PHẠM ĐÌNH CHƯỚNG
Dưới tác động của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, đối tượng sở hữu trí tuệ được bổ sung không
ngừng, đặc biệt trong khoảng 30 năm gần đây, thế nhưng vài năm gần đây
đã thấy nhu cầu phải bổ sung thêm.
Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
là xây dựng một cơ chế đủ sức chống lại tình trạng chiếm đoạt các sản
phẩm trí tuệ trong cạnh tranh và là nền tảng cho mọi nỗ lực sáng tạo.
Trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế thế giới khi mà hàm lượng trí
tuệ ngày càng cao trong các sản phẩm hàng hóa, hệ thống bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ cần được tăng cường hơn nữa để làm tiền đề đưa nền kinh tế
nước ta sang nền kinh tế mới “Nền kinh tế tri thức”. Đó là lược trích
nội dung bài tham luận của ông Phạm Đình Chướng tại Hội thảo “Kinh tế
tri thức và những vấn đề đặt ra với Việt Nam” tại Hà Nội ngày
21-22/6/2000
1. Tài sản trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) và hệ thống bảo hộ SHTT.
Khái niệm “tài sản trí tuệ” hay SHTT
(intellectual property) bắt đầu xuất hiện vào đầu thế kỷ này và vốn dĩ
được dùng để chỉ các sản phẩm sáng tạo trí tuệ, gồm: Các tác phẩm khoa
học, văn học, nghệ thuật; các sáng chế, các kiểu dáng sản phẩm (hay kiểu
dáng công nghiệp) và các nhãn hiệu hàng hóa (kể cả nhãn hiệu dịch vụ).
Gắn liền với khái niệm trên là hai khái
niệm xuất hiện sớm hơn (nửa cuối thế kỷ XIX), đó là “sở hữu công nghiệp”
(SHCN) (industrial property) gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và
nhãn hiệu hàng hóa và “bản quyền” (copyright) gồm các tác phẩm khoa học,
văn học, nghệ thuật.
Cùng với sự phát triển của khoa học và
công nghệ (KH&CN) cũng như các sáng tạo trong kinh doanh, “nội hàm”
của SHTT ngày càng mở rộng. Danh sách các đối tượng SHTT được bổ sung
không ngừng và đặc biệt nhanh trong khoảng 30 năm gần đây. Ngày nay, có
thêm những đối tượng sau đây được liệt kê thuộc các đối tượng SHTT: Các
chủng vi sinh mới; các giống cây trồng mới; các thiết kế bố trí mạch
tích hợp (mạch IC); phần mềm máy tính; các thông tin bí mật liên quan
đến công nghệ hoặc kinh doanh (know-how và trade secret).Vài năm gần đây
lại đã thấy nhu cầu phải kể thêm các chương trình vệ tinh mã hóa, tên
miền trên Internet (Domain name)…
Trong lý luận về SHTT, các tài sản trên
đây có các đặc tính đáng chú ý: Là kết quả của hoạt động sáng tạo trí
tuệ (chứ không phải là hoạt động trí tuệ thông thường); vô hình nhưng có
thể được lưu giữ và thể hiện trên các vật mang nhất định; có khả năng
lan truyền, sao chép (nhân bản) mà không làm mất sự hiện diện tại nguồn.
Các dạng tài sản trí tuệ đều là sản phẩm,
sự thể hiện, là thước đo đồng thời là động lực của sự tiến bộ nói chung
của xã hội về tinh thần, vật chất và trình độ công nghệ sản xuất, công
nghệ kinh doanh.
Các tài sản trí tuệ có thể sẽ bị hạn chế
lan truyền, tức là bị giữ lại tại nguồn nếu sự lan truyền không bù đắp
được các nỗ lực trong quá trình tìm tòi để sáng tạo ra tài sản.
Mục tiêu của hệ thống SHTT là khuyến
khích hoạt động sáng tạo; cổ vũ đầu tư tìm kiến các giải pháp kỹ thuật –
mỹ thuật ứng dụng, các tác phẩm cũng như các sáng kiến kinh doanh mới;
thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh đồng thời sử dụng một cách tiết kiệm và có
hiệu quả nhất các nguồn lực trí tuệ của xã hội.
Việc tạo dựng, củng cố giá trị của mọi
đối tượng SHTT thực chất là một quá trình đầu tư tốn kém về vật chất và
trí tuệ. Trong khi đó, bản chất của cạnh tranh lại là tìm kiếm các biện
pháp giảm bớt chi phí và tăng cường lợi nhuận. Việc sao chép, mô phỏng,
thậm chí đắp cắp nguyên vẹn các thành quả sáng tạo kỹ thuật – kinh doanh
của đối thủ là biện pháp hấp dẫn nhất để đạt được mục tiêu trên. Bởi
vậy, nguy cơ chiếm đọat các sản phẩm trí tuệ là nguy cơ thường xuyên và
ngày càng nghiêm trọng trong các nền kinh tế thị trường công nghiệp hóa.
Nếu không áp dụng các biện pháp ngăn chặn nguy cơ này, mọi nỗ lực chính
đáng đều bị vùi dập bởi tệ nạn chiếm đoạt hoặc cạnh tranh không lành
mạnh. Một cơ chế pháp luật chống lại nguy cơ như vậy là đòi hỏi ngày
càng gay gắt.
Biện pháp để đạt được các mục tiêu trên
là thông qua việc vận hành hệ thống các qui phạm pháp luật mà xây dựng
và duy trì một lĩnh vực hoạt động gọi là hệ thống bảo hộ quyền SHTT –
trong đó quan hệ giữa các chủ thể liên quan đến đối tượng mang nội dung,
quan hệ quyền và nghĩa vụ và các quan hệ đó được điều chỉnh sao cho phù
hợp với xu thế phát triển kinh tế -xã hội. Hệ thống bảo hộ quyền SHTT
được cấu thành bởi hai hệ thống chủ chốt đó là hệ thống SHCN và hệ thống
quyền tác giả.
Hệ thống SHCN lại bao gồm: Hệ thống bảo
hộ sáng chế (hay còn gọi là hệ thống patent; hệ thống bảo hộ nhãn hiệu
hàng hóa và hệ thống bảo hộ thông tinbí mật. Nguyên tắc chung của các hệ
thống này là thông qua việc thừa nhận và bảo vệ của pháp luật đối với
các quyền SHTT mà chủ thể các quyền đó (người nắm giữ quyền) được bảo
đảm các điều kiện thuận lợi nhất trong một thời gian nhất định đủ để
khai thác nhằm không những bù đắp các chi phí đầu tư tạo ra giá trị của
các đối tượng đó mà còn có thể thu được lợi nhuận để tiếp tục tạo ra các
thành tựu mới. Một cách tổng quát, mọi đối tượng nói trên đều được coi
là đối tượng sở hữu, các quan hệ xã hội liên quan tới các đối tượng đó
được điều chỉnh chủ yếu theo nguyên tắc điều chỉnh các quan hệ sở hữu.
2. Khuynh hướng phát triển SHTT trong vài chục năm sắp tới.
+ Khuynh hướng thứ nhất, SHTT ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu chính sách kinh tế – thương mại của
các quốc gia, chế độ bảo hộ SHTT phát triển ngược với chế độ bảo hộ mậu
dịch.
Các động thái phát triển hoạt động thương
mại, kinh tế trong khoảng 10 năm gần đây bộc lộ rõ khuynh hướng vốn đã
có các dấu hiệu từ trước, đó là song song với xu hướng gỡ bỏ dần các
hàng rào mậu dịch dạng phi thuế, giảm bớt các chế độ bảo hộ mậu dịch, tự
do hóa thương mại là xu hương tăng cường các hàng rào bảo hộ SHTT bằng
cách củng cố và tăng cường các biện pháp chế tài và mở rộng phạm vi bảo
hộ các thành quả sáng tạo KH&CN và kinh doanh, SHTT nói chung và
SHCN nói riêng ngày càng gắn chặt, trở thành hoạt động của bộ phận kinh
tế thương mại. Khuynh hướng nói trên sẽ tiếp tục và ngày càng rõ nét
trong những năm sắp tới.
+ Khuynh hướng thứ hai, SHTT sẽ nhanh
chóng mở rộng phạm vi và nội dung sang các đối tượng mới đồng thời có
thể sẽ phát sinh các nguyên tắc bảo hộ mới cho các đối tượng không
truyền thống.
Vài chục năm truớc đây, hệ thống bảo hộ
SHCN được coi là gồm có hai hệ thống chủ chốt: Hệ thống thứ nhất đó là
hệ thống patent dùng để bảo hộ các sản phẩm sáng tạo kỹ thuật và mỹ
thuật ứng dụng và hệ thống thứ hai là hệ thống nhãn hiệu dùng để bảo hộ
các kết quả sáng tạo kinh doanh và thương mại. Sau đó có thêm hệ thống
thứ ba – bảo hộ thông tin bí mật (know-how và bí quyết thương mại). Việc
phát triển nhanh chóng các ngành công nghệ mới làm xuất hiện nhiều đối
tượng mới không phải là các đối tượng truyền thống, do đó các hệ thống
truyền thống nói trên dường như sẽ không đủ thích hợp để thực hiện mục
tiêu bảo hộ. Cho tới nay, việc áp dụng nguyên tắc truyền thống cho các
thành tựu công nghệ sinh học – nhất là đối với gen và chủng vi sinh cũng
như giống vi sinh vật – và trong công nghệ điện tử – tin học – nhất là
đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp và phần mềm máy tính đã tỏ ra
không hoàn toàn thích hợp. Vì vậy, bản thân các nguyên tắc bảo hộ SHCN
cũng đang tiếp tục thay đổi theo hướng mở rộng và linh hoạt hơn.
Hệ thống bảo hộ quyền tác giả cũng có sự
mở rộng tương tự như vậy. Vốn dĩ các đối tượng bảo hộ chỉ bao gồm các
tác phẩm (khoa học, văn học, nghệ thuật), gần đây đã xuất hiện các đối
tượng mới, đó là chương trình máy tính và cơ sở dữ liệu. Từ chỗ chỉ bao
gồm các vấn đề liên quan đến quyền tác giả, hệ thống này mở rộng cả tới
các vấn đề về quyền của người thể hiện (quyền của người biểu diễn, người
ghi âm, ghi hình… được coi là “quyền kế cận”).
+ Khuynh hướng thứ ba, các thao tác hành
chính liên quan tới việc xác lập quyền SHCN sẽ ngày càng đơn giản, nhanh
chóng; các thành tựu công nghệ mới – nhất là công nghệ thông tin – sẽ
được ứng dụng và làm thay đổi căn bản hoạt động của các cơ quan SHCN.
+ Khuynh hướng thức tư, các hoạt động SHTT diễn ra theo hướng toàn cầu hóa rộng lớn và triệt để.
Việc toàn cầu hóa các hoạt động kinh tế –
thương mại là nhân tố hàng đầu có tính chất quyết định đối với việc
thúc đẩy sự toàn cầu hóa hoạt động SHTT – trong đó có SHCN. Những năm
sắp tới khuynh hướng này sẽ càng bộc lộ rõ. Sự thâm nhập có tính chất
toàn cầu các thành quả công nghệ mới đòi hỏi mọi quốc gia đều phải thiết
lập các chế độ bảo hộ SHTT theo các tiêu chuẩn thống nhất khiến cho
dường như sẽ không còn nền kinh tế nào không gắn liền với chế độ bảo hộ
SHTT.
3. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (Hiệp định TRIPS – WTO): Thách thức về SHTT đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Đầu năm 1995, Việt Nam đã nộp đơn gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Để tham gia WTO, chúng ta cần
đáp ứng một số yêu cầu, trong đó có yêu cầu về SHTT được nêu trong “Hiệp
định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT” – gọi
tắt là Hiệp định TRIPS.
+Ba vấn đề trụ cột của GATT 1994 (WTO): Thương mại hàng hóa; thương mại dịch vụ và bảo hộ SHTT.
Trong ba vấn đề trên, chỉ có vấn đề thứ
nhất (thương mại – hay buôn bán – hàng hóa) là nội dung truyền thống của
GATT. Cả hai vấn đề sau (thương mại dịch vụ và SHTT) đều là nội dung
mới xuất hiện trong GATT 1994.
Lý do của việc xuất hiện vấn đề về SHTT trong GATT 1994:
- Vai trò, ảnh hưởng ngày càng cao của
các sản phẩm trí tuệ đối với kết cấu giá trị của các sản phẩm truyền
thống và các ngành truyền thống; xu hướng tăng giá trị và tăng khả năng
cạnh tranh nhờ tăng hàm lượng trí tuệ.
- Xuất hiện nhiều sản phẩm mới, thậm chí
xuất hiện nhiều ngành mới chủ yếu dựa trên việc khai thác trí tuệ: Nền
công nghiệp bản quyền ngày càng phát triển (phim ảnh, ti vi, video, giải
trí, phần mềm máy tính…). Sản phẩm của ngành công nghiệp bản quyền
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong thương mại.
- Đầu tư cho trí tuệ ngày càng cao và tốn
kém. Trong khi đó khuynh hướng sử dụng mà không đầu tư (thực chất là
đánh cắp kết quả đầu tư trí tuệ) càng ngày càng nghiêm trọng. Đã xuất
hiện các “nền công nghiệp hàng giả”.
Ngăn chặn tình trạng gian lận thương mại, cạnh tranh bất chính là nhu cầu cấp bách liên quan đến SHTT.
+ Hiệp định TRIPS.
Nội dung về SHTT của GATT 1994 được lập
thành một văn bản riêng và được gọi là “Hiệp định TRIPS”. Hiệp định
TRIPS là Hiệp định đa phương chi tiết, đầy đủ nhất về SHTT trong lịch sử
phát triển hoạt động này.
Các khối, các khu vực thương mại khác
(EU, NAFTA, ASEAN – AFTA…) cũng coi Hiệp định TRIPS là phù hợp với mình.
Các điều kiện về SHTT nêu trong Hiệp định TRIPS là tiêu chuẩn mà Việt
Nam phải đáp ứng để hội nhập với khu vực và thế giới.
+ Các tiêu chuẩn về bảo hộ SHTT do Hiệp
định TRIPS ấn định. Mọi thành viên của WTO đều phải thiết lập hệ thống
bảo hộ SHTT một cách đầy đủ, có hiệu quả theo 4 tiêu chuẩn tối thiểu
nhất định về: Nguyên tắc đối xử quốc gia và nguyên tắc bảo hộ; các đối
tượng bắt buộc phải được bảo hộ và mức độ, phạm vi bảo hộ các đối tượng
đó; hệ thống bảo đảm thực thi và thời hạn thực hiện các tiêu chuẩn đó.
Thứ nhất: Tiêu chuẩn về đối xử quốc gia và nguyên tắc bảo hộ.
Các nước thành viên WTO phải tuân thủ các
qui định về nguyên tắc đối xử quốc gia cũng như các nguyên tắc bảo
hộSHTT đã được qui định trong các hiệp ước quốc tế: Công ước Paris về
bảo hộ SHCN (1883 – 1967); Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và
nghệ thuật (1886 – 1971); Công ước Rome (1961) về bảo hộ người biểu
diễn, người sản xuất chương trình ghi âm, ghi hình, tổ chức phát thanh,
truyền hình; Hiệp ước Washington về bảo hộ SHTT trong lĩnh vực mạch tích
hợp (1989).
Thứ hai: Các đối tượng SHTT bắt buộc phải bảo hộ.
- Bản quyền (quyền tác giả): Các tác phẩm
văn học, nghệ thuật và khoa học, bao gồm cả chương trình máy tính và cơ
sở dữ liệu theo các nguyên tắc của Công ước Berne nhưng không bao gồm
các qui định về quyền tinh thần.
- Quyền kề cận, theo nguyên tắc của Công ước Rome.
- Quyền SHCN: Nhãn hiệu hàng hóa (bao gồm
cả nhãn hiệu dịch vụ); chỉ dẫn địa lý (bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng
hóa); kiểu dáng công nghiệp; sáng chế; thiết kế bố trí (topography) mạch
tích hợp; chống cạnh tranh bất chính và thông tin bí mật (bí quyết kỹ
thuật và bí quyết thương mại).
- Giống cây trồng.
Thứ ba: Tiêu chuẩn đối với hệ thống bảo đảm thực thi.
- Phải bảo đảm khả năng khiếu kiện cho người có quyền SHTT khi quyền đó bị xâm phạm.
- Phải bảo đảm khả năng khiếu naị cho
người bị xử lý khi áp dụng các biện pháp chế tài hoặc khi giải quyết
tranh chấp nếu người đó cho rằng mình bị xử lý sai hoặc không thỏa đáng.
- Phải có qui định rõ ràng về trình tự,
thủ tục tố tụng và thủ tục hành chính liên quan đến việc giải quyết các
tranh chấp hoặc xử lý các xâm phạm về SHTT; các thủ tục đó phải đơn
giản, có hiệu quả.
- Phải có các qui định về các biện pháp
chế tài, kể cả các biện pháp hành chính hoặc hình sự để bảo đảm ngăn
chặn các hành vi xâm phạm quyển SHTT, trong đó đặc biệt phải chú ý các
biện pháp khẩn cấp, tạm thời.
- Phải có các biện pháp kiểm soát biên giới (hải quan) hữu hiệu nhằm ngăn chặn các sản phẩm xâm phạm tham gia vào lưu thông.
- Phải bảo đảm các biện pháp chế tài hình sự, chống lại các hành vi xâm phạm nghiêm trọng, qui mô lớn.
- Phải có các biện pháp thích hợp ngăn chặn và xử lý các hành vi lạm dụng quyền, đền bù thiệt hại cho bất kỳ bên nào.
Thứ ba: Thời hạn phải đạt được các tiêu chuẩn về SHTT.
Thời gian áp dụng các tiêu chuẩn về SHTT
do Hiệp định TRIPS ấn định là: Từ 1/1/1996 cho các nước phát triển; từ
1/1/2000 cho các nước đang phát triển và các nước chuyển đổi nền kinh tế
tập trung sang kinh tế thị trường và từ 1/1/2005 cho các nước kém phát
triển.
+ Hiện trạng của Việt Nam – so sánh với Hiệp định TRIPS.
So với Hiệp định TRIPS, hệ thống SHTT của
Việt Nam đã đáp ứng được một số tiêu chuẩn nhưng còn những tiêu chuẩn
khác chưa đáp ứng được. Cụ thể là:
- Chưa gia nhập và cũng chưa thừa nhận ba Hiệp ước về SHTT: Công ước Berne; Công ước Rome và Hiệp ước Washington.
- Các đối tượng sau chưa được pháp luật
bảo hộ: Chỉ dẫn địa lý (mới chỉ bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hóa); thiết
kế bố trí mạch tích hợp; thông tin bí mật; chống cạnh tranh không lành
mạnh và giống cây trồng.
- Hệ thống thực thi chưa đủ mạnh cả về phương diện luật pháp lẫn khả năng thực thi.
- Chưa có qui định về khả năng và thủ tục
áp dụng các biện pháp ngăn chặn khẩn cấp hoặc tạm thời cũng như giải
quyết vấn đề đền bù thiệt hại.
4. Một số khuyến nghị.
- Để tìm kiếm các nguồn lực cho phát
triển, Việt Nam chủ trương không khuyến khích nền công nghiệp hàng giả,
chủ trương tôn trọng quyền SHTT của mọi chủ thể, nghiêm cấm và nghiêm
khắc xử lý các hành vi giả mạo, đánh cắp, tiếm đoạt kết quả đầu tư sáng
tạo.
- Chính sách khuyến khích đầu tư cho sáng
tạo công nghệ và sáng tạo trong kinh doanh không chỉ chú trọng về
phương diện tinh thần mà cần phải bảo đảm các điều kiện cần thiết về
pháp lý thông qua hệ thống các qui phạm pháp luật để người đã đầu tư có
khả năng khai thác các thành quả.
- Trong khi chú trọng bảo đảm lợi ích cho
người có công sáng tạo, cần phải đồng thời chú trọng bảo đảm lợi ích
của xã hội, nói cách khác phải tạo ra một trạng thái cân bằng tương đối
giữa lợi ích của xã hội và lợi ích của người sở hữu các thành quả sáng
tạo.
- Song song với việc bảo đảm quyền SHTT, cần phải có các biện pháp phòng ngừa và ngăn chặn nguy cơ lạm dụng quyền SHTT.
- Việc phát triển SHCN trước hết là phục
vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước do đó phải phù
hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước đồng thời phải phù hợp với đòi
hỏi của qúa trình hội nhập.
Điều kiện của Việt Nam chưa đòi hỏi và
chưa cho phép ngay một lúc hệ thống SHCN của mình có trình độ ngang hàng
với trình độ chung của thế giới. Vì vậy, tiến trình phát triển hoạt
động này phải được coi là một quá trình gồm nhiều bước, trong đó mỗi
bước được xác định bởi nhu cầu và khả năng của thực tiễn để tiến tới xây
dựng một hệ thống SHCN toàn diện, có trình độ tương xứng với khu vực và
thế giới.
SOURCE: TẠP CHÍ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC SỐ 11/2000
0 comments:
Post a Comment