TS.PHAN HUY HỒNG – Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
I. BÌNH LUẬN CHUNG
Việc xây dựng Luật Doanh nghiệp thống nhất trên cơ sở
phát triển Luật Doanh nghiệp 1999 (LDN 1999) cùng với phạm vi điều
chỉnh của luật này thể hiện là một phương án hợp lý khi ta đánh giá nó
trong hoàn cảnh lập pháp cụ thể. Các lập luận và nhận định sau đây nhằm
ủng hộ phương án đã được lựa chọn khi có thể vẫn có ý kiến khác nhau về
vấn đề này.
1. Trước hết, nếu không có chủ
trương bổ sung một loại hình doanh nghiệp mới nào vào hệ thống pháp luật
doanh nghiệp thì việc lấy LDN 1999 làm cơ sở để xây dựng luật mới là
phù hợp, bởi vì luật này đã quy định bốn loại hình doanh nghiệp căn bản
trong hệ thống pháp luật doanh nghiệp Việt Nam. Bản thân LDN 1999 đã
được xây dựng trên cơ sở các điều tra nghiên cứu khá công phu và đã phản
ánh được sự đồng thuận cao trong các giới, các tầng lớp xã hội. Qua hơn
bốn năm có hiệu lực thực hiện, luật này đã thể hiện là công cụ phù hợp
để thực hiện các mục tiêu được ghi nhận trong lời nói đầu của Luật.
2. Việc lấy LDN 1999 làm cơ sở để
xây dựng luật mới cho phép phát huy tốt nhất tính kế thừa trong lập
pháp. Sự sửa đổi, bổ sung luật này trên cơ sở kết quả của các điều tra,
nghiên cứu, đanh giá thực tiễn áp dụng là cách làm tiết kiệm tiền bạc và
thời gian hơn cả. Một yếu tố không thể không xem xét tính đến để ủng hộ
phương án này là việc xây dựng Luật Doanh nghiệp thống nhất và Luật Đầu
tư chung còn chịu áp lực về mặt thời gian bởi mục tiêu sớm được gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới.
3. Việc không đưa “doanh nghiệp nhà
nước” hay loại hình “công ty nhà nước” vào Luật Doanh nghiệp thống nhất
cũng là hợp lý bởi các lý do sau:
Thứ nhất, phạm vi điều chỉnh của pháp luật
doanh nghiệp theo nghĩa hẹp là các vấn đề về thành lập và tổ chức doanh
nghiệp, hay nói một cách khác pháp luật doanh nghiệp là “pháp luật tổ
chức doanh nghiệp”. Trong khi đó “doanh nghiệp nhà nước” không còn là
khái niệm chỉ một loại hình doanh nghiệp nữa.
Thứ hai, việc đưa loại hình “công ty nhà
nước” vào Luật Doanh nghiệp thống nhất là hoàn toàn không cần thiết. Bởi
vì, Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 một mặt là sự ghi nhận những kết
quả đạt được trong hơn một thập kỷ đổi mới doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
vừa qua, mặt khác là cơ sở pháp lý cho sự chuyển đổi DNNN trong giai
đoạn tiếp theo. Các cố gắng đổi mới DNNN cho thấy loại hình công ty nhà
nước sẽ chỉ là một loại hình doanh nghiệp “trong thời kỳ chuyển đổi”,
cho dù quá trình đó có thể kéo dài. Mặt khác, sự tồn tại Luật Doanh
nghiệp nhà nước 2003 bên cạnh Luật Doanh nghiệp thống nhất là cần thiết,
vì phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp thống nhất không thể bao
trùm phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp nhà nước và như vậy không
thể thay thế luật này được.
4. Luật Doanh nghiệp thống nhất cũng
không nên điều chỉnh cả loại hình hợp tác xã, trước hết vì một lý do
rất thực tế là đã tồn tại một Luật Hợp tác xã mới và tốt. Trường hợp
Luật Doanh nghiệp thống nhất mở rộng phạm vi điều chỉnh sang cả loại
hình hợp tác xã thì về cơ bản việc này cũng chỉ là sự “sáp nhập” Luật
Hợp tác xã. Luật này vẫn có thể tồn tại tại bên cạnh Luật Doanh nghiệp
thống nhất mà không ảnh hưởng tới tính thống nhất của pháp luật doanh
nghiệp. Nói cách khác, sự đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật
không nhất thiết phải thực hiện bằng việc đưa tất cả các loại hình
doanh nghiệp vào phạm vi điều chỉnh của một luật duy nhất.2
Tuy nhiên, việc xây dựng Luật Doanh nghiệp thống nhất
trên cơ sở LDN 1999 cũng chứa đựng những mặt hạn chế có thể khắc phục.
Ngược lại với khả năng kế thừa luật tiền thân là sự hạn chế đối với khả
năng cho một tư duy đột phá hay nguy cơ tiếp tục một tư duy theo lối
mòn. Mặc dù việc soạn thảo luật này đã tiến triển đến giai đoạn cuối
cùng, nhưng các ý kiến thiên về “kỹ thuật” và không phá vỡ cấu trúc đã
định hình của Dự thảo vẫn có hy vọng được tiếp thu.
II. KIẾN NGHỊ CHUNG
1. Việc xây dựng Luật Doanh nghiệp
thống nhất với phạm vi điều chỉnh gồm các loại hình doanh nghiệp dành
cho mọi nhà đầu tư một mặt đòi hỏi người soạn thảo luật phải thoát khỏi
tư duy “thành phần kinh tế”, nhưng mặt khác lại luôn phải nhìn nhận
trong các khái niệm “thành viên”, “thành viên sáng lập”, “cổ đông” hay
“cổ đông sáng lập” vừa có thể là nhà đầu tư nhà nước, nhà đầu tư tư nhân
Việt Nam lại vừa có thể là nhà đầu tư nước ngoai. Điều đó có nghĩa là
luôn cần tìm ra một giải pháp hợp lý mà mọi đối tượng đầu tư thành lập
doanh nghiệp đều có thể chấp nhận được.
2. Luật Doanh nghiệp thống nhất cần
thể hiện một tư tuy đúng đắn hơn về “nâng cao hiêu quả quản lý nhà
nước”. Thực tiễn doanh nghiệp trong những năm đầu thực thi LDN 1999 với
hiện tượng “doanh nghiệp ma” hay “giấy phép trá hình” với việc đổ lỗi
cho luật này tạo ra nguy cơ dẫn đến những biện pháp quản lý nha nước mới
vừa không khả thi vừa có thể gây chi phí lãng phí cho doanh nghiệp và
xã hội. Thực chất LDN 1999 không có lỗi trong hiện tượng “doanh nghiệp
ma”. Đây là hiện tượng luôn song hành với một đạo luật “thông thoáng” và
co thể chấp nhận vì những lợi ích lớn hơn. Luật này cũng không có lỗi
trong hiện tượng giấy phép trá hình, điều này nằm ngoài phạm vi điều
chỉnh của Luật.
3. Luật Doanh nghiệp thống nhất có
thể sẽ được xem là một luật khá “hiện đại”, bởi vì đằng sau nhiều quy
phạm là sự hiểu biết và tiếp thu những kiến thức tổ chức quản trị doanh
nghiệp tiên tiến. Tuy nhiên tính hiện đại luôn đồng thời với tính phức
tạp và “khó hiểu”. Trong chừng mực có thê, Luật cần có ngôn từ được trau
chuốt để vừa đảm bảo tính chính xác vừa đảm bảo sự dễ hiểu. Tiếng Việt
hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu đó.
III. 10 KIẾN NGHỊ CHỌN LỌC
1. Về khoản 16 Điều 4 Dự thảo:
Khoản 16 Điều 4 quy định: “Phần vốn góp sở hữu nhà nước là phần vốn góp được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước do một cơ quan nhà nước được ủy quyền làm chủ sở hữu. Cổ phần sở hữu nhà nước là cổ phần được thanh toán bằng vốn ngân sách nhà nước do một cơ quan nhà nước được ủy quyền làm chủ sở hữu.”
Kiến nghị sửa đổi: Cụm từ “được ủy quyền làm chủ sở hữu” cần được sửa lại là “làm đại diện chủ sở hữu”.
Lập luận: Nhà nước là chủ
sở hữu và cũng chỉ Nhà nước là chủ sở hữu đối với phần vốn góp vào doanh
nghiệp được đầu tư từ ngân sách nhà nước. Bởi vậy Nhà nước chỉ có thể
ủy quyền cho một cơ quan nhà nước làm đại diện chủ sở hữu đối với phần vốn góp đó mà thôi. Ở đây cần có sự phân biệt rõ giữa hai mối quan hệ pháp lý sau đây:
Thứ nhất là mối quan hệ giữa Nhà nước đối
với phần vốn góp. Trong mối quan hệ này Nhà nước là chủ sở hữu đối với
phần vốn góp. Cơ quan nhà nước được ủy quyền chỉ có thể là đại diện chủ
sở hữu để thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu theo ủy quyền (sự ủy
quyền này có thể thể hiện dưới hình thức quy phạm pháp luật hoặc quyết
định hành chính).
Thứ hai là mối quan hệ giữa doanh nghiệp là
công ty hợp danh, công ty TNHH hoặc công ty cổ phần đối với tài sản được
dùng để góp vốn. Doanh nghiệp là công ty là chủ sở hữu đối với các tài
sản góp vốn vào công ty. Điều đó đã được LDN 1999 ghi nhận bằng quy định
“… người cam kết góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần và công ty hợp danh phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho
công ty…” (khoản 1 Điều 22). Dự thảo cũng kế thừa quy định này bằng quy
định tại Điều 26.
Quy định tại khoản 16 Điều 4 Dự thảo nhằm giải thích
khái niệm “phần vốn góp sở hữu nhà nước” trong mối quan hệ pháp lý giữa
Nhà nước đối với phần vốn góp. Trong mối quan hê này Nhà nước là chủ sở
hữu, cơ quan nhà nước được ủy quyền là để làm đại diện chủ sở hữu, thực
hiện các quyền năng của chủ sở hữu. Việc sửa lại theo như kiến nghị ở
đây mặt khác còn làm cho việc sử dụng khái niệm trong luật này tương
thích với khái niệm được sử dụng trong Luật Doanh nghiệp nhà nước năm
2003. 2. Về điểm 1 Điều 10 Dự thảo:
Điểm 1 Điều 10 quy định: “Doanh nghiệp hoạt động theo quy định của Luật này có nghĩa vụ: 1. Hoạt động kinh doanh theo đúng các ngành, nghề đã đăng ký”.
Kiến nghị sửa đổi: Quy định này cần được sửa lại là: “1. Hoạt động kinh doanh theo đúng các ngành, nghề đã đăng ký. Tuy nhiên việc vi phạm nghĩa vụ này không phải là lý do làm các giao dịch pháp luật vô hiệu” .
Lập luận: Đúng là doanh
nghiệp có quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh mà pháp luật không cấm,
nhưng đã đăng ký kinh doanh ngành nghề nào thì có nghĩa vụ hoạt động
kinh doanh theo đung các ngành, nghề đã đăng ký đó. Việc vi phạm một
nghĩa vụ tất nhiên phải dẫn đến một hậu quả pháp lý nhất định. LDN 1999
xem việc vi phạm nghĩa vụ này là một trong các vi phạm quy định của luật
này (khoản 8 Điều 120) và quy định hậu quả pháp lý tại khoản 1, 2 Điều
121, theo đó loại vi phạm này có thể bị xử phạt bằng hình thức xử phạt
vi phạm hành chính. Căn cứ khoản 2 Điều 6 Nghị định số 175/2004/NĐ-CP
ngày 10/10/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
thì hành vi kinh doanh không đúng ngành nghề ghi trong Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh có thể phạt tiền từ 3 triệu đến 7 triệu đồng.
Tuy nhiên, cho đến nay pháp luật hợp đồng Việt Nam
quy định hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ kinh doanh đúng ngành nghề đã
đăng ký kinh doanh là các hợp đồng được ký kết trong trường hợp đó vị
xem là vô hiệu (điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989).
Điều đó đã dẫn đến sự bất an toàn trong giao dịch pháp luật. Bản thân
doanh nghiệp bị hạn chế khả năng nắm bắt cơ hội trong kinh doanh; đối
tác “ngay tình” của doanh nghiệp vi phạm cũng phải gánh chịu hậu quả của
việc hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu. Qua công tác xét xử, hệ thống tòa án
đã nhận ra sự bất hợp lý cần phải được khắc phục này. Bởi vậy, trong
phạm vi thẩm quyền, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC)
đã ban hành Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003, trong đó có
hướng dẫn áp dụng quy định của pháp luật trong trường hợp này như sau: “Nếu khi ký kết
hợp đồng kinh tế một trong các bên chưa có đăng ký kinh doanh mà trong
quá trình thực hiện hợp đồng kinh tê giữa các bên có phát sinh tranh
chấp và đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp, bên chưa có đăng ký
kinh doanh khi ký kết hợp đồng kinh tế vẫn chưa có đăng ký kinh doanh để
thực hiện công việc được các bên thỏa thuận trong hợp đồng, thì hợp
đồng kinh tế này thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp
lệnh HĐKT và bị coi là vô hiệu toàn bộ”. Nhưng “nếu khi ký kết hợp đồng
kinh tế một trong các bên chưa có đăng ký kinh doanh, nhưng trong quá
trình thực hiện hợp đồng kinh tế giữa các bên có phát sinh tranh chấp và
đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp, bên chưa có đăng ký kinh
doanh khi ký kết hợp đồng đã có đăng ký kinh doanh để thực hiện công
việc được các bên thỏa thuận trong hợp đồng thì hợp đồng kinh tế này không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT và do đó không bị coi là vô hiệu toàn bộ”. Tuy
nhiên, Hội đồng thẩm phán TANDTC chỉ hướng dẫn áp dụng quy định của
pháp luật hiện hành. Nhưng vấn đề này chỉ có thể giải quyết triệt để
thông qua lập pháp, bởi vì trước đó Trọng tài Kinh tế nhà nước đã giải
thích luật theo hướng khác, và các tòa án cũng đã áp dụng quy định này
theo hướng khác. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã bị bãi bỏ bởi Nghị quyết
của Quốc hội số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005 về việc thi hành Bộ luật Dân
sự 2005 (BLDS 2005). Tuy nhiên các quy định của BLDS 2005 về giao dịch
dân sự vô hiệu và hợp đồng vô hiệu đều không đề cập trường hợp này (xem
các Điều 113, 118, 393, 394 BLDS 2005). Tương tự, Luật Thương mại 2005
cũng không đề cập trường hợp này. Nhưng các quy định pháp luật mới này
có thực sự cho phép suy diễn là hợp đồng do doanh nghiệp ký kết không
phù hợp với nội dung đăng ký kinh doanh không còn bị xem là vô hiệu nữa
hay không? Điều này chưa thể khẳng định được.
Bởi vậy, trong quy định về nghĩa vụ của doanh nghiệp
quy định tại Điều 10 Dự thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất nên được sửa
đổi như kiến nghị trên. Như vậy việc vi phạm nghĩa vụ “hoạt động kinh
doanh đúng ngành nghề đã đăng ký kinh doanh” sẽ chỉ dẫn đến hậu quả có
thể bị xử phạt vi phạm hành chính, chứ không dẫn đến hậu quả hợp đồng vô
hiệu. Quy định như vậy sẽ loại bỏ được hạn chế tồn tại cho tới nay đối
với việc nắm bắt cơ hội trong kinh doanh của doanh nghiệp và tạo sự an
toàn trong giao dịch pháp luật. Một lý do khác có thể viện dẫn để củng
cố quan điểm này là pháp luật các nước phát triển xem việc ghi nhận
ngành nghề kinh doanh trong điều lệ công ty và trong Danh bạ thương mại
là chỉ có chức năng thông báo cho các bên thứ ba biết rằng “tôi làm gì”
mà thôi, chứ không có chức năng tự ràng buộc doanh nghiệp trong khuôn
khổ đó3.
3. Về điểm e khoản 1 Điều 12 Dự thảo:
Điểm e khoản 1 Điều 12 quy định: “1.
Tổ chức, cá nhân người Việt Nam, tổ chức và cá nhân người nước ngoài
thuộc mọi quốc tịch đều có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại
Việt Nam theo quy định của Luật này, trừ những trường hợp sau đây: “e. Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị Toà án tước quyền hành nghề kinh doanh” .
Kiến nghị sửa đổi: Điểm e khoản 1 Điều 12 cần được sửa đổi như sau: “e. Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì một tội danh mà việc phạm tội có thể dẫn đến hậu quả bị Tòa án cấm hành nghề kinh doanh có thời hạn hoặc vô thời hạn hoặc người đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc người bị Tòa án cấm hành nghề kinh doanh có thời hạn hoặc vô thời hạn” .
Lập luận: Hiến pháp và luật
quy định “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có
bản án kết tội của tòa án có hiệu lực pháp luật” (Câu 1 Điều 72 Hiến
pháp 1992, Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự). Bởi vậy, về nguyên tắc
trước thời điểm bản án kết tội có hiệu lực pháp luật quyền công dân của
người bị truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ có thể bị hạn chế trong chừng
mực cần thiết để tiến hành thủ tục tố tụng hình sự. Pháp luật về cán bộ
công chức trong chừng mực nhất định có thể hạn chế quyền được tuyển dụng
của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc quyền thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của công chức, viên chức là người đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự để đảm bảo một bộ máy nhà nước không bị hoài nghi. Với lý
do tương tự, cũng có thể hạn chế người đang bị truy cứu trách nhiệm hình
sự trong việc đảm nhận các chức danh danh dự trong xã hội.
Sự hạn chế quyền căn bản của công dân trong những
tình huống pháp lý nhất định cần được cân nhắc một cách cẩn trọng trong
mối quan hệ với lợi ích xã hội. Vượt qua giới hạn thực sự cần thiết để
bảo vệ lợi ích xã hội thì mọi hạn chế quyền căn bản của công dân phải
được xem là vi hiến. Như vậy, không thể đối xử như nhau trong cùng một
vấn đề đối với những người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì các
tội danh khác nhau. Đối với người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
ngoài những hạn chế quyền công dân nói trên, một người cân nhắc cẩn
trọng sẽ nhận thấy chỉ có lý do để hạn chế các quyền thành lập và quản
lý doanh nghiệp của người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì một
tội danh mà việc phạm tội có thể dẫn đến hậu quả bị Tòa án cấm hành nghề
kinh doanh có thời hạn hoặc vô thời hạn. Quy định như vậy có tác dụng
hạn chế tạm thời, bởi vì nếu người đó không bị kết án hoặc bị kết án
nhưng không đồng thời bị cấm hành nghề kinh doanh thì quyền thành lập và
quản lý doanh nghiệp được khôi phục. Và sự hạn chế tạm thời này là có
thể được xem là hợp hiến với tư cách là biện pháp dự liệu trường hợp
người đó bị kết án và Tòa án tuyên cấm hành nghề kinh doanh.
Mặc dù Điều 72 Hiến pháp nằm trong chương “Quyền và
nghĩa vụ của công dân”, nhưng quy định của nó không chỉ nhằm vào công
dân Việt Nam bởi cụm từ “không ai bị coi là có tội”. Khi đặt nguyên văn
nội dung Điều 72 Hiến pháp vào Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự thì căn
cứ vào đối tượng áp dụng của luật này thì “không ai” ở đây được hiểu là
“bất kỳ ai”, như vậy có thể là công dân Việt Nam, công dân nước ngoài
hay người không quốc tịch bị truy cứu trách nhiệm hình sự trên lãnh thổ
Việt Nam. Như vậy, Luật Doanh nghiệp thống nhất có thể quy định như kiến
nghị trên mà không phân biệt người bị truy cứu trách nhiệm hình sự là
công dân Việt Nam, công dân nước ngoài hay người không quốc tịch.
4. Về tên doanh nghiệp:
Bình luận: Từ hàng loạt
vướng mắc phát sinh liên quan đến tên doanh nghiệp trong quá trình áp
dụng LDN 1999, Chính phủ đã có những cố gắng cụ thể hóa các quy định về
tên, đặc biệt về vấn đề “tên trùng” và “tên gây nhầm lẫn” bởi các quy
định tại Nghị định 109/2004/NĐ-CP ngày 02/4/2004 về đăng ký kinh doanh.
Các quy định về tên doanh nghiệp trong Nghị định này tỏ ra hợp lý và căn
bản được tiếp thu trong Dự thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất.
Bên cạnh đó Dự thảo đã bổ sung một quy định về việc
sử dụng tên tại khoản 3 Điều 28 như sau: “Tên doanh nghiệp phải được
viết hoặc gắn tại địa chỉ trụ sở chính, địa chỉ chi nhánh, văn phòng đại
diện của doanh nghiệp. Tên doanh nghiệp phải được in hoặc viết trên tất
cả các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp
phát hành”. Điều này là cần thiết và quy định như vậy là hợp lý.
Tuy nhiên, việc sử dụng các khái niệm “tên doanh
nghiệp”, “tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp”, “tên bằng tiếng nước
ngoài của doanh nghiệp” và “tên viết tắt của doanh nghiệp” cũng làm nảy
sinh một số vấn đề.
Kiến nghị: Bổ sung vào Điều 30 một khoản 3 như sau: “3.
Tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp có thể được in hoặc viết với
khổ chữ nhỏ hơn dưới tên bằng tiếng Việt của doanh nghiệp tại các cơ sở
hoặc trên giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp
phát hành theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Luật này”.
Lập luận: Quy định tại Điều
28 Dự thảo cho thấy “tên doanh nghiệp” chính là “tên viết bằng tiếng
Việt của doanh nghiệp”, còn “tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp”
chỉ là sự dịch tên, không phải là loại tên chính thức. Khoản 3 Điều 28
cũng quy định bắt buộc về việc sử dụng tên doanh nghiệp là tên viết bằng
tiếng Việt của doanh nghiệp. Quy định như vậy và được hiểu như vậy là
hợp lý.
Tuy nhiên bên cạnh quy định về tên doanh nghiệp (tên
viết bằng tiếng Việt của doanh nghiệp), Dự thảo cũng quy định về “tên
viết bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp”, vậy thì một quy định về
việc sử dụng nó là điều cần thiết.
Quy định “Tên bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp
có thể được in hoặc viết với khổ chữ nhỏ hơn dưới tên bằng tiếng Việt
của doanh nghiệp” là hợp lý, bởi các lý do như sau: Thứ nhất,
như đã nói trên, chỉ có “tên viết bằng tiếng Việt của doanh nghiệp” mới
là tên (chính thức) của doanh nghiệp; “tên viết bằng tiếng nước ngoài
của doanh nghiệp” chỉ là sự dịch tên. Việc chỉ cho phép viết “tên viết
bằng tiếng nước ngoài của doanh nghiệp” với khổ chữ nhỏ hơn dưới “tên
viết bằng tiếng Việt của doanh nghiệp” là hình thức giúp thể hiện điều
đó.
Thứ hai, việc quy định như vậy tạo một cơ sở
pháp lý rõ ràng làm căn cứ để chấn chỉnh hiện tượng làm dụng tiếng nước
ngoài tràn lan hiện nay ở nước ta trong việc viết tên doanh nghiệp. Ở
nhiều nước, trước hết là các nước nói tiếng Pháp, Đức, Tây Ban Nha, các
biện pháp tương tự cũng được áp dụng nhằm bảo vệ ngôn ngữ của họ.
5. Về Điều 37 Dự thảo:
Bình luận: Điều 37 Dự thảo
được xây dựng trên cơ sở phát triển các quy định tại Điều 27 LDN 1999.
Việc so sánh nội dung hai điều khoản này cho phép rút ra nhận định như
sau: Trong khi các quy định tại Điều 27 LDN 1999 chủ yếu nhằm mục đích
bảo vệ quyền lợi công ty và quyền lợi của các bên thứ ba (đối tác của
công ty), thì các quy định tại Điều 37 Dự thảo thiên về việc “siết chặt”
hơn quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Điều đó đã dẫn đến việc một
biện pháp quan trọng được quy định tại khoản 1 Điều 27 LDN 1999 đã bị
lược bỏ một cách bất hợp lý.
Kiến nghị: Điều 37 Dự thảo cần được sửa lại như sau:
1. Thành viên phải góp vốn đầy đủ, đúng hạn bằng loại
tài sản góp vốn như đã cam kết trong danh sách thành viên đã đăng ký.
Trường hợp thành viên thay đổi loại tài sản góp vốn đã đăng ký, thì phải
được sự nhất trí của tất cả các thành viên còn lại; và công ty phải
thông báo bằng văn bản nội dung thay đổi đó đến cơ quan đăng ký kinh
doanh trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày chấp thuận sự thay đổi.
2. Trường hợp có thành viên không góp đầy đủ và đúng
hạn số vốn đã cam kết, thì số vốn chưa góp được coi là nợ của thành viên
đó đối với công ty; thành viên đó phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại phát sinh do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết.
Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thông
báo bằng văn bản về trường hợp nói tại đoạn 1 khoản này cho cơ quan đăng
ký kinh doanh trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ thời điểm cam kết góp
vốn; sau thời hạn này, nếu không có thông báo bằng văn bản đến cơ quan
đăng ký kinh doanh, thì thành viên chưa góp đủ vốn và người đại diện
theo pháp luật của công ty phải cùng liên đới chịu trách nhiệm đối với
công ty về phần vốn chưa góp và các thiệt hại phát sinh do không góp đủ
và đúng hạn số vốn đã cam kết.
3. (Giữ nguyên như Dự thảo)
4. (Giữ nguyên như Dự thảo)
Lập luận: Khoản 1 Điều 37
Dự thảo có thể giữ nguyên, bởi vì một mặt các quy định đó kế thừa quy
định tại khoản 1 Điều 27 LDN 1999 về nghĩa vụ góp vốn đầy đủ và đúng hạn
như đã cam kết, là một giải pháp tốt đã được chọn lựa khi soạn thảo
luật này. Khoản 1 Điều 37 chỉ yêu cầu thêm là nghĩa vụ góp vốn phải thưc
hiện bằng loại tài sản góp vốn như đã cam kết. Yêu cầu đó là hợp lý,
cũng như yêu cầu về việc phải thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh
biết về một thỏa thuận thay đổi loại tài sản góp vốn đã đăng ký. Tuy
nhiên đoan 2 (mới) và đoạn 3 (sửa đổi) khoản 1 Điều 37 Dự thảo cần được
lược bỏ. Bởi vì quy định “người đại diện theo pháp luật của công ty phải
thông báo bằng văn bản tiến độ góp vốn đăng ký tại Danh sách thành viên
đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 15 ngày kể từ thời hạn
cam kết góp vốn của từng đợt” nhằm mục đích “quản lý nhà nước” hơn là
bảo vệ chính công ty, các thành viên và đối tác (chủ nợ) của công ty.
Quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật Doanh 1999 nghiệp tỏ ra phù hợp trong
việc bảo vệ lợi ích công ty và đối tác của công ty, bởi vì người đại
diện theo pháp luật của công ty chỉ phải thông báo cho cơ quan đăng ký
kinh doanh trong trường hợp “có thành viên không góp đầy đủ và đúng hạn
số vốn đã cam kết”. Trong khi đó theo quy định tại khoản 1 Điều 37 Dự
thảo thì việc thông báo phải được thực hiện trong thời hạn 15 ngày kể từ
thời hạn cam kết góp vốn của từng đợt, bất kể việc góp vốn có được thực
hiện đúng như cam kết hay không. Hiệu quả quản lý nhà nước không hề
được nâng cao bởi yêu cầu này vì chỉ tạo thêm công việc mà không sử dụng
các thông tin đó vào việc nào khác. Các quy định tại các Điều 20, 21,
22 cho thấy thông tin này không thuộc “nội dung đăng ký kinh doanh” và
như vậy cơ quan đăng ký kinh doanh không có nghĩa vụ (và cũng không có
quyền) cung cấp thông tin này cho theo yêu cầu của tổ chức hay cá nhân.
Nội dung khoản 2 Điều 27 LDN 1999 cần được giữ nguyên
và trở thành nội dung của khoản 2 Điều 37 Dự thảo. Quy định như khoản 2
Điều 27 LDN 1999 một mặt là nhằm bảo vệ lợi ích của công ty, mặt khác
là bảo vệ lợi ích của các chủ nợ của công ty. Bởi vì khi một thành viên
không góp đúng và đủ vốn như cam kết có thể làm công ty không có phương
tiện tài chính để nắm bắt một cơ hội kinh doanh, hoặc thực hiện một
nghĩa vụ hợp đồng. Thiệt hại có thể xảy ra dưới nhiều hình thức khác
nhau, như khoản tiền phải bồi thường do vi phạm hợp đồng, lãi suất tín
dụng phải trả v.v.. Thành viên đó phải chịu trách nhiệm đối với những
thiệt hại. Trường hợp có thành viên không góp đúng và đủ vốn như đã cam
kết, người đại diện theo pháp luật của công ty phải liên đới chịu trách
nhiệm đối với thiệt hại xảy ra, nếu người đó không thông báo cho cơ quan
đăng ký kinh doanh trong thời hạn 30 ngày.
Như vậy, quy định tại khoản 2 Điều 27 LDN 1999 tỏ ra
hợp lý vì bảo vệ được các lợi ích cần được bảo vệ và quy trách nhiệm cho
người đáng phải chịu trách nhiệm. Trong khi đó khoản 2 Điều 37 Dự thảo
chỉ ghi nhận sự hiển nhiên là “số vốn chưa góp được coi là nợ của thành
viên đó đối với công ty” mà không quy định hậu quả của việc không góp
đúng và đủ vốn như đã cam kết. Thay vì điều đó, khoản 2 Điều 37 Dự thảo
còn quy định “nếu sau thời hạn cam kết lần cuối mà vẫn chưa góp đủ tổng
số vốn đã cam kết, thì tất cả các thành viên cùng liên đới chịu trách
nhiệm góp bù cho đủ số vốn đã cam kết góp đảm bảo công ty có đủ vốn đã
đăng ký”. Quy định như vậy vô hình chung bỏ qua trách nhiệm bôi thường
thiệt hại của thành viên vi phạm nghĩa vụ góp vốn, buộc các thành viên
không vi phạm chịu trách nhiệm liên đới. Bên cạnh đó, quy định như vậy
cũng còn không phù hợp với chế độ trách nhiệm hữu hạn của thành viên
công ty TNHH như quy định tại điểm a khoản 1 Điều 36 Dự thảo. Áp dụng
công cụ pháp lý “phá hạn trách nhiệm” trong trường hợp này cũng không
phù hợp.
Bởi vậy cần tiếp nhận quy định như khoản 2 Điều 27 vào Dự thảo.
6. Về điểm g khoản 1 Điều 39 Dự thảo:
Điểm g khoản 1 Điều 39 Dự thảo được quy định như sau:
1. Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn có quyền:
g) Khởi kiện Giám đốc (Tổng giám đốc) khi Giám đốc (Tổng giám đốc) không
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, gây thiệt hại đến lợi ích của thành viên đó.
Kiến nghị sửa đổi: Đoạn cuối điểm g khoản 1 Điều 39 dự thảo nên được sửa lại là: “…,
gây thiệt hại đến lợi ích của thành viên đó hoặc lợi ích công ty”.
Lập luân: Việc LDN 1999 bổ
sung quyền của thành viên công ty TNHH được khởi kiện Giám đốc (Tổng
giám đốc) trong trường hợp người ngày vi phạm nghĩa vụ và gây thiệt hại
đến lợi ích của thành viên đó là kết quả của nhận thức rằng, kể cả trong
loại công ty này cũng tồn tại các nhóm lợi ích khác nhau. Bên cạnh đó,
quy định này cũng phù hợp với xu hướng trong quản trị công ty hiện đại,
đặc biệt là việc Giám đốc công ty không còn nhất thiết phải là thành
viên công ty, mà có thể là một nhà quản trị doanh nghiệp chuyên nghiệp,
được thuê làm giám đốc mà không đồng thời có vốn góp vào công ty. Trường
hợp này luôn tiềm ẩn khả năng không hoàn toàn tương đồng giữa lợi ích
của Giám đốc với lợi ích của công ty hoặc với lợi ích của một hoặc một
nhóm thành viên. Bởi vậy việc LDN 1999 trao cho thành viên quyền khởi
kiện giám đốc đã là một tiến bộ đáng kể so với Luật Công ty 1990.
Tuy nhiên, ngay lập luận trên cũng đã cho thấy quy
định như vậy là chưa đủ và Luật Doanh nghiệp thống nhất cần phải bổ sung
quyền khởi kiện của một thành viên cả trong trường hợp giám đốc vi phạm
nghĩa vụ, tuy không trực tiếp gây thiệt hại đến lợi ích của thành viên
đó, nhưng gây thiệt hại đến lợi ích chung của công ty. Mặc dù người ta
có thể cho rằng, một khi đã vi phạm đến lợi ích của công ty thì cũng có
nghĩa là vi phạm đến lợi ích của từng thành viên, nhưng thực tế không
luôn luôn xảy ra như vậy. Cũng có trường hợp giám đốc vi phạm nghĩa vụ,
gây thiệt hại đến lợi ích chung của công ty, nhưng trong đó vẫn có thành
viên được hưởng lợi. Ngay trong trường hợp như vậy vẫn có thể xảy ra
trường hợp (các) thành viên chịu thiệt hại lại không khởi kiện vì một lý
do nào đấy, còn thành viên được hưởng lợi lại muốn khởi kiện nhưng
không được vì không bị thiệt hại, trừ phi chính thành viên đó hưởng lợi
từ giao dịch tư lợi với công ty, là loại giao dịch đã được LDN 1999 hạn
chế bằng quy định tại Điều 42. Nói một cách dễ hiểu, có thể xảy ra
trường hợp giám đốc sẽ “mua” quyền khởi kiện của một thành viên bằng một
lợi ích nào đó dành cho thành viên này. Luật mới cần loại bỏ trường hợp
này.
Bên cạnh đó, kiến nghị này còn được củng cố bởi sự
tồn tại quy định tương tự trong luật pháp doanh nghiệp nhiều nước Châu
Âu lục địa đã tiếp thu công cụ pháp lý gọi la “actio pro socio” từ Luật
La Mã. Trong ngữ cảnh này “actio pro socio” được hiểu là quyền khởi kiện
vì lợi ích công ty. Theo đó một thành viên không chịu thiệt hại từ một
hành vi của người quản lý công ty vẫn có thể khởi kiện người đó vì lợi
ích của công ty.
7. Về khoản 3 Điều 41 Dự thảo:
Khoản 3 Điều 41 Dự thảo quy định như sau: “3.
Nếu công ty không mua lại phần góp vốn như qui định tại khoản 2 Điều
này thì thành viên đó có quyền tự do chuyển nhượng phần góp vốn của mình
tại công ty cho người khác”.
Kiến nghị sửa đổi: Nếu để
nguyên quy định tại khoản 1 và 2 thì khoản 3 cần được sửa lại như sau:
“Nếu sau 30 ngày kể từ ngày tiếp theo ngày kết thúc thời hạn nêu tại
khoản 2 điều này mà công ty không thanh toán được phần vốn góp được mua
lại thì thành viên đó có quyền tự do chuyển nhượng phần góp vốn của mình
tại công ty cho người khác. Công ty vẫn có nghĩa vụ thanh toán nếu
thành viên không thực hiện quyền chuyển nhượng này”.
Lập luận: Quy định tại
khoản 3 không lôgíc với khoản 1 và 2, vì như vậy quyền của thành viên
không tương ứng với nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra có thể xảy ra tình
huống bất hợp lý: Công ty thực hiện nghĩa vụ mua lại (chẳng hạn dưới
hình thức quyết định mua lại của Hội đồng thành viên) trong thời hạn 15
ngày như quy định nhưng không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán. Trong
trường hợp đó thành viên bị “cầm chân” và không thực hiện được quyền của
mình trên thực tế. Thành viên này có thể rút khỏi công ty bằng cách
chuyển nhượng phần vốn góp nhưng vẫn phải ưu tiên cho các thành viên
khác theo quy định tại Điều 40 Dự thảo. Như vậy quy định tại khoản 3 sẽ
không được áp dụng.
Tính lôgíc chỉ được đảm bảo khi quy định có cấu trúc
nội dung như sau: Thành viên có quyền yêu cầu thì công ty có nghĩa vụ
thực hiện, chỉ khi công ty không thực hiện được nghĩa vụ bởi lý do khách
quan (không thực hiện nghĩa vụ thanh toán bởi không đáp ứng được điều
kiện thanh toán), thì thành viên có quyền bảo vệ quyền lợi của mình bằng
một biện pháp khác.
8. Về đoạn 1 Điều 44 Dự thảo:
Đoạn 1 Điều 44 Dự thảo quy định như sau: “Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên phải có:
Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc (Tổng giám
đốc). Công ty trách nhiệm hữu hạn có trên mười một thành viên phải có
Ban kiểm soát; trong các trường hợp khác, việc thiết lập Ban kiểm soát
trong cơ cấu quản lý công ty do các thành viên tự quyết định. Quyền,
nghĩa vụ, tiêu chuẩn và chế độ làm việc của Ban kiểm soát, Trưởng ban
kiểm soát do Điều lệ công ty quy định”.
Kiến nghị sửa đổi: “Trong
cơ cấu tổ chức của công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên
phải có Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc
(Tổng giám đốc); Công ty trách nhiệm hữu hạn có trên mười một thành viên
phải có Ban kiểm soát. Công ty trách nhiệm hữu có hai thành viên trở
lên có thể thiết lập các loại cơ quan khác phù hợp với yêu cầu quản trị
của công ty. Trong trường hợp đó Điều lệ công ty quy định cụ thể quyền
hạn và nhiệm vụ của các cơ quan này. Điều lệ công ty có thể trao cho các
cơ quan này một số quyền hạn và nhiệm vụ của các cơ quan bắt buộc phải
có”.
Lập luận: Về mặt ngôn ngữ,
việc sử dụng cụm từ “phải có” trong quy định tại Điều 44 Dự thảo cho
phép hiểu rằng, ngoài những cơ quan công ty được nêu ở đó, công ty có
thể có các cơ quan khác, tùy theo nhu cầu cụ thể của từng công ty. Tuy
nhiên có hai lý do cho thấy Ban soạn thảo không “nghĩ” như vậy:
Thứ nhất, khi quy định “công ty TNHH có trên
11 thành viên phải có Ban kiểm soát”, câu hai điều này còn có vế câu
“trong các trường hợp khác, việc thiết lập Ban kiểm soát trong cơ cấu
quản lý công ty do các thành viên tự quyết định”. Điều đó thể hiện rõ
việc cho phép công ty TNHH có từ 11 thành viên trở xuống có thể có Ban
kiểm soát nếu có nhu cầu. Một vế câu như vậy không có ở câu thứ nhất.
Thứ hai, các quy định tiếp theo về tổ chức quản lý công ty TNHH cho thấy “không còn chỗ” cho một cơ quan công ty nào khác.
Bởi vậy, nếu Ban soạn thảo thực sự muốn rằng, ngoài
Hội đồng thành viên, Chủ tịch hội đồng thành viên, Giám đốc (Tổng giám
đốc) và Ban kiểm soát bắt buộc phải có trong trường hợp công ty có trên
11 thành viên và có thể có trong trường hợp khác thì công ty TNHH không
được có các cơ quan công ty khác, thì không được sử dụng cụm từ “phải
có” ở quy định này. Thay vì quy định như trên có thể quy định như sau: “Cơ
cấu tổ chức của công ty TNHH gồm có Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội
đồng thành viên, Giám đốc (Tổng giám đốc); Công ty trách nhiệm hữu hạn
có trên mười một thành viên còn có Ban kiểm soát; trong các trường hợp
khác, việc thiết lập Ban kiểm soát trong cơ cấu quản lý công ty do các
thành viên tự quyết định”.
Tuy nhiên, việc quy định như vậy tỏ ra không phù hợp
với chủ trương vốn đã từng được khởi xướng trong quá trình soạn thảo LDN
1999 là Luật chỉ quy định những yêu cầu tối thiểu, còn ngoài ra doanh
nghiệp có thể lựa chọn cơ cấu tổ chức phù hợp với nhu cầu quản trị doanh
nghiệp“ (Tham khảo: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương: Đánh giá tổng kết Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân và Nghị định 66/HĐBT ngày 02.03.1992, Hà Nội 4/1999).
Ngay Dự thảo lần này cũng đã thể hiện rõ hơn việc
công ty TNHH có 11 thành viên trở xuông có thể thiết lập Ban kiểm soát.
Bên cạnh đó, cần phải nhìn nhận rằng, trong thực tiễn công ty TNHH có
hai thành viên trở lên cũng tồn tại nhu cầu thiết lập các cơ quan công
ty khác như Hội đồng quản trị, đặc biệt là ở cac công ty có số lượng
thành viên tương đối lớn. Ở một công ty TNHH có số lượng thành viên
tương đối lớn như từ 30 thành viên trở lên rõ ràng không phải thành viên
nào cũng có nhu cầu và khả năng trực tiếp tham gia quan lý công ty.
Thậm chí ở một công ty như vậy tồn tại nhu cầu trao quyền quản lý cho
một nhóm nhỏ thành viên. Để thực hiện điều đó việc thiết lập một Hội
đồng quản trị là giải pháp phù hợp. Luật mới cần cho phép điều này hoặc
khẳng định điều này bằng một quy định như kiến nghị trên.
9. Về Công ty TNHH 1 thành viên:
Bình luận: Các quy định về
loại công ty TNHH một thành viên trong Dự thảo này đã thể hiện được hai
điểm mới có tính chất đột phá, đó là việc cho phép một cá nhân được
thành lập loại công ty này và việc áp dụng cơ chế quản lý tập trung đối
với loại công ty này.
Vấn đề cho phép một cá nhân được thành lập loại công
ty TNHH một thành viên đã được đông đảo giới chuyên môn và doanh nhân
yêu cầu với nhiều lý lẽ xác đáng và cuối cùng đã được Ban soạn thảo tiếp
thu. Giải pháp này cần tiếp tục được ủng hộ để trở thành hiện thực lập
pháp.
Nhưng có lẽ mang tính đột pháp hơn cả là việc chọn
giải pháp “quản lý tập trung” đối với loại công ty này. Trong cơ chế này
không còn có sự quản lý từ bên ngoài nữa. Quyền và nghĩa vụ của chủ sở
hữu là tổ chức được thực hiện bởi những người đại diện theo ủy quyền.
(Những) người đại diện theo ủy quyền hoặc là Chủ tịch công ty hoặc hợp
thành Hội đồng thành viên công ty, có nghĩa là nằm trong cơ cấu tổ chức
của công ty. Giải pháp này cho phép Chủ tịch công ty hay Hội đồng thành
viên công ty TNHH một thành viên mà chủ sở hữu là một tổ chức có thẩm
quyền như Hội đồng thành viên của công ty TNHH 2 đến 50 thành viên, chứ
không phải như Chủ tịch công ty hay Hội đồng quản trị như theo LDN 1999
nữa.
Tuy nhiên cũng còn cần bàn luận thêm về một số quy
định cụ thể trong Dự thảo đối với loại công ty này, như trình bày trong
các kiến nghị tiếp theo đây.
10. Về câu 2 khoản 1 Điều 68 Dự thảo:
Câu 2 khoản 1 Điều 68 Dự thảo quy định: “Người
đại diện theo pháp luật của công ty phải gửi dự thảo hợp đồng cho người
đại diện theo ủy quyền và kiểm soát viên; đồng thời, niêm yết dự thảo
hợp đồng đó tại trụ sở chính và các chi nhánh của công ty tại một vị trí
va theo cách mà bất cứ ai có quan tâm đều tiếp cận được”.
Kiến nghị: Cần lược bỏ vế
câu: “đồng thời, niêm yết dự thảo hợp đồng đó tại trụ sở chính và các
chi nhánh của công ty tại một vị trí và theo cách mà bất cứ ai có quan
tâm đều tiếp cận được”.
Lập luận: Quy định tại
khoản 1 Điều 68 Dự thảo nhằm hạn chế hoặc loại trừ các giao dịch có tính
chất tư lợi, qua đó không chỉ bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu công ty,
lợi ích của chính công ty, mà còn bảo vệ lợi ích chủ nợ của công ty cũng
như lợi ích Nhà nước.
Tuy nhiên, việc hạn chế hoặc loại trừ các giao dịch
có tính chất tư lợi có thể thực hiện được thông qua cơ chế kiểm soát
trong nội bộ công ty dưới hình thức phải được đại diện ủy quyền, giám
đốc và kiểm soát viên xem xét và chấp thuận. Yêu cầu “người đại diện
theo pháp luật của công ty phải gửi dự thảo hợp đồng cho người đại diện
theo ủy quyền và kiểm soát viên” là đủ để thực hiện điều này. Còn yêu
cầu “đồng thời, niêm yết dự thảo hợp đồng đó tại trụ sở chính và các chi
nhánh của công ty tại một vị trí và theo cách mà bất cứ ai có quan tâm
đều tiếp cận được” là không cần thiết và lại co thể làm ảnh hưởng đến bí
mật kinh doanh của công ty.
11. Về khoản 1 Điều 69 Dự thảo:
Khoản 1 Điều 69 quy định: “1.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chỉ giảm vốn điều lệ, nếu
được sự chấp thuận của Cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền”.
Kiến nghị: Khoản 1 Điều 69
cần được sửa lại là: “Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chỉ
được giảm vốn điều lệ, nếu ngay sau khi giảm vốn điều lệ công ty vẫn bảo
đảm thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác. Trường hợp
giảm vốn điều lệ mà không đảm bảo điều kiện này thì chủ sở hữu phải
liên đới chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của công ty”.
Lập luận: Quy định như
khoản 1 Điều 69 Dự thảo là không hợp lý, khi yêu cầu việc giảm vốn điều
lệ phải được cơ quan đăng ký kinh doanh chấp thuận, nhưng lại không quy
định các điều kiện cho việc chấp thuận hay không chấp thuận. Như vậy, cơ
quan đăng ký kinh doanh sẽ phải ra quyết định trên cơ sở các tiêu chí
nào?
Phải thừa nhận rằng đằng sau biện pháp “siết chặt
quản lý nhà nước” này trong Dự thảo so với các quy định của LDN 1999 là
việc mở rộng đối tượng áp dụng của luật mới sang cả nhà đầu tư nước
ngoài. Trong chừng mực đó, sự lo ngại nhìn từ góc độ quản lý nhà nước là
điều có thể chia sẻ. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh, doanh nhân
luôn phải tự bảo vệ mình bằng cách tìm hiểu kỹ càng đối tác. Cơ chế tự
chịu trách nhiệm tỏ ra phù hợp hơn cơ chế tiền kiểm của nhà nước, bởi nó
giúp tiết kiệm chi phí cho cả doanh nghiệp lẫn nhà nước.
Việc kiểm soát biện pháp giảm vốn điều lệ cuối cùng
la nhằm bảo vệ lợi ích của chủ nợ công ty, vậy kiến nghị sửa đổi như
trên với việc quy định trách nhiệm liên đới của chủ sở hữu là đủ để bảo
vệ lợi ích chủ nợ mà không làm phát sinh chi phí cho doanh nghiệp và Nhà
nước.
Chú thích:
1 Bài viết này nhăm vào Dự thảo Luật Doanh nghiệp (thống nhất) đề ngày 07/7/2005, đăng tải trên www.vibonline.com.vn
2 Tham khảo quan điểm tương tự: Nguyễn Như Phát,
Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, sô 7/2005, tr. 24.
3 Về toàn bộ vấn đề này có thể tham khảo thêm các
lập luận đầy đủ và chi tiết tại bài viết “Bàn về phạm vi năng lực pháp
luật của pháp nhân kinh doanh” của tác giả đăng trên Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 5/2005, tr. 54-59.
Các bài viết có liên quan: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/?s=%22s%E1%BB%9F+h%E1%BB%AFu+nh%C3%A0+n%C6%B0%E1%BB%9Bc%22
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2005
0 comments:
Post a Comment