Ngân hàng là gì?
Ngân hàng là 1 loại hình tổ chức có vai
trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng
địa phương nói riêng. Vậy mà vẫn có sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa
ngân hàng là gì? Rõ ràng, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức
năng (các dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ
không chỉ chức năng của các ngân hàng đang thay đổi mà chức năng của
các đối thủ cạnh tranh chính sách của ngân hàng cũng không ngừng thay
đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài chính – bao gồm cả các công ty
kinh doanh chứng khoán, công tymôi giới chứng khoán, quĩ tương hỗ và
công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân
hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các
tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp
dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham
gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch
vụ mới khác.
Một ví dụ điển hình về nỗ lực của các tổ
chức tài chính trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng được ghi nhận vào
những năm 1980 khi rất nhiều công ty bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán
lớn, bao gồm cả Merrill Lynch và Dreyfus Corporation, Prudential nhảy
vào lĩnh vực ngân hàng bằng cách thành lập cái mà họ gọi là “các ngân
hàng phi ngân hàng”. Họ nhận thức được rằng, theo pháp luật nước Mỹ,
bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng
rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay bằng việc rút tiền
điện tử) và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương
mại sẽ được xem là một ngân hàng. Merrill Lynch và các tổ chức phi
ngân hàng khác nhận định rằng họ có thể né tránh những quy định này và
sẽ có thể cung cấp dịch vụ ngân hàng khác cho công chúng. Tuy nhiên, Cục
Dự trữ liên bang (Fed), không muốn thấy sự xâm phạm vào lĩnh vực ngân
hàng của các “ngân hàng giả”, đã đưa ra quyết định rằng: việc cho
vay đối với cá nhân và hộ gia đình cũng là một trong những hoạt động
ngân hàng tiêu biểu để phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính
khác. Điều đó đưa Merrill Lynch và các tổ chức tương tự trở thành
các ngân hàng thực thụ và phải tuân theo qui định chặt chẽ của Chính
phủ.
Sau đó các công ty kinh doanh và môi giới
chứng khoán hàng đầu đã kiện lên tòa liên bang, buộc tội Fed đã vượt
quá quyền hạn. Năm 1984, tòa án liên bang công nhận này và buộc Fed phải
cho phép tồn tại hình thức “các ngân hàng phi ngân hàng” và cho họ tham
gia bảo hiểm tiền gửi liên bang. Chỉ trong vòng vài tuần sau phán quyết
này, hàng tá đơn xin thành lập “ngân hàng phi ngân hàng” đã được nộp .
E.F. Hutton, J.C.Penney và Sears Roebuck là những công ty cung cấp dịch
vụ tài chính hàng đầu được tổ chức dưới dạng ngân hàng phi ngân hàng.
Hơn thế, các công ty sở hữu ngân hàng lớn của Citicorp và Chase
Manhattan cũng thành lập các “ngân hàng phi ngân hàng” của riêng họ bởi
vì với loại ngân hàng này họ có thể mở rộng chi nhánh tự do qua biên
giới bang. Năm 1987, Quốc hội hạn chế sự bành chướng của các “ngân hàng
phi ngân hàng” bằng cách ràng buộc các công ty sở hữu ngân hàng phi ngân
hàng vào những quy định tương tự như các tổ chức ngân hàng truyền
thống. Cuối cùng, Quốc hội đã “bắn phát súng cuối cùng” trong việc đưa
ra một định nghĩa mang tính pháp lý về ngân hàng: ngân hàng được định nghĩa như một công ty là thành viên của Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang.
Đây thật là một sự thay đổi thông minh vì theo luật hiện hành của Mỹ,
người ta không các định ngân hàng trên cơ sở những hoạt động của nó mà
trên cơ sở cơ quan chính phủ nào sẽ bảo hiểm cho tiền gửi của nó.
Dòng nước đã bị vẩn đục. Vào năm 1991,
chính quyền của tổng thống George Bush đề nghị cho phép các ngân hàng
với vốn tự có thích hợp sẽ được quyền cung cấp hàng loạt những dịch vụ
mới và được phép liên kết với các công ty môi giới và kinh doanh chứng
khoán, các công ty đầu tư (các quĩ tương hỗ); cho phép công ty công
nghiệp sở hữu các công ty cung cấp dịch vụ tài chính ( những công ty này
có thể điều hành nganhangf và các công ty bảo hiểm); cho phép các công
ty ngân hàng đầu tư vào những ngành công nghiệp phi tài chính trên cơ sở
một số điều kiện ràng buộc. Do đó, các hàng rào pháp lý có tính lịch sử
ở Hoa kỳ phân tách hoạt động ngân hàng với các hoạt động kinh doanh
khác – điều đã tồn tại qua nhiều thế hệ – đang bị tấn công và có thể sẽ
sớm đưa đến một sự thay đổi lớn lao trong việc định nghĩa ngân hàng là
gì và nó cung cấp những dịch vụ gì.
Kết qủa của tất cả những thay đổi về pháp
lý dẫn đến tình trạng có sự nhầm lẫn trong công chúng khi phân biệt
ngân hàng với một số tổ chức tài chính khác. Cách tiếp cận thận trọng
nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình
dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục và dịch vụ tài chính đa hạng nhất – đặc biệt là
tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức nằng
tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh
tế. Sự đa hạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến
việc chúng được gọi là các “Bách hóa tài chính” (financial department
stores) và người ta bắt đầu thấy xuất hiện các khẩu hiệu quản cáo tương
tự như: Ngân hàng của bạn – Một tổ chức tài chính cung cấp đầy đủ dịch
vụ (Your Bank – a full service Financial institution) (xem Sơ đồ 1 – 1)
Sơ đồ 1 – 1. Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay:
Các dịch vụ ngân hàng:
Ngân hàng là loại hình tổ chức chuyên
nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp các dịch vụ quản lý cho công
chúng, đồng thời nó cũng thực hiện nhiều vai trò khác trong nền kinh tế
(xem bảng 1-1). Thành công của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào năng
lực trong việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực
hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả và bán chúng tại một mức giá
cạnh tranh. Vậy ngày nay xã hội đòi hỏi những dịch vụ gì từ phía các
ngân hàng? Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu tổng quân về danh mục
dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
Các dịch vụ truyền thông của ngân hàng:
Thực hiện trao đổi ngoại tệ.
Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được
thực hiện là trao đổi ngoại tệ – một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán một
loại tiền này, chẳng hạn USD lấy một lại tiền khác, chẳng hạn Franc hay
Pesos và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó là rất quan trọng đối với
khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong
tay đồng bản tệ của quốc gia hay thành phố họ đến. Trong thị trường tài
chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất
thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời
yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại.
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế
là cho vay đối với các doanh nhân địa phương những người bán các khoản
nợ (khoản phải thu) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là
bược chuyển tiếp từ chiết thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với
các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn
phòng và thiết bị sản xuất.
Nhận tiền gửi.
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm
kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn
quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm gửi tiết kiệm của khách hàng –
một quỹ sinhlợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều
tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối
cao. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn các ngân
hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm
nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất
gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm.
Bảo quản vật có giá trị:
Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ
vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Một điều
hấp hẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi
nhận về các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền –
đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ
bảo quản vật có giá trị cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản” của
ngân hàng thực hiện.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Trong thời kỳ Trung Cổ và vào những năm đầu cách mạng Công nghiệp, khả
năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành
trọng tâm chú ý của các Chính phủ Âu – Mỹ. Thông thường, ngân hàng
đượccấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải mua trái phiếu
Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng
huy động được. Các ngân hàng đã cam kết cho Chính phủ Mỹ vay trong thời
kỳ chiến tranh. Ngân hàng Bank of North America được Quốc hội cho phép
thành lập năm 1781, ngân hàng này được thành lập để tài trợ cho cuộc đấu
tranh xóa bỏ sự đô hộ của nước Anh và đưa Mỹ trở thành quốc gia có chủ
quyền. Cũng như vậy, trong thời kỳ nội chiến, Quốc hội đã lập ra một hệ
thống ngân hàng liên bang mới, chấp nhận các ngân hàng quốc gia ở mọi
tiểu bang miễn là các ngân hàng này phải lập Quỹ phục vụ chiến tranh.
Cung cấp các tìa khoản giao dịch.
Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu và Châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời
những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ mới, quan trong
nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch
(demand deposit) – một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết
séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài
khỏan tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng
nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả
của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ
dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
Cung cấp dịch vụ ủy thác.
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc quản lý tài sản và
quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. Theo
đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ
quản lý. Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác
(trust service). Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ
ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình; và ủy thác thương mại
cho các doanh nghiệp.
Thông qua phòng Ủy thác cá nhân, các
khách hàng có thể tiết kiệm các khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng
sẽ quản lý và đầu tư khỏan tiền đó cho đến khi khách hàng cần. Thậm chí
phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai trò là người được ủy thác trong di
chúc quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài
sản, bảo quản các tài sản có giá, đầu tư có hiệu quả, và đảm bảo cho
người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản thừa kế. Tron gphòng ủy thác
thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và kế hoạch
tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò như những
người đại lý cho các công ty trong hoạt động phát hành cổ phiếu, trái
phiếu. Điều này đòi hỏi phòng ủy thác trả lãi hoặc cổ tức cho chứng
khoán của công ty, thu hồi các chứng khoán khi đến hạn bằng cách thanh
toán toàn bộ cho người nắm giữ chứng khoán.
Những dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
Cho vay tiêu dùng.
Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá
nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói
chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho
chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế ký này, các ngân hàng bắt
đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món
vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật
tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu
dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng. Cho tới những năm 1920
và 1930, nhiều ngân hàng lớn do Citicorp và Bank of America dẫn đầu đã
thành lập những phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế
giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình
tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Mặc dầu vậy, tốc độ tăng trưởng
này gần đây đã chậm lại do cạnh tranh về tín dụng tiêu dùng ngày càng
trở nên gay gắt trong khi nền kinh tế đã phát triển chậm lại. Tuy nhiên,
người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo
ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.
Tư vấn tài chính:
Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư
vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay
cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và
kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường
trong nước và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ.
Quản lý tiền mặt.
Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà họ
làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong
những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng
đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành
đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoản sinh lợi và
tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng
chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có
một xu hường đang gia tăng về việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho
người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các công ty
môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cũng cấp cho người
tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan.
Một ví dụ là tài khoản quản lý tièn mặt của Merrill Lynch, cho phép
khách hàng của nó mua và bán chứng khoán, di chuyển vốn trong nhiều quĩ
tương hỗ, viết séc, và sử dụng thẻ tín dụng cho khoản vay tức thời.
Dịc vụ thuê mua thiết bị.
Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn
mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong
đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các qui định
yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê
(mà cuối cùng sẽ đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải
chịu chi phí sửa chữa và thuế. Năm 1987, quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho
phép ngân hàng quốc gia sở hữu ít nhất một số tài sản cho thuê sau khi
hợp đồng thuê mua đã hết hạn. Điều đó có lợi cho các ngân hàng cũng như
khách hàng bởi vì bới tư cách là một người chủ thực sự của tài sản cho
thuê, ngân hàng có thể khấu hao chúng nhằm làm tăng lợi ích về thuế.
Cho vay tài trợ dự án.
Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho chi
phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do
rủi ro trong loại hình tín dùng này nói chung là cao nên chúng thường
được thực hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên của công sở hữu
ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà thầu, là thành viên của công
ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để
chia sẻ rủi ro. Những ví dụ nổi bật về loại hình công ty đầu tư này là
Bankers Trust Venture Capital anh Citicorp Venture,Inc
Bán các dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín dụng cho khách
hàng, điều đó bảo đảm việc hòan trả trong trường hợp khách hàng vay vốn
bị chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm ngân hàng thương
mại trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi vọng có thể
đưa ra các hợp đồng bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm
tổn thất tài sản như ôtô hay nhà cửa trong tương lai. Hiện nay, ngân
hàng thường bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc các
thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo đó một công ty bảo hiểm đồng
ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và ngân hàng sẽ
nhận một phần thu nhập từ các dịch vụ ở đó. Một số bang như Delawake và
South Dakota đã cho phép ngân hàng cung cấp các dịch vụ bảo hiểm được
quy định trên toàn quốc. Những ngân hàng hoạt động trên toàn quốc nếu
được phép sẽ có thể cung cấp các dịchvụ về bảo hiểm thông qua các chi
nhánh riêng biệt, những quy mô đầu tư của nó chỉ được giới hạn ở mực 10%
tổng số vốn chủ sở hữu. Gần đây, Citicorp đã thông báo kế hoạch sáp
nhập với công ty bảo hiểm Travelers tromg một số nỗ lực nhằm đưa ra các
dịch vụ bảo hiêm đa dạng hơn.
Cung cấp các kế hoạch hưu trí:
Phòng ủy thác ngân hàng rất năng động trong việc quản lý kế hoạch hưu
trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và
phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng cũng
bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí (được biết như IRAS và Keogle) cho các
cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này
cần đến.
Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán.
Trên thị trường tài chính hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để
trở thành một “bách hóa tài chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài
chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là
một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ
môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái
phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh
chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng mua lại một công ty
môi giới đang hoạt động (ví dụ Bank of America mua Robertson Stephens
Co.) hoặc thành lập các liên doanh với một công ty môi giới.
Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp.
Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất
quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng cái gọi là sản phẩm
đầu tư (investment products) đặc biệt là các tài khoản của quỹ tương hỗ
và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập cao
hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt
hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai (
chẳng hạn ngày nghỉ hưu). Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm các chương
trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ
phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ (ví
dụ: Tối đa hóa thu nhập hay đạt được sự tăng giá trị vốn). Trong khi quá
trình phát triển của các kế hoạch trợ cấp diễn ra khá chậm do những vụ
kiện tụng bởi các đối thủ cạnh tranh chống lại sự mở rộng của ngân hàng
sang lĩnh vực dịch vụ mới này thì việc cung cấp cổ phiếu trong quỹ vốn
ngân hàng quản lý chiếm 15% tổng giá trị tài sản của quỹ tương hỗ trong
những năm 90. Một vài ngân hàng đã tổ chức những chi nhánh đặc biệt để
thực hiện nhiệm vụ này (ví dụ: Citicorp’s Investment Services) hoặc liên
doanh với các nhà kinh doanh và môi giới chứng khoán. Gần đây, hoạt
động cung cấp nghiệp vụ quỹ tương hỗ của ngân hàng đã có nhiều giảm sút
do mức thu nhập không còn cao như trước, do những qui định nghiêm ngắt
hơn và đồng thời do sự thay đổi trong quan điểm đầu tư của công chúng.
Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn. Ngân
hàng ngày nay đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc
cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và dịch vụ ngân hàng bán buôn cho các
tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài
trợ mua lại Công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng (ví dụ: bảo lãnh
phát hành chứng khoán), cung cấp công cụ Marketing chiến lược, các dịch
vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sâu vào
thị trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do chính phủ và công ty phát
hành để những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị
trường tự do hay từ các tổ chức cho vay khác.
Ở Mỹ, các dịch vụ ngân hàng đầu tư (như
bảo lãnh phát hành chứng khoán) liên quan tới việc mua bán cổ phiếu mới
và nợ do ngân hàng thương mại thực hiện thay mặt cho các công ty đã bị
cấm sau khi Quốc hội thông qua các Đạo luật Glass-Steagall năm 1933. Tuy
nhiên, trước áp lực lớn từ các công ty ngân hàng trong nước hàng đầu,
và do thành công của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, vào những năm 80
Cục lữu trữ liên bang đã bắt đầu nới lỏng các quy định đối với việc
ngân hàng kinh doanh chứng khoán do khách hàng của chúng phát hành.
Thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, ngân hàng đã tạo cho các công ty
một kênh huy động vốn mới bên cạnh hình thức cho vay vốn truyền thống.
Nhiều công ty đã đánh giá rất cao nghiệp vụ này của ngân hàng, hơn cả
hình thức cho vay truyền thống bởi vì nó cung cấp cho họ một nguồn vốn
dài hạn với chi phí thấp hơn. Cho tới cuối những năm 90, Cục dự trữ Liên
bang Mỹ đã cấp cho hơn 40 ngân hàng đặc quyền cung cấp dịch vụ bảo lãnh
phát hành chứng khoán. Trên thực tế, điều này cho phép nhân viên tín
dụng ngân hàng cộng tác chặt chẽ với giới kinh doanh chứng khoán trong
quá trình tìm nguồn tài trợ cho khách hàng. Năm 1996, Cục quản lý tiền
tệ Mỹ ra quy định mới cho phép các ngân hàng có giấy phép hoạt động trên
toàn quốc có thể cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành nếu như dịch vụ
này được thực hiện thông qua các công ty con, với điều kiện ngân hàng
không được đầu tư quá 10% vốn cổ phần vòa một công ty. Một sự nới lỏng
hơn nữa trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và như vậy, ngân hàng có
thể cung cấp toàn bộ dịch vụ tài trợ và tư vấn quản lý đối với hoạt động
kinh doanh chứng khoán. Một ví vụ gần đây là sự kiện ngân hàng
NationBank mua Mortgetary Security Inc., Bank America mua công ty
Robertson Stephens và ngân hàng Banker Trust of New York mua công ty
Alex Brow.
Sự thuận tiện: Tổng hợp tất cả các dịch vụ ngân hàng.
Rõ ràng là không phải tất cả mọi ngân hàng đều cung cấp nhiều dịch vụ
tài chính như danh mục dịch vụ mà chúng tôi đã miêu tả ở trên, nhưng quả
thật danh mục dịch vụ ngân hàng đang tăng lên nhanh chóng. Nhiều loại
hình tín dụng và tài khỏan tiền gửi mới đang được phát triển, các loại
dịch vụ mới như giao dịch qua Internet và thẻ thông minh (Smart) đang
được mở rộng và các dịch vụ mới (như bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán)
được tung ra hàng năm. Nhìn chung, dạnh mục các dịch vụ đầy ấn tượng do
ngân hàng cung cấp tạo ra sự thuận lợi rất lớn hơn cho khách hàng.
Khách hàng có thể hoàn toàn thỏa mãn tất cả các nhu cầu dịch vụ tài
chính của mình thông qua một ngân hàng và tại một địa điểm. Thực sự ngân
hàng đã trở thành “bách hóa tài chính” ở kỷ nguyên hiện đại, công việc
hợp nhất các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, môi giới chứng khoán… dưới một
mái nhà chính là xu hướng mà người ta thường gọi là Universal Banking ở
Mỹ, Canada và Anh, là Allginanz ở Đức, và là Bancassurance ở Pháp.
Các khuynh hướng ảnh hưởng tới hoạt động ngân hàng
Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục dịch vụ.
Như chúng ta đã thấy ở phần trước, các ngân hàng đang mở rộng danh mục
dịch vụ tài chính mà họ cung cấp cho khách hàng. Qúa trình mở rộng danh
mục dịch vụ đã tăng tốc trong những năm gần đây dười áp lực cạnh tranh
gia tăng từ các tổ chức tài chính khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao
hơn của khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ. Nó cũng làm tăng chi
phí của ngân hàng và dẫn đến rủi ro phá sản cao hơn. Các dịch vụ mới đã
có ảnh hưởng tốt đến ngành công nghiệp này thông qua việc tạo ra những
nguồn thu mới cho ngân hàng – các khoản lệ phí của dịch vụ không phải
lãi, một bộ phận có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các nguồn thu
truyền thống từ lãi cho vay.
Sự gia tăng cạnh tranh.
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở lên
quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch
vụ. Các ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế
hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người
tiêu dùng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn cho các
doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang phải đối mặt
với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín
dụng, các công ty kinh doanh chứng khoán như Merrill Lynch, các công ty
tài chính như GE Capital và các tổ chức bảo hiểm như Prudential. Áp lực
cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho
tương lai.
Phi quản lý hóa. Cạnh
tranh và quá trình mở rộng dịch vụ ngân hàng cũng được thúc đẩy bởi sự
nới lỏng các quy định – giảm bớt sức mạnh kiểm soát của Chính phủ. Điều
này bắt đầu từ hai thập kỷ trước, xu hướng nới lỏng các quy định đã được
bắt đầu với việc Chính phủ nâng lãi suất trần đối với tiền gửi tiết
kiệm nhằm cố gắng giúp công chúng một mức thu nhập khá hơn từ khoản tiết
kiệm của mình. Cũng lúc đó, nhiều loại tài khoản tiền gửi mới được phát
triển giúp cho công chúng có thể hưởng lãi trên các tài khoản giao
dịch. Gần như đồng thời, các dịch vụ mà những đối thủ chính của ngân
hàng như hiệp hội tín dụng và cho vay cũng được mở rộng nhanh chóng và
do đó khả năng cạnh tranh với ngân hàng của những tổ chức này cũng được
củng cố. Các quốc gia hàng đầu như Australia, Canada, Anh quốc và Nhật
Bản gần đây đã tham gia vào trào lưu phi quản lý hóa, nới rộng giới hạn
pháp lý cho ngân hàng, cho người kinh doanh chứng khoán và cho các công
ty dịch vụ tài chính khác. Chi phí và rủi ro tổn thất theo đó cũng tăng
lên.
Sự gia tăng chi phí vốn:
Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi
phí trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của
ngân hàng. Với sự nới lỏng các luật lệ, ngân hàng buộc phải trả lãi do
thị trường cạnh tranh quyết định cho phần lớn tiền gửi. Đồng thời, Chính
phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn – một nguồn
vốn đắt đỏ – để tài trợ cho các tài sản của mình. Điều đó buộc họ phải
tìm cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân công, thay
thế các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại. Các
ngân hàng cũng buộc phải tìm các nguồn vốn mới như chứng khoán hóa một
số tài sản, theo đó một số khoản cho vay của ngân hàng được tập hợp lại
và đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán; các chứng khoán được đảm bảo bằng
các món vay được bán trên thị trường mở nhằm huy đọng vốn mới một cách
rẻ hơn và đáng tin cậy hơn. Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản
thu phí không nhỏ cho ngân hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền
thống (như tiền gửi).
Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất.
Các qui đinj của Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách
hàng khả năng nhận được mực thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có
công chúng mới làm cho các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công chúng
đã làm việc đó. Hàng tỷ USD trước đây được gửi trong các tài khoản tiết
kiệm thu nhập thấp và các tài khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã
được chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản
có tỷ lệ thu nhập thay đổi thoe điều kiện thị trường. Ngân hàng đã phát
hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với những khách hàng có giáo dục hơn,
nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền gửi “trung thành” của họ có
thể dễ tăng cường khả năng cạnh tranh trên phương diện thu nhập trả cho
công chúng gửi tiền và nhạy cảm hơi với ý thích thay đổi của xã hội về
vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm.
Cách mạng trong công nghệ ngân hàng.
Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân
hàng đã và đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện
tử thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong
công việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ
nổi bật nhất bao gồm các máy rút tiền tự động ATM, ở Mỹ có hơn 100.000
chiếc, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24
giờ; Máy thanh toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm
bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng
giấy; và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một
cách nhanh chóng trên toàn thế giới.
Do đó, ngân hàng đang trở thành ngành sử
dụng nhiều vốn và chi phí cố định; sử dụng ít lao động và chi phí biến
đổi. Nhiều chuyên gia tin rằng các tòa nhà ngân hàng và các cuộc mít
tinh gặp mặt trực tiếp giữa các nhà ngân hàng và khach shàng cuối cùng
sẽ trở thành những di tích của quá khứ và bị thay thế bởi các cuộc liên
quan và giao tiếp điện tử. Sản xuất và cung cấp dịch vụ sẽ hoàn toàn tự
động. Những bước đị đó sẽ giảm đáng kể chi phí nhân công hóa ngân hàng
và gây ra tình trạng mất việc làm khi máy móc thay thế người lao động.
Tuy nhiên, những kinh nghiệp gần đây gợi ý rằng một ngành ngân hàng hoàn
toàn tự động có thể vẫn còn là điều xa vời. Một tỷ lệ lớn khách hàng
vẫn ưa chuộng các dịch vụ của con người và những cơ hội để nhận được sự
tư vấn cá nhân về các vấn đề tài chính.
Sự củng cố và mở rộng hoạt động về mặt địa lý.
Sử dụng có hiệu quả quá trình tự động hóa và những đổi mới công gnhệ
đòi hỏi các hoạt động ngân hàng phải có qui mô lớn. Vì vậy, ngân hàng
cần pahỉ mở rộng cơ sở khách hàng bằng cách vươn tới các thị trường mới,
xa hơn và gia tăng số lượng tài khoản. Kết quả là hoạt động mở chi
nhánh ngân hàng diễn ra. Mô hình công ty sở hữu ngân hàng mua lại các
ngân hàng nhỏ và đưa chúng trở thành bộ phận của các tổ chức ngân hàng
mua lại các ngân hàng nỏi và đưau chúng trở thành bộ phận của các tổ
chức ngân hàng đa trụ sở đã ngày càng phổ biến. Nhiều vụ đại hợp nhất đã
diễn ra như vụ hợp nhất giữa Chemical Bank và Chase Manhttan ở New York
hay Bank of America và Nations Bank. Số lượng các ngân hàng sở hữu độc
lập và bắt đầu giảm và qui mô trung bình của các công ty ngân hàng đã
tăng đáng kể. Cùng lúc đó, số lượng các ngân hàng nhỏ của Mỹ (tổng tài
sản dưới 1 tỷ USD) đã giảm mạnh ít nhất là 1/3 kể từ giữa thập kỷ 80, số
lượng nhân viên giảm hơn 100.000 người trong cùng thời ký.
Hơn nữa, thập kỷ 80 và 90 đã mở ra một kỷ
nguyên sự bành trướng “liên tiểu bang” trong hệ thống ngân hàng Mỹ. Hơn
300 tổ chức ngân hàng đã vương ra khỏi thị trường tiểu bang, thôn tính
các ngân hàng nhỏ để trở thành những ngân hàng tầm cỡ quốc gia. Hiện nay
ngân hàng đang tìm mọi cách để đạt được sự đa dạng hóa và ngân hàng
không còn muốn duy trì mô hình ngân hàng cổ điển và nhấn mạnh vai trò
của nó như là các tổ chức tài chính năng động, đổi mới và hướng về khách
hàng.
Với sự phát triển của tự động hóa, ngày
càng nhiều ngân hàng mở chi nhánh ở những vùng xa với các thiết bị viễn
thông và máy rút tiền tự động – một phương pháp mở rộng qui mô thị
trường hơn là xây dựng các cơ sở vạt chất mới. Trong nhiều trường hợp,
hệ thống thiết bị vệ tinh cung cấp dịch vụ hữu hạn sẽ thay thế các văn
phòng chi nhánh đa năng của ngân hàng.
Quá trình toàn cầu hóa ngân hàng.
Sự bành trướng địa lý và hợp nhất các ngân hàng đã vượt ra khỏi ranh
giới lãnh thổ một quốc gia đơn lể và lan rộng ra với quy mô toàn cầu.
Ngày nay, các ngân hàng lớn nhất thế giới cạnh tranh với nhau trên tất
cả các lục địa. Vào những năm 80, các ngân hàng Nhật, dẫn đầu là Dai_I
Chi Kangyo Bank và Fuji Bank đã phát triển nhanh hơn hầu hết các đối thủ
cạnh tranh trên khắp thế giới. Các ngân hàng lớn đặt trụ sở tại Pháp
(dẫn đầu là Caisse Nationale de Credit Agricole), tại Đức (dẫn đầu là
Deutsche Bank) và tại Anh (dẫn đầu là Barclays PLC) cũng trở thành những
đối thủ nặng ký trên thị trường cho vay Chính phủ và cho vay công ty.
Quá trình phi quản lý hóa đã giúp tất cả các tổ chức này cạnh tranh hiệu
quả hơn so với các ngân hàng Mỹ và nắm được thị phần ngày càng tăng
trên thị trường toàn cầu về dịch vụ ngân hàng. Ngày nay, Canada, Mỹ và
Mexico đã thực hiện Hiệp ước mậu dịch tư do Bắc Mỹ (NAFTA) điều mà cho
phép ngân hàng ở những nước này sở hữu và quản lý các chi nhánh ngân
hàng ở nước kia và sức mạnh dịch vụ của các chi nhánh loại này hoàn toàn
so sánh được với những chi nhánh sở hữu bởi các ngân hàng trong nước.
Rủi ro vỡ nợ gia tăng và sự yếu kém của
hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Trong khi xu hướng hợp nhất và bánh trướng
về mặt địa lý đã giúp nhiều ngân hàng ít tổn thương trong điều kiện kinh
tế trong nước thì sự đẩy mạnh cạnh tranh giữa các ngân hàng và các tổ
chức phi ngân hàng kèm theo các khoản tín dụng có ván đề một nền kinh tế
luôn biến động đã dẫn tới sự phá sản ngân hàng ở nhiều quốc gia trên
thế giới. Xu hướng phi quản lý hóa trong lĩnh vực tài chính đã mở ra cơ
hội cho các nhà ngân hàng, nhưng cũng chỉ tạo ra một thị trường tài
chính xảo trá hơn, nơi mà sự phá sản, thôn tính và thành lý ngân hàng dễ
xảy ra hơn.
Commercial Bank Management (Peter S.Rose) – 2001
0 comments:
Post a Comment