời hạn chế những hoạt động xâm
phạm hoặc cản trở tự do kinh doanh.
Những hoạt động mà pháp luật kinh tế cho phép và khuyến khích thực hiện bao gồm:
1. Cạnh tranh lành mạnh;
2. Hạn chế độc quyền;
3. Quyền tự định đoạt của doanh nghiệp trong việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh;
4. Tự do hợp đồng;
Những hoạt động mà pháp luật kinh tế cấm hoặc hạn chế bao gồm:
1. Độc quyền, hạn chế cạnh tranh;
2. Vi phạm quyền sở hữu công nghiệp;
3. Vi phạm nghĩa vụ cam kết;
4. Gian lận thương mại;
5. Lừa đảo v.v…
- Pháp luật kinh tế tạo ra cơ chế xử lý nhanh chóng các tranh chấp phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc thực hiện quyền tự do kinh doanh phụ
thuộc không chỉ vào sự đảm bảo của Nhà nước trong việc xác lập các yếu
tố cần thiết của nó mà còn phụ thuộc vào thiện chí và trách nhiệm của
các đối tác trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nhà đầu tư hay doanh
nghiệp sẽ không tiến hành sản xuất kinh doanh được một cách đầy đủ nếu
những hợp đồng, những giao kết kinh tế mà họ tham gia không được thực
hiện đầy đủ. Nhà đầu tư dù có kinh doanh dưới một loại hình doanh nghiệp
luật định, được đảm bảo đầy đủ quyền tự quyết định các vấn đề sản xuất
kinh doanh, vẫn khó có thể thực hiện trọn vẹn quyền tự do kinh doanh,
nếu những cam kết mà họ đã đưa ra không được thực hiện. Thông thường,
các hợp đồng, các giao kết kinh tế mà các doanh nghiệp tham gia đều nhằm
vào mục đích chủ yếu là huy động vốn, mua sắm trang thiết bị, nguyên
liệu, thuê lao động và tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp sẽ không kinh
doanh được, nếu các nghĩa vụ này thường xuyên bị vi phạm mà không có bất
cứ cơ chế nào để đảm bảo thực hiện chúng. Bằng các chế tài kinh tế,
pháp luật kinh tế buộc các bên phải tôn trọng các hợp đồng đã ký kết.
Bên cạnh đó, pháp luật còn tác động đến các chủ thể tham gia các hợp
đồng trong việc thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết thông qua cơ chế giải
quyết tranh chấp. Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các doanh nghiệp
thường được xây dựng trên nguyên lý đảm bảo tự do kinh doanh kể cả trong
việc lựa chọn phương án giải quyết tranh chấp. Các doanh nghiệp hoàn
toàn chủ động trong việc khởi kiện hoặc không khởi kiện các đối tác của
mình hoặc sử dụng các phương thức như hòa giải, thương lượng để giải
quyết các tranh chấp. Pháp luật tôn trọng quyền tự quyết của doanh
nghiệp vì chỉ có doanh nghiệp mới hiểu rõ đối tác của mình, hiểu rõ cái
lợi, cái hại khi khởi kiện đối tác. Tuy nhiên, trong bất cứ trường hợp
nào, pháp luật vẫn để dành cho doanh nghiệp cơ hội bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Khi xét thấy những vi phạm từ phía
đối tác có ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do kinh doanh của mình,
doanh nghiệp hoàn toàn có đủ những biện pháp để tự bảo vệ.
- Pháp luật quy định những lĩnh vực cấm
và hạn chế đối với doanh nghiệp. Việc xác lập những lĩnh vực cấm hoặc
hạn chế đối với kinh doanh là một hoạt động mang nặng tính chất quản lý
nhà nước, song lại có ý nghĩa rất to lớn đối với việc xác lập quyền tự
do kinh doanh. Quá trình thực hiện Luật Doanh nghiệp (1999) cũng đã cho
thấy ảnh hưởng của việc quy định các lĩnh vực bị cấm hay bị hạn chế kinh
doanh đối với việc thực hiện quyền tự do kinh doanh, cụ thể là đối với
việc thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh. Trong một thời gian
dài, các cơ quan có thẩm quyền lúng túng trong việc cho đăng ký kinh
doanh hay không cho đăng ký kinh doanh đối với những người tổ chức công
ty cung cấp dịch vụ vệ sĩ hay thám tử tư. Tương tự như vậy, có thể nói
về các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện.
Sự thiếu vắng những quy định về vấn đề
này có ảnh hưởng lớn đối với việc xác lập quyền tự do kinh doanh. Ảnh
hưởng của việc xác lập những lĩnh vực cấm và hạn chế đối với kinh doanh
thể hiện ở hai khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, nếu các lĩnh vực bị
cấm hoặc hạn chế kinh doanh không được xác định rõ thì doanh nghiệp và
các nhà đầu tư luôn bị đặt trong một tình trạng rủi ro. Việc Nhà nước
buộc các nhà đầu tư phải giải thể doanh nghiệp, chấm dứt hoạt động kinh
doanh mà họ đã thực hiện trong một lĩnh vực cụ thể, do trước đó không có
những quy định rõ ràng về cấm hay hạn chế đối với họ, sẽ gây tổn thất
to lớn cho họ, làm cho họ mất niềm tin vào sự đảm bảo quyền tự do kinh
doanh từ phía Nhà nước.
Thứ hai, việc quy định quá nhiều
lĩnh vực bị cấm hoặc bị hạn chế một mặt dễ tạo ra những chướng ngại cho
việc thực hiện quyền tự do kinh doanh và mặt khác dẫn đến sự độc quyền
của một số doanh nghiệp được phép kinh doanh trong những lĩnh vực như
vậy.
Chú thích:
1 Jame W. Vander Zanden, The social experiences, New York, 1988, tr. 405.
2 Devid Kely & Ann Holmes, Principles of Business Law, London, Sydney, 1997, tr. 63.
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 7/2002
0 comments:
Post a Comment