LG. NGUYỄN THỊ HẰNG NGA – Chi hội luật gia Công ty luật số 5 Quốc gia
Việc xác định đúng thời
hiệu khởi kiện có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động giải quyết
tranh chấp của cơ quan Tòa án cũng như trong hoạt động tư vấn pháp luật
của các Luật sư. Nhiều vụ việc trên thực tiễn là những bài học “đau đớn”
cho các đương sự vì không nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của thời hiệu
khởi kiện. Tuy nhiên, quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ
án dân sự còn nhiều điểm bất cập, tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau, gây
khó khăn cho thực tiễn áp dụng, ảnh hưởng không ít đến quyền lợi của
đương sự.
Bài viết này chúng tôi trao đổi một số vấn đề về các
quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện, cách tính thời hiệu,
những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng (chủ yếu tiếp cận đối với việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh- thương mại)[1].
Điều 159 BLTTDS quy định thời hiệu khởi kiện là thời
hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện yêu cầu tòa giải quyết vụ án dân sự
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc
thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như
vậy, thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà đương sự được quyền yêu cầu cơ
quan tòa án giải quyết vụ việc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm. Quy định về thời hiệu khởi kiện buộc các đương sự
phải ý thức được việc bảo vệ quyền lợi của mình và sớm có yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền giải quyết, tránh tình trạng khởi kiện tuỳ hứng.
Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác về
thời hiệu khởi kiện, thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải
quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị
xâm phạm. Như vậy, để xác định đúng thời hiệu khởi kiện, phải xác định
được quan hệ tranh chấp đó có được văn bản pháp luật nào khác quy định
về thời hiệu khởi kiện hay không. Điều quan trọng thứ hai là phải xác
định đúng ngày nào được coi là ngày có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm để bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện.
Theo Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005
của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong
phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS 2005 tại tiểu mục 2.2
Mục 2 phần IV thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính từ
ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích
công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm và được xác định như sau:
a1. Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên có thỏa thuận
hoặc pháp luật có quy định thời hạn thực hiện, nếu hết thời hạn đó mà
bên có nghĩa vụ không thực hiện, thì ngày hết hạn thực hiện nghĩa vụ là
ngày xảy ra vi phạm;
a2. Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên không thỏa
thuận hoặc pháp luật không quy định thời hạn thực hiện, nhưng theo quy
định của pháp luật các bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho nhau biết trước
trong một thời gian hợp lý, nếu hết thời hạn đã được thông báo đó bên có
nghĩa vụ không thực hiện, thì ngày hết thời hạn đã được thông báo là
ngày xảy ra vi phạm;
a3. Trường hợp khi hết hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự,
các bên có thỏa thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ đó, thì việc
xác định ngày vi phạm căn cứ vào ngày chấm dứt thỏa thuận của các bên và
được thực hiện như hướng dẫn tại điểm a1 và điểm a2 nói trên;
a4. Trong quá trình thực hiện hợp đồng mà có vi phạm
nghĩa vụ trong hợp đồng, thì ngày vi phạm nghĩa vụ là ngày xảy ra vi
phạm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Nếu một bên đơn phương
đình chỉ hợp đồng thì ngày đơn phương đình chỉ hợp đồng là ngày vi phạm.
a5. Đối với trường hợp đòi bồi thường thiệt hại do
hành vi xâm phạm tài sản, sức khoẻ, tính mạng…, thì ngày xảy ra hành vi
xâm phạm tài sản, sức khoẻ, tính mạng… là ngày vi phạm;
a6. Trong một quan hệ pháp luật hoặc trong một giao
dịch dân sự, nếu hành vi xâm phạm xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau,
thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ thời điểm xảy
ra hành vi xâm phạm cuối cùng;
a7. Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm
a1,a2,a3,a4,a5 nói trên, nếu các bên có thỏa thuận khác về thời hiệu,
thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính theo thỏa thuận của
các bên.
Mặc dù Nghị quyết 01 nói trên hưóng dẫn cách xác định
thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện rất cụ thể như vậy nhưng việc xác
định trên thực tế không mấy dễ dàng. Đối với tranh chấp trong kinh
doanh thương mại, cách xác định còn mang đặc thù riêng.
Tranh chấp kinh doanh- thương mại phát sinh trong
nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực đều có văn bản pháp luật chuyên
ngành (hẹp) điều chỉnh. Ví dụ, hợp đồng xây dựng chịu sự điều chỉnh của
Luật xây dựng, hợp đồng bảo hiểm chịu sự điều chỉnh của Luật kinh doanh
bảo hiểm, hợp đồng trong lĩnh vực hàng hải chịu sự điều chỉnh của Bộ
luật hàng hải, hợp đồng tín dụng chịu sự điều chỉnh của pháp luật về tài
chính, ngân hàng… Thời hiệu khởi kiện đối với những tranh chấp phát
sinh trong các lĩnh vực này, cũng có thể được văn bản pháp luật chuyên
ngành điều chỉnh, nếu không được văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh
thì sẽ áp dụng quy định của Luật thương mại 2005 về thời hiệu khởi kiện,
theo đó, thời hiệu khởi kiện các tranh chấp trong hoạt động thương mại
cũng là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ
trường hợp được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 237 Luật Thương mại[2].
Quy định này trùng với quy định về thời hiệu khởi kiện của Điều 159
BLTTDS. Tuy nhiên, người áp dụng cũng cần phải lưu ý căn cứ pháp lý để
xác định thời hiệu là Luật Thương mại chứ không phải là BLTTDS, điều
luật cần phải viện dẫn là Điều 319 Luật Thương mại chứ không phải là
Điều 159 BLTTDS. Thực tế cho thấy, các Thẩm phán khi viết án thường
trích cả hai điều luật trên về thời hiệu khởi kiện là không đúng. Thậm
chí còn có Thẩm phán trích dẫn cả Điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án Kinh tế và Điều 159 BLTTDS[3].
Đối với tranh chấp trong kinh doanh, thương mại thời
hiệu khởi kiện không chỉ được quy định khác về thời gian mà còn khác cả
về phương pháp tính. Lấy đơn cử, các tranh chấp trong lĩnh vực hàng hải
được Bộ luật hàng hải quy định nhiều loại thời hiệu khởi kiện khác nhau
cho từng quan hệ tranh chấp khác nhau. Đối với tranh chấp về hư hỏng,
mất mát hàng hóa vận chuyển theo chứng từ vận chuyển là một năm, kể từ
ngày trả hàng hoặc lẽ ra phải trả hàng cho người nhận hàng (Điều 97).
Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng vận chuyển theo chuyến là
2 năm, kể từ ngày người khiếu nại biết hoặc phải biết quyền lợi của
mình bị xâm phạm (Điều 118). Thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường tổn thất
do hành khách chết, bị thương hoặc tổn hại khác về sức khoẻ và mất mát,
hư hỏng hành lý là hai năm (Điều 137). Thời điểm để tính thời hiệu được
quy định cụ thể trong từng trường hợp (trường hợp hành khách bị thương
thì tính từ ngày hành khách rời tàu; trường hợp hành khách chết trong
thời gian vận chuyển thì tính từ ngày lẽ ra hành khách rời tàu; trường
hợp hành khách bị thương trong quá trình vận chuyển dẫn đến hậu quả hành
khách đó chết sau khi rời tàu thì tính từ ngày người đó chết, nhưng
không được quá 3 năm, kể từ ngày rời tàu; trường hợp mất mát, hư hỏng
hành lý thì tính từ ngày hành khách rời tàu hoặc ngày lẽ ra hành khách
rời tàu, tuỳ thuộc vào thời điểm nào muộn hơn). Nếu có việc tạm đình chỉ
hoặc gián đoạn thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường đối với trường hợp
này thì thời hiệu khởi kiện cũng không được quá 3 năm kể từ ngày hành
khách rời tàu hoặc ngày lẽ ra hành khách rời tàu, tuỳ thuộc vào thời
điểm nào muộn hơn. Đối với vụ việc liên quan đến hợp đồng thuê tàu, thời
hiệu khởi kiện là hai năm kể từ ngày chấm dứt hợp đồng. Thời hiệu khởi
kiện về việc thực hiện hợp đồng đại lý tàu biển, hợp đồng môi giới hàng
hải, hợp đồng lai dắt tàu biển, hợp đồng bảo hiểm hàng hải là 2 năm kể
từ ngày phát sinh tranh chấp (Điều 164, Điều 168, Điều 183, Điều 257).
Thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng cứu hộ hàng hải là hai
năm, kể từ ngày kết thúc hành động cứu hộ (Điều 195). Thời hiệu khởi
kiện về tai nạn va đâm là 2 năm, kể từ ngày xảy ra tai nạn. Trong trường
hợp bồi thường tính mạng, sức khỏe hoặc tổn hại khác về sức khỏe con
người, các tàu có lỗi phải chịu trách nhiệm liên đới. Tàu đã bồi thường
vượt quá trách nhiệm của mình có quyền đòi các tàu liên quan hoàn trả số
tiền quá mức đó và thời hiệu khởi kịên về việc đòi hoàn trả là 1 năm,
kể từ ngày trả tiền bồi thường (Điều 211). Thời hiệu khởi kiện về tổn
thất chung là 2 năm, kể từ ngày xảy ra tổn thất chung. Thời gian tiến
hành phân bổ tổn thất chung không tính vào thời hiệu khởi kiện về tổn
thất chung (Điều 218).
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cũng gặp nhiều vướng mắc
bởi sự khác biệt này. Điều mà người vận dụng băn khoăn là hướng dẫn tại
tiểu mục 2.2. của Nghị quyết 01 về cách xác định thời điểm bắt đầu
tính thời hiệu khởi kiện có áp dụng cho trường hợp thời hiệu khởi kiện
do văn bản quy phạm pháp luật khác quy định? Điều đó dẫn đến những cách
hiểu khác nhau trong việc xác định những vấn đề sau:
-
Xác định ngày phát sinh tranh chấp như thế nào?
Điều dễ nhầm lẫn là việc xác định ngày phát sinh
tranh chấp khác với ngày có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Không
phải có vi phạm là đã có tranh chấp. Vậy xác định ngày phát sinh tranh
chấp như thế nào? Khi BLTTDS 2005 đã có hiệu lực, Tòa án tối cao chỉ
hướng dẫn về cách xác định ngày có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
chứ không hướng dẫn về ngày phát sinh tranh chấp như trước đây. BLTTDS
có hiệu lực làm cho các văn bản hướng dẫn Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế đương nhiên hết hiệu lực. Như vậy, người áp dụng pháp
luật sẽ rất lúng túng trong việc xác định ngày phát sinh tranh chấp.
Trên thực tế việc xác định ngày phát sinh tranh chấp vô cùng phức tạp.
Sở dĩ có sự “vênh” giữa các quy định pháp luật, phải
chăng do các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành được xây dựng vào
thời điểm Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế còn có hiệu lực
nên nhà làm luật vẫn sử dụng thuật ngữ “ngày phát sinh tranh chấp”,
trong khi BLTTDS không còn sử dụng thuật ngữ này?
-
Xác định thời hiệu khởi kiện như thế nào khi tranh chấp phát sinh trong quá trình hợp đồng thuê tàu đang được thực hiện?
Điều 142 Bộ luật hàng hải quy định tranh chấp liên
quan đến hợp đồng thuê tàu thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ ngày hợp
đồng chấm dứt. Giả sử A thuê tàu của B, thời hạn thuê tàu là 3 năm, tiền
thuê tàu được thanh toán trước một nửa. Hợp đồng thực hiện được 1 năm
thì A có văn bản đề nghị chấm dứt hợp đồng vì chất lượng tàu không đảm
bảo và đòi lại số tiền thuê đã trả. B không đồng ý và giữa hai bên phát
sinh tranh chấp. A khởi kiện ra Tòa án. Vụ việc này thời hiệu khởi kiện
được xác định như thế nào? Có quan điểm cho rằng thời điểm để xác định
thời hiệu khởi kiện là ngày bên A có văn bản đề nghị chấm dứt hợp đồng.
Có quan điểm khác cho rằng áp dụng Điều 142 nói trên, thời điểm để tính
thời hiệu khởi kiện là ngày hợp đồng chấm dứt. Điều đó có nghĩa, nguyên
đơn khởi kiện trước thời điểm tính thời hiệu khởi kiện? Vấn đề cần xác
định là hiểu như thế nào với quy định “tranh chấp liên quan đến hợp đồng thuê tàu” để xác định thời hiệu khởi kiện?
-
Xác định thời hiệu đối với tranh chấp giữa thành viên Công ty với Công ty, giữa thành viên công ty với nhau như thế nào?
Đối với tranh chấp giữa thành viên công ty với công
ty, tranh chấp thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập,
hoạt động, giải thể, tổ chức lại doanh nghiệp chưa có quy định cụ thể
về thời hiệu khởi kiện được xác định như thế nào. Như vậy, theo Điều 159
BLTTDS, tranh chấp công ty cũng có thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ
ngày có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp Điều 107
Luật doanh nghiệp 2005 quy định đối với trường hợp yêu cầu huỷ quyết
định của Đại hội cổ đông, thời hạn để các chủ thể có quyền lợi bị xâm
phạm được thực hiện quyền yêu cầu Tòa án huỷ là 90 ngày kể từ ngày nhận
được biên bản của Đại hội cổ đông. Còn các tranh chấp khác trong công
ty, quan niệm ngày nào là ngày có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
cũng chưa rõ ràng. Ví dụ, thành viên công ty kiện Giám đốc có hành vi
gây thiệt hại lợi ích của Công ty, ngày nào được coi là ngày có quyền,
lợi ích bị xâm phạm? là ngày mà Giám đốc đã có hành vi gây thiệt hại,
hay ngày thành viên đó biết được việc gây thiệt hại? Hai thời điểm đó có
thể khác nhau.
Theo quy định của Điều 160 BLTTDS thì các quy định
của Bộ luật Dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng dân sự; do
đó, việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện, thời gian không tính vào
thời hiệu khởi kiện, bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện… được thực hiện
theo quy định của BLDS 2005 (Điều 161, Điều 162).
Về cách tính thời hạn, BLDS 2005 quy định khi thời
hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời
hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo của ngày được xác định
(khoản 2 Điều 152 BLDS 2005). Trở lại hướng dẫn của Nghị quyết 01, đối
với vụ việc dân sự mà trong văn bản quy phạm pháp luật không quy định
thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm
kể từ ngày có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm theo quy định của
khoản 3 Điều 159 BLTTDS và lưu ý nếu tranh chấp phát sinh trước ngày
01/01/2005, thì thời hạn là hai năm kể từ ngày 01/01/2005 (tiểu mục 2.1,
mục 2, phần IV). Bên cạnh đó, Điều 156 BLDS 2005 quy định “thời hiệu
được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên của thời hiệu và chấm dứt
tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu”.
Tranh cãi về việc áp dụng cách tính thời hạn theo quy
định của BLDS 2005 cũng được đặt ra đối với hướng dẫn nói trên của Nghị
quyết 01. Có quan điểm cho rằng, những tranh chấp phát sinh trước ngày
01/01/2005 thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm tính từ ngày 01/01/2005, và
như vậy thời hiệu khởi kiện hết vào ngày 31/12/2006 (cách tính này áp
dụng theo Điều 156 BLDS 2005). Nhưng cũng có quan điểm khác cho rằng,
ngày bắt đầu tính thời hiệu là ngày 02/01/2005 (cách tính này áp dụng
theo Điều 152 BLDS 2005) và như vậy, ngày hết thời hiệu khởi kiện là
ngày 02/01/2007. Dù sự chênh lệch không nhiều, nhưng đối với quyền lợi
của các đương sự, một ngày cũng đủ để cứu vớt quyền lợi của họ trước
nguy cơ hết thời hiệu khởi kiện. Vậy phương pháp tính thời hiệu khởi
kiện nào là phương pháp đúng? Chúng tôi cho rằng, cần có sự thống nhất
về phương pháp tính thời hiệu để tránh thiệt hại cho các đương sự.
Điều 161 BLDS 2005 quy định thời gian không tính vào
thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong
các sự kiện sau:
-
Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện trong phạm vi thời hiệu;
-
Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
-
Chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được trong trường hợp người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chết.
Quy định này dường như trở nên bất cập với tình huống sau: Công
ty cổ phần An Khang, Giám đốc Công ty là Ông Khang, là người đại diện
theo pháp luật của Công ty kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị đã lợi dụng
danh nghĩa Công ty vay vốn Ngân hàng với số tiền lên tới 2 tỷ đồng và
dùng tài sản của Công ty để thế chấp. Theo quy định của Điều lệ, với
những hợp đồng vay như vậy phải được sự thông qua của Hội đồng quản trị
nhưng ông Khang đã tự ý giao kết hợp đồng vay và sử dụng số tiền vay
được vào mục đích cá nhân. Đại hội cổ đông của Công ty đã được triệu tập
bất thường để xem xét vi phạm này của ông Khang và tiến hành biểu quyết
bầu lại Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty. Tuy nhiên,
ông Khang có đơn khiếu nại gửi đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xem
xét về hiệu lực của quyết định của Đại hội cổ đông. Cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền đã yêu cầu Công ty tiếp tục duy trì các chức danh quản lý
của ông Khang. Trong thời gian này phía Ngân hàng khởi kiện Công ty đòi
lại 2 tỷ đồng và Ngân hàng đã chủ động phát mại tài sản của Công ty để
thu hồi vốn. Vì không có người đại diện theo pháp luật để đứng ra khởi
kiện bảo vệ lợi ích của Công ty, Công ty tiếp tục tiến hành đại hội bầu
người đại diện theo pháp luật mới của Công ty để thực hiện việc khởi
kiện. Quá trình tiến hành các lần triệu tập, tiến hành họp, thông qua
cuộc họp mất rất nhiều thời gian. Cuối cùng, khi đơn kiện được gửi đến
Tòa án thì Tòa án trả lại đơn vì vụ việc đã hết thời hiệu khởi kiện.
Trong trường hợp này, thời gian gặp trở ngại vì không
có người đại diện để thực hiện việc khởi kiện hợp lệ không được cộng
vào thời hiệu khởi kiện theo quy định của Điều 161 nói trên. Và chúng
tôi cho rằng điều đó là bất hợp lý. Nên chăng điều luật này cần được quy
định thêm về những trở ngại đối với trường hợp pháp nhân chưa xác định
được người đại diện. Có như vậy mới khắc phục được nhiều bất cập trong
thực tiễn, ví dụ như người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
chết, người đại diện đột nhiên mất năng lực hành vi…mà doanh nghiệp chưa
có người thay thế để thực hiện việc khởi kiện. Khi đó, thời gian này
cũng nên được cộng vào thời gian tính thời hiệu khởi kiện. Với những
tình huống như vậy, giải pháp nên là, doanh nghiệp, dù chưa có người đại
diện hợp lệ, vẫn tiến hành việc khởi kiện, sau đó khi xác định được
người đại diện hợp lệ, doanh nghiệp sẽ khởi kiện lại để đỡ mất thời hiệu
khởi kiện (Tòa án sẽ tính thời điểm khởi kiện là thời gian nộp đơn lúc
đầu).
Điều 162 BLDS 2005 quy định về các trường hợp bắt đầu
lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, theo đó, thời hiệu khởi kiện vụ
án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp:
-
Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
-
Bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
-
Các bên đã tự hòa giải với nhau.
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại, kể từ
ngày tiếp theo sau ngày xảy ra một trong những sự kiện nói trên. Tuy
nhiên, trên thực tế điều luật này dường như bị lãng quên. Hơn nữa, điểm b
của Điều 162 được hiểu như thế nào cũng chưa rõ ràng. Xin được viện dẫn
ví dụ sau: Ngày 16/2/2002, Công ty THHH Hoàng Hà ký hợp đồng uỷ
thác mua sắn lát với Công ty TNHH Hòa Bình. Theo hợp đồng, Công ty Hoàng
Hà nhận thu mua 100 tấn sắn lát. Tổng giá trị lô hàng là 500 triệu
đồng. Phí uỷ thác là 10% trên giá trị thu mua được. Công ty Hòa Bình đã
ứng trước cho Công ty Hoàng Hà 400 triệu. Thời gian thực hiện hợp đồng
là 1 năm kể từ ngày ký. Thực hiện hợp đồng, Công ty Hoàng Hà chỉ thu mua
được 50 tấn. Công ty Hòa Bình đề nghị Công ty Hoàng Hà tiếp tục thực
hiện đúng hợp đồng để có đủ hàng giao cho Công ty của Hà Lan. Do không
thể thu gom với giá ấn định nên Công ty Hoàng Hà có văn bản đề nghị chấm
dứt hợp đồng. Ngày 1/2/2004, Công ty Hoàng Hà và Công ty Hòa Bình có
văn bản xác nhận nợ, theo đó Công ty Hoàng Hà thừa nhận còn nợ Công ty
Hòa Bình 150 triệu đồng (Công ty Hoàng Hà chưa được trừ phí uỷ thác vì
phía Công ty Hòa Bình cho rằng Công ty Hoàng Hà chưa thực hiện xong hợp
đồng) và cam kết sẽ trả hết nợ vào cuối tháng 2 năm 2004. Nhưng cho đến
ngày 15/10/2004, Công ty Hoàng Hà mới chuyển trả được 35 triệu đồng và
sau đó dừng hẳn việc trả nợ. Sau nhiều lần đề nghị thanh toán không
thành, ngày 13/10/2006, Công ty Hòa Bình gửi đơn kiện đến TAND có thẩm
quyền.
Xung quanh vụ việc này, cũng có nhiều cách hiểu khác
nhau về việc áp dụng điều luật khôi phục lại thời hiệu khởi kiện. Nếu áp
dụng điểm a khoản 1, Điều 171 BLDS 1995 (thời điểm này còn áp dụng Điều
171 BLDS 1995, nay là Điều 162 BLDS 2005) về khôi phục lại thời hiệu
khởi kiện, thời hiệu khởi kiện được tính lại từ ngày 1/2/2004 là ngày
Công ty Hoàng Hà thừa nhận nghĩa vụ và thời hiệu khởi kiện được tính đến
ngày 1/2/2006. Ngày 13/10/2006, Công ty Hòa Bình mới khởi kiện, như
vậy, vụ việcđã hết thời hiệu khởi kiện. Nếu áp dụng điểm b khoản 1 Điều
171, vụ việc còn thời hiệu khởi kiện, vì ngày 15/10/2004, Công ty Hoàng
Hà đã thực hiện một phần nghĩa vụ đối với Công ty Hòa Bình, như vậy thời
hiệu khởi kiện được tính lại từ ngày đó và vụ việc hết thời hiệu cho đến ngày 15/10/2006. Cách hiểu
nào đúng vẫn còn nhiều tranh luận. Ngoài ra, còn có quan điểm khác cho
rằng, thời điểm này áp dụng quy định của Luật thương mại 1997, theo đó
thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ ngày phát sinh quyền khiếu nại. Trong
khi vụ việc được áp dụng thời hiệu theo Luật Thương mại 1997 thì có áp dụng Điều 171 của BLDS 1995 hay không cũng chưa có quan điểm thống nhất.
Cũng vụ việc trên, có thể mở rộng thêm tình huống
Công ty Hoàng Hà đã chuyển trả nợ nhiều lần. Vậy, lần trả nợ nào được
xác định làm mốc để xác định ngày bắt đầu lại thời hiệu? Là ngày cuối
cùng mà Công ty Hoàng Hà trả một phần nợ? Để có cơ sở thống nhất cho
việc áp dụng, cần có hướng dẫn cụ thể từ phía Tòa án nhân dân tối cao,
tránh việc áp dụng tuỳ tiện.
Trong thực tiễn, việc viện dẫn mất quyền yêu cầu tòa
án do hết thời hiệu khởi kiện có thể xuất phát từ một bên trong tranh
chấp hợp đồng. Việc đương sự viện dẫn quy định pháp luật về thời hiệu
khởi kiện để cho rằng vụ việc đã hết thời hiệu khởi kiện, đề nghị Tòa án
bác yêu cầu của đối phương hiển nhiên được thừa nhận, đó là quyền phòng
vệ của một bên tranh chấp.
Ngoài các bên đương sự, thực tiễn xét xử của Việt Nam
cho thấy, nhiều trường hợp Tòa án tự viện dẫn quy định về thời hiệu
khởi kiện để bác yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, vấn đề cần bàn là Tòa
án có quyền tự viện dẫn quy định về thời hiệu để bác yêu cầu của các bên
hay không? Xin viện dẫn ví dụ sau: Năm 1995, Công ty A bán cho Công
ty B 64 tấn dầu. Khi có tranh chấp, Tòa án có thẩm quyền đã buộc Công
ty B bồi thường cho Công ty A một khoản tiền. Sau đó, tại bản án phúc
thẩm, Tòa phúc thẩm TANDTC buộc Công ty B phải thanh toán cho Công ty A
một khoản tiền nhỏ hơn. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa phúc thẩm
TANDTC thụ lý vụ việc và không đề cập đến vấn đề thời hiệu khởi kiện
trong bản án. Tuy nhiên, trong Kháng nghị của Chánh án TANDTC đã nhận
định “thời điểm phát sinh tranh chấp hợp đồng được tính từ ngày
5/10/1995. Theo quy định tại Điều 31 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án kinh tế thì thời hiệu khởi kiện là 6 tháng kể từ ngày phát sinh
tranh chấp. Trong thời hiệu khởi kiện (từ ngày 5/10/1995 đến hết ngày
5/4/1996) Công ty A đã không làm đơn khởi kiện… Do đó, kể từ ngày
6/4/1996, Công ty A không còn quyền khởi kiện ra tòa án đối với Công ty B
về việc vi phạm hợp đồng kinh tế nêu trên[4]". Ở ví dụ này, chính Chánh án TANDTC đã viện dẫn việc mất quyền khởi kiện của Công ty A.
Việc cơ quan tiến hành tố tụng tự viện dẫn vụ việc đã
hết thời hiệu để không giải quyết vụ án dân sự cho thấy thực tiễn pháp
luật Việt Nam khác với nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới. Bộ luật
Dân sự Pháp, Điều 2223 quy định thẩm phán không thể tự viện dẫn việc hết
thời hiệu khởi kiện. Pháp luật của một số nước cũng có quy định tương
tự. Ở một số nước, trong đó có Pháp, tòa án cấp cao hơn sẽ hủy bản án sơ
thẩm hay phúc thẩm nếu thẩm phán tự mình viện dẫn việc mất quyền khởi
kiện của một bên trong hợp đồng do hết thời hiệu trong khi không được
bên kia của hợp đồng yêu cầu. Điều 10.9, khoản 1 Bộ nguyên tắc Unidroit
về hợp đồng thương mại quốc tế (General Principle of Commercial Contracts), được nhiều nước thừa nhận rộng rãi cũng có quy định "việc hết thời hiệu chỉ có hiệu lực nếu bên có nghĩa vụ viện dẫn việc hết thời hiệu như là một biện pháp tự vệ".
Như vậy, nhiều nước trên thế giới thừa nhận việc hết thời hiệu không có
hiệu lực tự động mà nó chỉ có hiệu lực khi một bên viện dẫn điều đó như
một biện pháp tự vệ. Theo đó, cơ quan tố tụng không được tự viện dẫn
việc hết thời hiệu để từ chối quyền yêu cầu của một bên trong hợp đồng
nếu không được bên kia yêu cầu.
Có quan điểm cho rằng việc cơ quan tiến hành tố tụng tự viện dẫn một bên mất quyền khởi kiện vì đã hết thời hiệu khởi kiện khi
không được bên kia trong hợp đồng yêu cầu dường như đi ngược lại với
tinh thần của nguyên tắc tự do quyết định, định đoạt của đương sự được
ghi nhận tại Điều 5 BLTTDS, trong
khi đó, quan hệ hợp đồng là loại quan hệ mà quyền định đoạt và quyết
định của các bên là rất cao. Vì vậy, điểm a, khoản 1, Điều 168 BLTTDS
quy định chung chung rằng, tòa án trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp
thời hiệu khởi kiện đã hết là không hợp lý. Để pháp luật Việt
Nam phù hợp với thông lệ quốc tế và để tôn trọng quyền tự do quyết định,
định đoạt của các bên trong tranh chấp hợp đồng, không nên cho phép cơ
quan tiến hành tố tụng tự viện dẫn việc mất quyền khởi kiện của một bên
khi không được bên kia yêu cầu. Đồng thời, để giải pháp này được áp dụng
hài hòa thì điểm a, Khoản 1, Điều 168 BLTTDS nên quy định trong lĩnh
vực hợp đồng, tòa án chỉ trả lại đơn khởi kiện vì thời hiệu khởi kiện đã
hết nếu được một bên trong tranh chấp yêu cầu việc đó[5]. Chúng tôi ủng
hộ quan điểm này. Thiển nghĩ, xét cho cùng việc viện dẫn thời hiệu khởi
kiện chỉ là phương pháp phòng vệ của các bên tranh chấp, Tòa án không
nên làm thay đương sự những việc mà đương sự không yêu cầu./.
[1] Các vụ việc tác giả nêu có thể là những vụ việc có thật được tác giả biên tập lại, cũng có thể là những tình huống giả định
[2] Lưu ý đối với những tranh chấp hợp đồng trong
lĩnh vực thương mại trước khi Luật Thương mại 2005 có hiệu lực thì cách
tính thời hiệu khởi kiện có điểm khác, thời điểm tính thời hiệu khởi
kiện là ngày phát sinh quyền khiếu nại chứ không phải là ngày có quyền,
lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
[3] Bản án số 271/KTST ngày 14/4/2005- TAND TP Hà Nội
[4] Kháng nghị số 01/KT-TK ngày 23/3/1998 của Chánh án TANDTC
[5] Tham khảo bài viết của tác giả Đỗ Văn Đại, Đỗ Văn Hữu đăng trên http://www.nclp.org.vn ngày 18/7/2006
SOURCE: TẠP CHÍ NGHỀ LUẬT – HỌC VIỆN TƯ PHÁP



6:42 PM
Hoàng Phong Nhã
Posted in:
0 comments:
Post a Comment