HÀ ĐĂNG
Trước đổi mới,
chúng ta coi kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế tư bản chủ nghĩa (hay
kinh tế thị trường) là hai phương thức kinh tế khác nhau về bản chất và
đối lập với nhau cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối
và mục đích phát triển. Kinh tế xã hội chủ nghĩa vận động theo các quy
luật của chủ nghĩa xã hội, còn kinh tế tư bản chủ nghĩa thì vận động
theo các quy luật của chủ nghĩa tư bản (tất nhiên trong khi nói đến kinh
tế kế hoạch chúng ta cũng đã từng nói đến hạch toán và kinh doanh xã
hội chủ nghĩa, vận dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ, coi lợi ích vật chất
và khuyến khích vật chất là một động lực của sự phát triển).
Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều
sự phát triển so với trước. Nhìn khái quát đã có những sự thay đổi lớn
như sau:
- Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở
hữu duy nhất là chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồm
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) đã đi đến quan niệm nền kinh tế của
ta hiện nay và sau này có ba chế độ sở hữu cơ bản là toàn dân, tập thể,
tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành
phần kinh tế khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa phải nhanh chóng hoàn thành việc cải tạo kinh tế
tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ là những thành phần kinh tế
phi xã hội chủ nghĩa, đã đến quan niệm rằng trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội, phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, còn cải tạo quan hệ sản
xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất thiết phải phù hợp với từng
bước phát triển của lực lượng sản xuất.
- Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể, với việc xóa bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế phi
xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu đã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân,
đã đi đến quan niệm rằng muốn cho hai thành phần kinh tế ấy ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc thì phải trải qua một quá trình dài xây
dựng, đổi mới và phát triển với những bước thích hợp; trong khi đó, vẫn
khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế tư nhân, coi như thành
phần này là động lực quan trọng của phát triển kinh tế và phát triển lực
lượng sản xuất.
- Từ quan niệm nhà nước phải chỉ huy toàn bộ nền kinh
tế theo một kế hoạch tập trung, thống nhất với những chỉ tiêu có tính
pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến phân biệt rõ chức năng quản lý
nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh; chức năng quản lý
nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản công là thuộc nhà nước, còn
chức năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp. Từ chỗ tuyệt đối
hóa vai trò của kế hoạch, phủ nhận vai trò của thị trường đã đi đến
thừa nhận thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch; kế
hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt trên bình diện vĩ mô, còn
thị trường giữ vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn
lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh.
- Từ chỗ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy
nhất chính đáng là phân phối theo lao động đã đi đều quan niệm thực hiện
nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các
nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi
xã hội. Công bằng xã hội thể hiện không phải ở chủ nghĩa bình quân trong
kinh tế mà là ở chỗ phân phối hợp lý tư liệu sản xuất và kết quả sản
xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đến có cơ hội phát triển và sử
dụng tốt năng lực của mình. Không ngăn cấm mọi sự làm giàu mà trái lại
khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng theo đúng pháp luật, đồng
thời thực hiện xóa đói giảm nghèo, hạn chế phân cực quá đáng hai đầu.
Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của chúng ta cũng được đổi mới qua nhiều bước.
Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là kinh tế thị trường.
Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ không phải
nói về toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh tế. Do đó,
trong khi phê phán nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao
cấp và đề ra chủ trương đổi mới quản lý kinh tế (một bộ phận của đường
lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI khẳng định: “thực chất của cơ chế mới
về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát
triển thêm một bước, Đại hội VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh
tế của ta là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước”.
Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, không đối lập với chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) nhận
định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phầ đang hình thành. Và cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang
trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế. Có nghĩa là nền kinh tế của
ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, còn có chế vận hành của nền kinh tế đó là cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước.
Gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của
Bộ Chính trị về công tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế
thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành
tựu chung của văn minh nhân loại”. Theo nhận định này, thị trường, kinh
tế thị trường đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản
xuất khác nhau. Nó có trước chủ nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và
cả sau chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản nó vận động và phát
triển ở mức khởi phát, manh nha, còn ở trình độ thấp thì trong xã hội tư
bản chủ nghĩa, nó đạt tới đỉnh cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống
của con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩa rằng nó chính là
chủ nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường còn tồn tại là tất yếu. Vấn đề ở
đây là liệu kinh tế thị trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội không, và
liệu việc xây dựng chủ nghĩa xã hội có đi đến phủ định kinh tế thị
trường để rồi tạo nên một nền kinh tế hoàn toàn khác về chất là kinh tế
xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận động theo các quy luậtd dặc thù của
chủ nghĩa xã hội hay không? Câu trả lời là không. Quan điểm này cũng
chính là quan điểm của Đại hội VIII (1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây
dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định
hướng, xã hội chủ nghĩa”.
Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại
hội IX của Đảng (2001) ghi rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh
tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao
đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với
xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và
phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc. Theo Nghị quyết của Đại hội IX, các thành phần
kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần
đó bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài.
Bước IV: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với
nền kinh tế thị trương toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
sâu và đầy đủ hơn. Đại hội X của Đảng chủ trương: “Tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bốn nội
dung quan trọng nhất là: nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền
kinh tế nước ta, nâng cao vai trò và hoàn thiện quản lý của Nhà nước,
phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các
thành phần kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh doanh.
Điều quan trọng hơn nữa là với chủ đề: “Tích cực và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Đại hội đã quyết định đẩy mạnh hoạt
động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế
kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước
làm mục tiêu cao nhất. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO vào tháng 1-2007 đánh dấu một bước phát triển cao của quá trình
hàng chục năm thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 7 (127) NĂM 2007
0 comments:
Post a Comment