Ngày nay, việc bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ và bảo đảm thực hiện các quyền đó ngày càng có vị trí quan
trọng trong thương mại quốc tế cũng như đối với nền kinh tế mỗi quốc
gia. Đối với nền kinh tế trong nước, làm tốt việc bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ là tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự sáng tạo, bảo đảm động
lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và thương mại; khuyến khích nghiên
cứu, phát triển công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá và tạo uy tín
cho sản phẩm. Hệ thống sở hữu trí tuệ mạnh sẽ có tác dụng tốt trong việc
phát triển công nghệ và kinh doanh lành mạnh, có vai trò tích cực đối
với công cuộc phát triển kinh tế.
Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 19 tháng 11 năm 2005
và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006. Đây là một bước
tiến dài trong việc bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam,
đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam. Có thể nói, với việc thông qua một đạo luật thống nhất về sở
hữu trí tuệ, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã xích
lại gần hơn với thế giới.
Một trong những nội dung quan trọng của
việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2006 là vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Luật dành riêng một
phần gồm 3 chương, 22 điều quy định về vấn đề này, bao gồm các nội dung
về quyền tự bảo vệ của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp xử lý
về hành chính, dân sự, hình sự hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ,
kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ….
Trong đó có một số điểm đáng chú ý sau:
1. Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định rõ các
quyền mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ được phép tiến hành, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời chỉ rõ được vai trò chủ
động của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ của mình.
Cụ thể, khoản 1, Điều 198 Luật Sở hữu trí
tuệ quy định: Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền áp dụng biện pháp
công nghệ, nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; yêu cầu
tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt
hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật; khởi kiện ra toà án hoặc trọng
tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Điểm b, khoản 1, Điều 211 Luật Sở hữu trí
tuệ quy định, hành vi không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ, mặc dù đã được chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thông báo bằng văn bản
yêu cầu chấm dứt hành vi đó, bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ và bị xử phạt hành chính. Quy định này đã gián tiếp khẳng định rõ
hơn trong Luật quyền của chủ thể, quyền sở hữu trí tuệ trong việc yêu
cầu chủ thể có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của mình buộc phải
chấm dứt hành vi vi phạm.
2. Các cơ quan có thẩm quyền xử lý hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã được quy định cụ thể và có sự phân
công nhiệm vụ rõ ràng trong Luật Sở hữu trí tuệ, giúp các cơ quan thực
hiện chức năng, nhiệm vụ cũng như phối hợp với nhau tốt hơn trong quá
trình xử lý hành vi vi phạm, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của chủ thể
quyền sở hữu.
Điều 200 Luật Sở hữu trí tuệ quy định,
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan Toà án, Thanh
tra, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an và Uỷ ban nhân dân các cấp có
thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Việc áp dụng biện pháp dân sự, hình sự
thuộc thẩm quyền của Toà án, trong trường hợp cần thiết, Toà án có thể
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật.
Việc áp dụng biện pháp hành chính thuộc
thẩm quyền của các cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải
quan, Uỷ ban nhân dân các cấp. Trong trường hợp cần thiết, các cơ quan
này có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính
theo quy định của pháp luật.
Việc áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền của
cơ quan hải quan.
3. Luật Sở hữu trí tuệ đã đề cao khía
cạnh dân sự của quyền sở hữu trí tuệ thông qua các quy định về xử lý các
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự.
Các tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ xử lý
tại toà dân sự sẽ được xem xét đầy đủ làm cho việc xử lý vi phạm đúng
đắn, hiệu quả. Đây cũng là sự khẳng định rõ hơn của pháp luật, coi quyền
sở hữu trí tuệ là một quyền dân sự (quyền nhân thân, quyền tài sản) mà
việc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ yêu cầu toà dân sự bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ của mình bị xâm phạm là một quyền hết sức quan trọng, đồng thời
là một công cụ hữu hiệu giúp chủ thể quyền sở hữu trí tuệ tự bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Làm rõ về vấn đề này, Luật Sở hữu trí tuệ
dành 9 điều (từ Điều 202 đến Điều 209), trong đó gồm các nội dung khá
chi tiết về các biện pháp dân sự, quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương
sự, các biện pháp khẩn cấp tạm thời và quyền yêu cầu Toà án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời… Đáng chú ý là quy định về nguyên tắc và căn
cứ xác định thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ gây ra trong trường hợp xử lý vi phạm bằng biện pháp dân sự.
Cụ thể, thiệt hại được xác định bao gồm cả thiệt hại về vật chất và
thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất được xác định trên cơ sở
xác định các tổn thất thực tế, nếu không xác định được thì mức bồi
thường thiệt hại do toà án ấn định, nhưng không quá năm trăm triệu đồng.
Thiệt hại về tinh thần có thể được bồi thường từ năm triệu đồng đến năm
mươi triệu đồng.
Quy định về xử lý xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ bằng biện pháp dân sự trong Luật Sở hữu trí tuệ đã nâng cao vai
trò của hệ thống cơ quan tư pháp, giảm bớt sự can thiệp của cơ quan hành
chính nhà nước vào các vấn đề mang tính dân sự, tránh việc hành chính
hoá các quan hệ dân sự.
4. Về xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ bằng biện pháp hành chính, Luật Sở hữu trí tuệ đã phân định rõ
ràng những hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nào sẽ bị áp dụng biện
pháp xử lý vi phạm hành chính bằng quy định tại Điều 211.
Cụ thể, các hành vi xâm phạm quyền sở hứu
trí tuệ sau đây bị xử phạt vi phạm hành chính: Thực hiện hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã
hội; Không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, mặc dù đã
được chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thông báo bằng văn bản yêu cầu chấm
dứt hành vi đó; Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hoá giả
mạo về sở hứu trí tuệ hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này;
Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán vật mang nhãn hiệu hoặc chỉ
dẫn địa lý trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý được bảo hộ hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này.
Một điểm quan trọng ở nội dung xử lý xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính trong Luật Sở hữu
trí tuệ là quy định về mức tiền phạt đối với hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ. Khoản 4, Điều 214 Luật Sở hữu trí tuệ quy định mức tiền
phạt theo giá trị hàng hoá vi phạm, được ấn định ít nhất bằng giá trị
hàng hoá vi phạm đã phát hiện được và nhiều nhất không vượt quá năm lần
giá trị hàng hoá đó. Quy định này đã khắc phục được một hạn chế vẫn
thường xảy ra trong xử lý vi phạm hành chính là pháp luật ấn định một
khung tiền phạt chung cho một loại hành vi vi phạm nào đó, mà trong
nhiều trường hợp, vi phạm hành chính thuộc loại này đem lại lợi nhuận
cho chủ thể vi phạm hoặc gây ra thiệt hại, tổn thất cho nhà nước, xã hội
lớn hơn rất nhiều lần so với mức tiền phạt được quy định, dẫn đến mục
đích của việc xử lý vi phạm hành chính không phát huy được tác dụng.
Thay lời kết: Có thể nói, Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2006 được xem là một bước tiến quan trọng trong ngành lập pháp
nước ta, góp phần xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn bảo hộ và các thủ
tục bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách kịp thời, hiệu quả,
công bằng và ít phiền hà, hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí
tuệ ở Việt Nam, cũng như hướng đến việc gia nhập WTO trong một tương lai
gần.
Hương Lan
TẠP CHÍ CÔNG NGHIỆP số tháng 11/2006 (trang 56)
0 comments:
Post a Comment