LÊ TÙNG
Luật Sở hữu trí tuệ (Luật SHTT)
đã đi vào đời sống xã hội được tròn một năm (từ 1 tháng 7 năm 2006).
Giới doanh nghiệp trong và ngoài nước đều rất quan tâm đến các quy định
bảo hộ của luật này, đặc biệt là các quy định có liên quan đến các hoạt
động thương mại. Qua thực tiễn thực hiện các quy định của luật, chúng
tôi xin đưa ra một số suy nghĩ về hình thức và các tiêu chí bảo hộ đối
với tên thương mại và nhãn hiệu trong Luật SHTT.
Luật Sở hữu trí tuệ (Luật SHTT) đã đi vào
đời sống xã hội được tròn một năm (từ 1 tháng 7 năm 2006). Giới doanh
nghiệp trong và ngoài nước đều rất quan tâm đến các quy định bảo hộ của
luật này, đặc biệt là các quy định có liên quan đến các hoạt động thương
mại. Qua thực tiễn thực hiện các quy định của luật, chúng tôi xin đưa
ra một số suy nghĩ về hình thức và các tiêu chí bảo hộ đối với tên
thương mại và nhãn hiệu trong Luật SHTT.
Sự khác biệt, trùng lặp và phụ thuộc lẫn nhau
Trước hết, hãy xem qua định nghĩa về nhãn
hiệu và tên thương mại trong Luật SHTT. Theo đó, tên thương mại là “tên
gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt
chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong
cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh”. Còn nhãn hiệu “là dấu hiệu dùng để
phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. ở đây,
có thể thấy ngay sự khác biệt cũng như sự trùng nhau giữa tên thương mại và nhãn hiệu. Cụ thể, tên thương mại là tên gọi còn nhãn hiệu là dấu hiệu.
Tuy nhiên, trên thực tế, sự phân biệt này hoàn toàn chỉ có tính tương
đối. Trong trường hợp này thì tên thương mại thường được tiếp nhận là
tên đầy đủ của công ty như ghi trong Giấy đăng ký kinh doanh, còn nhãn
hiệu là tên của một sản phẩm hay dịch vụ nào đó do doanh nghiệp đưa ra
thị trường. Đó là sự khác biệt. Trong trường hợp khác thì tên thương mại và nhãn hiệu có thể là một,
do doanh nghiệp dùng tên gọi của mình làm dấu hiệu chính để phân biệt
hàng hoá, dịch vụ với chủ thể khác. Vậy lúc này, tên thương mại có còn
được hiểu là tên doanh nghiệp như trong Giấy đăng ký kinh doanh không?
Điều này chưa được làm rõ trong các nghị định hướng dẫn thi hành và có
thể, nó sẽ là nội dung tranh chấp trong thực tiễn. Trên thực tế, tên gọi
của một doanh nghiệp thường được người tiêu dùng tiếp nhận một cách
ngắn gọn, ví dụ “Đồng Tâm”, “Trung Nguyên”… mà ít ai biết được tên gọi
đầy đủ của doanh nghiệp đó và đây chính là điểm sẽ gây tranh cãi trong
tương lai, vì liệu các cơ quan chức năng có cách hiểu giống như vậy
không? Đây là sự trùng nhau giữa tên thương mại và nhãn hiệu. Do vậy,
các quy định của luật pháp cần phải tính đến một thực tế trong thương
mại về cách hiểu và tiếp nhận của người tiêu dùng đối với tên gọi của tổ
chức dùng trong kinh doanh.
Một sự khác biệt nữa là bản thân tên
thương mại có thể tự động được bảo hộ (nếu đáp ứng các tiêu chí đã được
quy định) mà không cần làm thủ tục đăng ký (khoản 3 Điều 6 Nghị định
103/2006) còn nhãn hiệu thì bắt buộc phải trải qua thủ tục nộp đơn đăng
ký (trừ trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng) và thẩm định. Phạm vi bảo hộ của
tên thương mại, xét theo từng khía cạnh là có thể hẹp hơn phạm vi bảo
hộ của nhãn hiệu (trên toàn lãnh thổ Việt Nam) nhưng trong một số trường
hợp sẽ là tương đương như nhãn hiệu. Cụ thể, tên thương mại sẽ chỉ được
bảo hộ trong một khu vực kinh doanh và định nghĩa về khu vực kinh doanh
đã được xác định là “khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng”.
Việc xác định khu vực kinh doanh hạn chế hay rộng lớn sẽ là vấn đề
tranh chấp trong tương lai và chính là vấn đề pháp lý sẽ phát sinh.
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa tên thương mại
và nhãn hiệu có thể thấy qua tiêu chí quy định về khả năng phân biệt
của tên thương mại và nhãn hiệu. Tên thương mại và nhãn hiệu muốn được
bảo hộ thì phải có khả năng phân biệt. Theo điều 74, khoản 2 (k) Luật
SHTT thì nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu có “dấu
hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người
khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu
dùng về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ”. Ngược lại, theo khoản 3 Điều 78
Luật SHTT thì tên thương mại chỉ được coi là có khả năng phân biệt nếu
“không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người
khác”. Chính sự phụ thuộc lẫn nhau này cũng sẽ là vấn đề pháp lý phát
sinh trong tương lai và là điều mà các doanh nghiệp cần lường trước
trong hoạt động thương mại.
Một số tình huống pháp lý
Qua thực trạng đăng ký kinh doanh tại Sở
kế hoạch – Đầu tư các địa phương trong thời gian qua, có thể thấy một số
vấn đề pháp lý đang nảy sinh như sau:
Xác định thế nào là tên thương mại của
doanh nghiệp – một việc tưởng dễ mà hoá khó. Việc các doanh nghiệp có
tên gọi trùng nhau trong giấy đăng ký kinh doanh (cả về tên riêng, các
bổ ngữ và loại hình sản xuất, kinh doanh) trên cùng một tỉnh, thành phố
thì không xảy ra, nhưng lại có thể xảy ra trên các tỉnh thành khác nhau
do chúng ta không có một cơ quan chung chuyên cấp giấy đăng ký kinh
doanh và vì vậy, không thể có một cơ sở dữ liệu chung duy nhất. Tuy
nhiên, việc có các doanh nghiệp chỉ khác nhau về tên gọi loại hình sản
xuất, kinh doanh và các bổ ngữ (ví dụ: kinh doanh thực phẩm, chế biến
nông sản, v.v.) còn trùng nhau về tên riêng là điều đã xảy ra trên cùng
một địa bàn. Giải quyết các tranh chấp này là rất khó vì thiếu quy định
rõ ràng. Nếu như các doanh nghiệp có các lĩnh vực kinh doanh khác nhau
thì dễ phân xử, nhưng trong điều kiện phát triển kinh tế hiện nay thì
điều gì sẽ xảy ra nếu:
- các doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề;
- các tập đoàn lớn, đa ngành nghề có thể
lấy cớ là uy tín của mình để có thể đè bẹp các doanh nghiệp nhỏ khác
(không may trùng tên) tại các địa bàn khác;
và những tình huống khác cần chú ý:
- quy định nhãn hiệu bị coi là không có
khả năng phân biệt nếu “trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được
sử dụng của người khác” sẽ gây khó khăn cho việc bảo hộ nhãn hiệu vì
như đã biết, tên thương mại có phạm vi bảo hộ theo khu vực kinh doanh
(hẹp hơn nhiều so với phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu). Vậy thì cơ quan
chức năng sẽ căn cứ vào đâu để xác định khu vực kinh doanh của tên
thương mại? Quy định này có thể được các bên sử dụng để làm phát sinh
các tranh chấp trong tương lai. Chẳng hạn, có thể dùng để yêu cầu huỷ bỏ
hiệu lực của nhãn hiệu đang được bảo hộ. Việc này nếu xảy ra thì thực
sự sẽ gây sự quá tải cho các cơ quan chức năng và nếu quá tải thì việc
giải quyết tranh chấp sẽ bị đình trệ và từ đó, dẫn đến thực thi pháp
luật không hiệu quả.
- giả sử tên thương mại chỉ có danh tiếng
trong một khu vực địa lý nhất định thì liệu một nhãn hiệu đang được bảo
hộ có bị đình chỉ hiệu lực tương ứng với khu vực đó không? Chưa có quy
định nào nói về vấn đề này.
- xác định đâu là tên thương mại để làm
cơ sở cho việc huỷ bỏ hiệu lực của một nhãn hiệu đang được bảo hộ còn là
vấn đề hết sức mơ hồ. Như đã nói ở trên, thực trạng tên doanh nghiệp
trong giấy đăng ký kinh doanh có thể chỉ khác nhau về loại hình sản
xuất, kinh doanh, các bổ ngữ, còn vẫn trùng nhau về tên riêng
- thực tế thẩm định các đơn nhãn hiệu tại
cơ quan chức năng cũng chưa thể áp dụng quy định liên quan đến tên
thương mại vì rõ ràng là thiếu quá nhiều điều kiện (không có cơ sở dữ
liệu chung, không có cơ sở pháp lý để xác định tên thương mại, khu vực
kinh doanh, danh tiếng v.v..). Việc áp dụng (nếu có thể) sẽ kéo dài thời
gian thẩm định lên rất nhiều (đi ngược với tiêu chí rút gọn thời gian
xử lý). Tuy nhiên, sự phụ thuộc giữa nhãn hiệu và tên thương mại như đã
nói ở trên vẫn sẽ được áp dụng (do đã quy định trong Luật SHTT) và đây
là quy định mà các doanh nghiệp cần tính đến và vận dụng sao cho linh
hoạt trong các tranh chấp thương mại (kể cả với các doanh nghiệp nước
ngoài).
*
Từ những vấn đề nêu trên, có thể thấy
ngay là loại hình bảo hộ nào cũng sẽ có những bất cập đặc thù. Vấn đề là
doanh nghiệp phải nắm vững và vận dụng linh hoạt những quy định của
“cuộc chơi sở hữu công nghiệp” để được đảm bảo vững chắc, ổn định quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.
SOURCE: NCLP.ORG.VN (PHIÊN BẢN CŨ CỦA TẠP NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ)
SOURCE: NCLP.ORG.VN (PHIÊN BẢN CŨ CỦA TẠP NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ)
0 comments:
Post a Comment