QUỲNH NGA – Học viên cao học – Khoa Luật – ĐH Quốc gia HN
Sau
hơn 5 năm đi vào thực tiễn, Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 (LKDBH), nghị
định số 42/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 quy định chi tiết một số điều của
LKDBH, nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 quy định chế độ tài
chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm,
và các văn bản hướng dẫn thi hành LKDBH đã phát huy vai trò vô cùng quan
trọng trong việc góp phần tạo lập hành lang pháp lý đồng bộ, thống
nhất, thúc đẩy và đảm bảo cho sự phát triển chung của thị trường bảo
hiểm.
Bên
cạnh những ưu điểm đó, LKDBH, nghị định 42 và 43 cũng đã bộc lộ không
ít bất cập cần thiết phải sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện đặc biệt là
trong giai đoạn Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO và xu hướng cải cách pháp
luật đang diễn ra mạnh mẽ ở nước ta như hiện nay. Thực hiện Chương
trình xây dựng pháp luật năm 2006 của Chính phủ, trong thời gian này, Bộ
Tài chính đã tiến hành dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung nghị định 42
và 43 dựa trên các nguyên tắc: tạo môi trường pháp lý, kinh doanh bình
đẳng, đổi mới phương thức quản lý, đơn giản hoá thủ tục hành chính, đảm
bảo sự phù hợp với hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành có liên
quan, cụ thể hóa các cam kết hội nhập quốc tế. Ngoài ra, theo chúng tôi
việc sửa đổi các nghị định này cũng cần đảm bảo nguyên tắc: cụ thể hoá
các quy định trong LKDBH, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bên mua bảo
hiểm và người thứ ba, tăng cường sự kiểm soát các giao dịch bảo hiểm
của Nhà nước bằng pháp luật.
Sau khi nghiên cứu dự thảo các Nghị định mới, chúng tôi xin có một vài bình luận và kiến nghị như sau sau:
1.
Bình luận chung: Về mặt tổng quan, dự thảo hai nghị định mới ít nhiều
đã phát huy được các nguyên tắc sửa đổi, bổ sung nói trên, khắc phục
được những điểm bất cập và cụ thể hóa hơn các quy định trong nghị định
42 và 43, thể hiện sự tiến bộ trong quy trình lập pháp và bước tiến lớn
trong chế độ quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm,
chẳng hạn như:
-
Bỏ quy định tại Điều 7 và Điều 43 Nghị định 42 về lệ phí cấp giấy phép
thành lập và họat động của doanh nghiệp bảo hiểm vì theo quy định của
Pháp lệnh phí và lệ phí thì những vấn đề này được quy định trong một
nghị định riêng của Chính phủ;
-
Bổ sung quy định về điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động
doanh nghiệp bảo hiểm, và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm theo các nhóm
điều kiện quy định tại Điều 63 Luật kinh doanh bảo hiểm đồng thời quy
định thêm các tiêu chuẩn đối với các tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn
(xem Điều 6 dự thảo nghị định sửa đổi nghị định 42);
-
Quy định về chuyên gia tính toán được chỉ định đã được quy định tại
thông tư 98/2004/TT-BTC (xem Điều 13 dự thảo nghị định sửa đổi nghị định
42);
-
Bỏ quy định tái bảo hiểm bắt buộc, nhượng tái bảo hiểm tại Điều 22 và
Điều 23 nghị định 42 vì quy định này đã không phù hợp với cam kết tại
Hiệp định thương mại Việt Mỹ (bỏ tái bảo hiểm bắt buộc từ ngày
10/12/2006);
-
Tạo sự bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài bằng việc bãi bỏ quy định tỷ lệ góp vốn trong doanh
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh tại Điều 38
nghị định 42;
-
Tăng cường quản lý rủi ro của Nhà nước và đảm bảo khả năng thanh toán,
quy mô hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm thông qua việc tăng vốn
pháp định (xem Điều 4 dự thảo nghị định sửa đổi nghị định 43).
Tuy
nhiên, dự thảo các nghị định mới vẫn còn một số điểm hạn chế ở chỗ:
thiếu quy định chi tiết các nội dung quan trọng của LKDBH đặc biệt là
quy định về việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm, và quy định về
việc kiểm soát giao dịch bảo hiểm, một vài quy định còn chưa phù hợp
với thực tế cũng như các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan mà
theo chúng tôi, Bộ Tài chính cần xem xét và tiếp tục hoàn thiện:
Thứ
nhất , việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm là vấn đề vô cùng
quan trọng. Tuy vậy, vấn đề này mới chỉ được quy định rất cơ bản trong
LKDBH trong khi đó cả nghị định 42 và dự thảo nghị định mới vẫn không có
những quy định chi tiết, rõ ràng và cụ thể. Vì vậy, việc áp dụng các
quy định của LKDBH trong giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo
hiểm là vấn đề hết sức phức tạp. Chúng tôi xin nêu ra một vài quy định
quan trọng trong LKDBH cần được cụ thể hóa trong nghị định mới như sau:
-
Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, việc quy định quyền lợi có thể được
bảo hiểm trong LKDBH có sự không thống nhất ở chỗ: khoản 9 Điều 3 quy
định quyền lợi có thể được bảo hiểm là “quyền, nghĩa vụ, nuôi dưỡng, cấp
dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm”;
-
quy định này có thể hiểu bên mua bảo hiểm chỉ cần có quan hệ nuôi dưỡng
hoặc cấp dưỡng đối với người được bảo hiểm là có quyền lợi có thể được
bảo hiểm; nhưng khoản 2 Điều 31 lại quy định ngoài bản thân và những
người thân thuộc (vợ, chồng, con, cha, mẹ, anh, chị, em ruột của bên mua
bảo hiểm) bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho “người có quan
hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng”. Tuy nhiên, theo Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 thì điều kiện phát sinh, quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng
là khác nhau thậm chí sự tồn tại của chúng loại trừ nhau. Vì vậy, vấn đề
này rất cần có văn bản dưới luật hướng dẫn cho phù hợp hơn với Luật hôn
nhân và gia đình.
-
Hiện tại LKDBH quy định “doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình
chỉ thực hiện hợp đồng và thu phí đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp
đồng bảo hiểm nếu bên mua bảo hiểm có hành vi cố ý cung cấp thông tin
sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm
hoặc được bồi thường” (điểm a khoản 2 Điều 19) và quy định “hợp đồng bảo
hiểm vô hiệu trong trường hợp bên mua bảo hiểm có hành vi lừa dối khi
giao kết hợp đồng bảo hiểm” (điểm d khoản 1 Điều 22). Do không quy định
rõ ràng trong việc áp dụng hai điều luật trên vì về bản chất cố ý cung
cấp thông tin sai sự thật cũng là một loại hành vi lừa dối nên trên thực
tế nhiều vụ tranh chấp xảy ra, doanh nghiệp đã có đầy đủ bằng chứng
chứng minh bên mua bảo hiểm có hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự
thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để áp dụng Điều 19 nhưng Tòa án vẫn
áp dụng Điều 22 tuyên hợp đồng vô hiệu.
-
LKDBH chỉ quy định chung việc chuyển nhượng tất cả các loại hợp đồng
bảo hiểm tại Điều 26 như sau: “1. Bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng
hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 2. Việc
chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực trong trường hợp bên mua
bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc
chuyển nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận về việc
chuyển nhượng đó, trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo
tập quán quốc tế”. Quy định này rõ ràng còn rất khái quát đặc biệt là
đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ – việc chuyển nhượng hợp đồng này có
nhiều vấn đề nảy sinh cần pháp luật quy định, chẳng hạn: điều kiện đối
với người nhận chuyển nhượng như thế nào? Người nhận chuyển nhượng có
cần phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm với người được bảo hiểm hay
không? Việc chuyển nhượng có cần sự đồng ý của người được bảo hiểm hay
không? Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm như thế nào trong việc chấp
nhận chuyển nhượng của bên mua bảo hiểm? Bên mua bảo hiểm còn trách
nhiệm gì đối với hợp đồng bảo hiểm sau khi hợp đồng bảo hiểm đã được
chuyển nhượng không? Giả sử, việc chuyển nhượng hợp đồng là không hợp
pháp trong khi doanh nghiệp bảo hiểm lại đồng ý chuyển nhượng và sự kiện
bảo hiểm xảy ra sau khi hợp đồng đã được chuyển nhượng, vậy quyền lợi
và trách nhiệm của các bên trong quan hệ hợp đồng này (bên mua bảo hiểm,
doanh nghiệp bảo hiểm, người nhận chuyển nhượng, người thụ hưởng) sẽ
được xác định như thế nào?… Rõ ràng, đây là những vấn đề quan trọng
nhưng LKDBH và các nghị định đã bỏ ngỏ, do vậy khi có tranh chấp phát
sinh không có cơ sở pháp lý để giải quyết.
-
Về việc trả tiền bảo hiểm con người khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, LKDBH
chỉ quy định “trong trường hợp một số người thụ hưởng cố ý gây ra cái
chết cho người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải trả tiền
bảo hiểm cho những người thụ hưởng khác theo thỏa thuận trong hợp đồng
bảo hiểm” mà không đề cập rõ những nội dung sau: người thụ hưởng khác có
được hưởng trọng vẹn hay chỉ được hưởng một phần số tiễn bảo hiểm và
nếu trong hợp đồng không xác định rõ số tiền/tỷ lệ tiền bảo từng người
thụ hưởng được nhận thì phải giải quyết ra sao; trường hợp bên mua bảo
hiểm chỉ định một người thụ hưởng mà ngươì thụ hưởng này cố ý gây ra cái
chết cho người được bảo hiểm thì giải quyết như thế nào? Những người
thừa kế hợp pháp của người được bảo hiểm có được hưởng số tiền bảo hiểm
hay không vì về bản chất số tiền bảo hiểm cũng là di sản thừa kế; trường
hợp hợp đồng bảo hiểm không chỉ định người thụ hưởng mà một trong những
người thừa kế hợp pháp của người được bảoh iểm có hành vi cố ý gây ra
cái chết cho người được bảo hiểm thì xử lý như thế nào?.
-
Một số thuật ngữ được quy định trong LKDBH nhưng chưa được định nghĩa
nên dẫn đến nhiều cách suy luận khác nhau như thuật ngữ “giá trị hoàn
lại”, “chi phí hợp lý”.
Thứ
hai , dự thảo nghị định mới có quy định không tương thích với văn bản
pháp luật khác có liên quan, chẳng hạn: điểm d khoản 2 Điều 10 dự thảo
nghị định sửa đổi nghị đinh 42 quy định “các địa điểm kinh doanh trực
thuộc văn phòng đại diện” là không phù hợp với Luật doanh nghiệp và các
văn bản pháp luật khác vì văn phòng đại diện không được hoạt động kinh
doanh. Trong trường hợp này, các địa điểm kinh doanh chỉ có thể trực
thuộc chi nhánh.
Thứ
ba, dự thảo nghị định mới còn nhiều điểm quy định chưa rõ, chưa chính
xác hoặc chưa phù hợp như: – Đưa ra khái niệm về dự phòng toán học (xem
điểm a khoản 2 Điều 9 Nghị định sửa đổi Nghị định 43) chưa chính xác vì
khái niệm “số tiền bảo hiểm” chưa phản ánh chính xác trách nhiệm bảo
hiểm đã cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ theo hợp đồng bảo
hiểm. Trong một số sản phẩm bảo hiểm đang triển khai trên thị trường
hiện nay, trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm không phải là toàn bộ số
tiền bảo hiểm mà là một phần hoặc một tỷ lệ nhất định của số tiền bảo
hiểm.
-
Chưa có quy định về biên khả năng thanh toán tổi thiểu của doanh nghiệp
tái bảo hiểm. – Việc đưa ra khái niệm “nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng
nghiệp vụ” có phần khiên cưỡng. Theo Khoản 1 Điều 12 (Nghị định sửa đổi
Nghị định 43), “nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của
doanh nghiệp bảo hiểm là tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm trừ các khỏan
tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên
trong kỳ đối với bảo hiểm phi nhân thọ, trả tiền bảo hiểm thường xuyên
trong kỳ đối với bảo hiểm nhân thọ”. Và, “khỏan tiền dùng để bồi thường
bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm phi nhân thọ không thấp
hơn 25% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín
dụng hoạt động tại Việt Nam” (Khoản 2 Điều 12 dự thảo Nghị định sửa đổi
Nghị định 43) còn “khoản tiền dùng để trả tiền bảo hiểm thường xuyên
trong kỳ đối với bảo hiểm nhân thọ không thấp hơn 5% tổng dự phòng
nghiệp vụ bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại
Việt Nam (Khoản 3 Điều 12 dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 43). Ở đây
chúng ta thấy khỏan tiền dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong
kỳ đối với bảo hiểm phi nhân thọ, khỏan tiền dùng để trả tiền bảo hiểm
thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm nhân thọ và được gửi tại các tổ
chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam thực chất cũng là khoản tiền đang
được đầu tư và do vậy cũng đang “nhàn rỗi”. Bên cạnh đó, việc quy định
“không thấp hơn 25% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm” đối với bảo hiểm
phi nhân thọ và “không thấp hơn 5% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm” đối
với bảo hiểm nhân thọ vô hình chung đã hạn chế sự lựa chọn của doanh
nghiệp bảo hiểm trong việc đầu tư (và dó đó dẫn tới giảm hiệu quả đầu
tư) và có thể không phản ánh đúng trách nhiệm trả tiền bảo hiểm/bồi
thường thường xuyên của doanh nghiệp bảo hiểm. Điều này có thể thấy rõ
trong các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ có số đơn bảo hiểm nhỏ, xác
suất tổn thất nhỏ nhưng mức trách nhiệm lớn (như bảo hiểm tàu biển, máy
bay…) và trong các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mang tính đầu tư là chủ
yếu. – Việc xác định biên khả năng thanh toán tối thiểu chỉ dựa trên phí
bảo hiểm và phí tái bảo hiểm trong bảo hiểm phi nhân thọ, dự phòng
nghiệp vụ và số tiền chịu rủi ro đối với bảo hiểm nhân thọ (Điều 16 Dự
thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 43) có thể chưa phản ánh hết cấu thành
biên khả năng thanh toán và trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm. Chẳng
hạn, với bảo hiểm nhân thọ việc xác định biên khả năng thanh toán chỉ
căn cứ vào thời hạn mà không căn cứ vào loại hình sản phẩm là việc làm
mang tính đánh đồng, làm mất ý nghĩa của công cụ cảnh báo này (biên khả
năng thanh toán tối thiểu). Hơn nữa, việc phân chia thành 2 thời hạn 5
năm trở xuống và trên 5 năm lại một lần nữa làm cho kết quả tính toán
biên khả năng thanh toán thêm thiếu thuyết phục và xác đáng. Với những
hạn chế nói trên, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các
dự thảo nghị định mới tại mục 2 dưới đây.
2. Những kiến nghị cụ thể:
2.1.
Về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 42/2001/NĐ-CP – Bổ sung
quy định về việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm với các nội dung: điều
kiện của việc chuyển nhượng, thủ tục chuyển nhượng, quyền hạn và trách
nhiệm của các bên trong quan hệ chuyển nhượng, hậu quả pháp lý của việc
chuyển nhượng. Ngoài ra, cần quy định riêng về việc chuyển nhượng của
từng loại hợp đồng bảo hiểm vì giữa hợp đồng bảo hiểm con người, hợp
đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là khác
nhau.
-
Quy định rõ việc áp dụng Điều 19 và Điều 22 của LKDBH theo hướng nếu là
hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo
hiểm thì sẽ áp dụng khoản 2 Điều 19 (doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn
phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và thu phí đến thời điểm hợp đồng bị
đình chỉ), còn nếu là hành vi lừa dối khác thì áp dụng điểm d khoản 1
Điều 22 (hợp đồng bảo hiểm vô hiệu).
-
Cần quy định thế nào là “giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm”, và
những chi phí nào được coi là “chi phí hợp lý” mà doanh nghiệp được
quyền khấu trừ khi chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp bên mua
bảo hiểm không còn quyền lợi có thể bảo hiểm. Theo chúng tôi, có thể
định nghĩa “giá trị hoàn lại là giá trị của hợp đồng bảo hiểm mà doanh
nghiệp phải thanh toán cho bên mua bảo hiểm tại thời điểm hợp đồng bảo
hiểm chấm dứt hiệu lực trước thời hạn”, “chi phí hợp lý là những khoản
chi phí hợp pháp mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bỏ ra cho việc giao kết hợp
đồng bảo hiểm. Những khoản chi phí này bao gồm: chi phí kiểm tra sức
khỏe, hoa hồng trả cho đại lý và/hoặc môi giới bảo hiểm, chi phí phát
hành hợp đồng, chi phí quản lý”.
-
Thống nhất quy định về các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đặc
biệt là trong bảo hiểm con người để áp dụng chung cho các doanh nghiệp
bảo hiểm theo hướng các doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể thu hẹp phạm vi
loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đã được quy định trong LKDBH và nghị định
chứ không được mở rộng. Mục đích của quy định này là để bảo vệ lợi ích
chính đáng của bên mua bảo hiểm vì trong các sản phẩm bảo hiểm đang
triển khai trên thị trường hiện nay hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm
đều mở rộng rất lớn phạm vi loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong khi đó ở
Việt Nam chưa có một cơ quan, tổ chức nào có thẩm quyền đưa ra định
nghĩa cụ thể về từng trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm cũng như
đưa ra tuyên bố chính thức khi trường hợp hiện tượng thời tiết thay đổi
đột ngột (sóng thần, động đất, núi lửa, lũ, lụt, bão…) xảy ra việc doanh
nghiệp bảo hiểm có được áp dụng điều khoản loại trừ hay không trên cơ
sở đánh giá mức độ ảnh hưởng của nó.
-
Sửa đổi khoản 2 Điều 10 bằng cách dùng từ “Phòng giao dịch” thay cho
“văn phòng giao dịch” để tránh sự hiểu lầm với văn phòng đại diện, và
đổi tên gọi địa điểm kinh doanh thành phòng giao dịch để thống nhất với
cơ cấu tổ chức, hoạt động trên thực tế hiện nay của các doanh nghiệp bảo
hiểm. Có thể quy định cụ thể như sau: “Bộ máy tổ chức của doanh nghiệp
bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm bao gồm: a) Văn phòng trụ sở
chính; b) Sở giao dịch, hội sở, công ty thành viên hạch toán phụ thuộc
và chi nhánh trực thuộc trụ sở chính (sau đây gọi tắt là “chi nhánh”);
c) Phòng giao dịch trực thuộc trực thuộc trụ sở chính, hoặc chi nhánh;
d) Văn phòng đại diện”. Ngoài ra, nghị định mới cũng cần quy định rõ địa
vị pháp lý (quyền, nghĩa vụ) của các bộ phận nói trên trong bộ máy tổ
chức của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
-
Quan hệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm với
chi nhánh thực chất là quan hệ ‘uỷ quyền” vì chi nhánh là đơn vị hoạt
động phụ thuộc. Do vậy, khoản 1 Điều 11 cần quy định rõ: “Chi nhánh của
doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là đơn vị phụ
thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức
năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo uỷ quyền. Doanh
nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về toàn bộ
hoạt động của chi nhánh trong phạm vi chức năng đã được uỷ quyền”.
2.2.
Về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 43/2001/NĐ-CP – Bỏ quy
định về định nghĩa “vốn điều lệ” của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp
môi giới bảo hiểm vì Luật doanh nghiệp đã quy định cụ thể;
-
Điểm c khoản 2 Điều 8 quy định dự phòng nghiệp vụ đối với bảo hiểm phi
nhân thọ cho các giao động lớn về tổn thất nên phù hợp với chuẩn mực báo
cáo tài chính quốc tế IFRS4 và chuẩn mực kế toán số 19 (hợp đồng bảo
hiểm) cũng như chế độ kế toán hiện hành, đó là phải trích lập từ lãi
ròng trước thuế và được ghi nhận như nguồn vốn chủ sở hữu. Mức độ trích
lập có thể khống chế tối đa bằng doanh thu phí bảo hiểm gốc của chính
năm đó.
-
Điều 4 (Vốn pháp định) nên quy định thống nhất việc góp vốn bằng đồng
Việt Nam thay vì đưa ra quy định vừa bằng tiền Việt Nam vừa bằng đô la
Mỹ như dự thảo vì tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ luôn có sự biến
động dẫn đến sự không thống nhất về giá trị.
-
Sửa điểm a khoản 2 Điều 9 như sau: “Dự phòng toán học là khoản chênh
lệch giữa giá trị hiện tại của các quyền lợi bảo hiểm đã cam kết theo
hợp đồng bảo hiểm và giá trị hiện tại của phí bảo hiểm sẽ thu trong
tương lai”.
- Bổ sung quy định về khái niệm “dự phòng phí chưa được sử dụng” tại điểm b khoản 2 Điều 9.
-
Sửa từ “dự phòng bồi thường” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 9 thành
“dự phòng bồi thường cho khiếu nại chưa giải quyết” (giống điểm b khoản 2
Điều 8- Dự phòng nghiệp vụ đối với bảo hiểm phi nhân thọ) để phản ánh
đúng bản chất của khái niệm này. – Đề cập rõ điểm d khoản 2 Điều 9 là
“dự phòng chia lãi đã phát sinh”.
- Sử dụng thống nhất khái niệm tương ứng giữa điểm c khoản 2 Điều 8 và điểm đ khoản 2 Điều 9 là “dự phòng bảo đảm cân đối”.
-
Quy định cụ thể về biên khả năng thanh toán tối thiểu của doanh nghiệp
bảo hiểm Trên đây là một số bình luận và kiến nghị của chúng tôi về các
dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung nghị định 42, 43. Rất mong nhận được ý
kiến phản hồi từ phía độc giả và các nhà xây dựng pháp luật.
SOURCE: http://baohiem.pro.vn/Forum/topic.asp?TOPIC_ID=1031
0 comments:
Post a Comment