Luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc
hội khoá XII thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 16/6/2010, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2011 và thay thế Luật các tổ chức tín dụng số
02/1997/QH10 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức
tín dụng số 20/2004/QH11.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, được
sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2004 đã có những đóng góp quan trọng
trong việc tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho tổ chức và hoạt động của
hệ thống các tổ chức tín dụng (viết tắt: TCTD). Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế và yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, Luật các TCTD năm 1997 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, cản
trở sự phát triển của hệ thống các TCTD, cần phải được sửa đổi, hoàn
thiện. Do đó, việc ban hành Luật các TCTD mới là rất cần thiết, cụ thể:
1. Khắc phục những bất cập của Luật các tổ chức tín dụng hiện hành:
- Nâng cao quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng.
Luật các TCTD năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2004 (sau đây gọi
tắt là Luật Các TCTD hiện hành) chưa quy định thật cụ thể và rõ ràng
quyền chủ động kinh doanh, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của TCTD.
Luật chưa quy định rõ phạm vi hoạt động của từng loại hình TCTD, đặc
biệt trong việc xác định loại nghiệp vụ được phép thực hiện.
- Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính trong lĩnh vực ngân hàng.
Một số quy định của Luật các TCTD hiện hành chưa theo kịp so với công
cuộc cải cách hành chính chung đang được thực hiện. Một số công việc chỉ
cần giao cho Ngân hàng Nhà nước nhưng Luật lại giao cho Chính phủ hoặc
Thủ tướng Chính phủ, nên phát sinh nhiều đầu mối quản lý, làm chậm trễ
quá trình hướng dẫn thực hiện Luật và việc xử lý các vấn đề phát sinh
trên thực tiễn. Ngoài ra, thủ tục xin chấp thuận, chuẩn y các thay đổi
của TCTD trong Luật các TCTD hiện hành mang tính hành chính, không cần
thiết và làm tăng thêm chi phí cho các TCTD cũng cần được xem xét để
thay đổi cho phù hợp.
- Đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá, tính năng động, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng.
Luật các TCTD hiện hành chưa tạo lập được cơ sở pháp lý để cụ thể hoá
hoặc đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng, nên chưa khai thác được hết tiềm
năng, nội lực của các TCTD. Các quy định của Luật các TCTD hiện hành
chưa phân biệt phạm vi hoạt động của từng loại hình TCTD, do vậy, ảnh
hưởng đến hoạt động và sự phát triển của các loại hình TCTD.
Các bất cập của Luật các TCTD hiện hành
không chỉ làm hạn chế sự phát triển và hoạt động kinh doanh của các tổ
chức tín dụng, mà còn ảnh hưởng lớn đến hiệu quả quản lý, thanh tra,
giám sát an toàn của Ngân hàng Nhà nước đối với hệ thống TCTD. Việc soạn
thảo và ban hành Luật các TCTD mới gắn với việc khắc phục bất cập của
Luật hiện hành, đặc biệt là các quy định về tổ chức, quản trị, điều
hành, kiểm soát, hoạt động và bảo đảm an toàn, tạo lập khung pháp lý
hoàn chỉnh, minh bạch cho tổ chức và hoạt động của các TCTD là yêu cầu
cấp thiết của thực tiễn.
2. Đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập và xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng hiện đại:
Một số quy định của Luật các TCTD hiện
hành còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế như các quy định về an toàn
vốn, dịch vụ ngân hàng được phép cung cấp… Do vậy, việc ban hành Luật
các TCTD mới với mục tiêu thể chế hóa các tiêu chuẩn, chuẩn mực quốc tế
vào trong Luật, phù hợp với điều kiện Việt Nam là rất cần thiết để tạo
cơ sở pháp lý xây dựng hệ thống TCTD hiện đại, có đủ năng lực cạnh tranh
trong điều kiện hội nhập, cũng như cho việc giám sát an toàn trong hoạt
động của các TCTD.
3. Đảm bảo sự đồng bộ giữa các quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các Luật khác:
Luật các TCTD năm 1997 thiếu các quy định
cụ thể, đặc thù về tổ chức, quản trị, điều hành, kiểm soát, hoạt động
của các TCTD, do vậy, trên thực tiễn đã phát sinh xung đột luật giữa các
quy định hướng dẫn của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước với các quy định
của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật chứng khoán, Luật cạnh tranh,
Luật hợp tác xã, Luật phá sản… Điều này đã ảnh hưởng lớn để hiệu quả,
hiệu lực của hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với các TCTD.
Do vậy, việc ban hành Luật các TCTD mới với các quy định cụ thể về tổ
chức, quản trị điều hành và quy định rõ ràng về nguyên tắc áp dụng luật
là yêu cầu cấp thiết.
Từ các lý do nêu trên, việc ban hành Luật
các TCTD mới là cần thiết, không chỉ đáp ứng yêu cầu khách quan của nền
kinh tế mà còn thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
trong lĩnh vực ngân hàng, đáp ứng nhu cầu hội nhập và tạo cơ sở pháp lý
để tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động trên lĩnh vực
ngân hàng.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1. Luật các TCTD phải thể chế hoá được
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển hệ
thống các TCTD nói chung và ngân hàng nói riêng tại Việt Nam.
2. Kế thừa được những nội dung tốt, đã
được trải nghiệm qua thực tiễn 10 năm thi hành Luật các tổ chức tín dụng
hiện hành, bảo đảm tính kế thừa trong quản lý.
3. Phù hợp hơn với những cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam và thông lệ quốc tế trong hoạt động ngân hàng.
4. Tạo ra được một cơ sở pháp lý bảo đảm
sự tự chủ trong kinh doanh của các TCTD, đồng thời bảo đảm sự chặt chẽ,
thận trọng trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là nâng cao được khả năng
kiểm soát, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của từng
TCTD và sự ổn định, an toàn của hệ thống ngân hàng.
5. Khắc phục bất cập đã nảy sinh trong
quá trình thực hiện Luật các TCTD hiện hành như quy định về phạm vi điều
chỉnh, tổ chức, quản trị, điều hành, hình thức sở hữu, tỷ lệ an toàn…;
đồng thời, khắc phục các bất cập do xung đột với Luật doanh nghiệp, Bộ
luật dân sự, Luật chứng khoán…
III. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
A. Bố cục và nội dung chủ yếu
Luật các tổ chức tín dụng có 10 chương, bao gồm 163 điều, cụ thể như sau:
1. Chương I – Các quy định chung:
Có 17 điều (từ Điều 1 đến Điều 17) quy định về phạm vi điều chỉnh, đối
tượng áp dụng, áp dụng luật và điều ước quốc tế; giải thích từ ngữ, sử
dụng các thuật ngữ liên quan đến hoạt động ngân hàng, hình thức pháp lý
của TCTD, ngân hàng chính sách, quyền tự chủ của TCTD, hợp tác, cạnh
tranh, bảo vệ quyền lợi của khách hàng, cung cấp và bảo mật thông tin,
phòng chống rửa tiền, cơ sở dữ liệu thông tin dự phòng.
Luật các TCTD quy định về việc thành lập,
tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức
tín dụng; việc thành lập, tổ chức, hoạt động của chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức
nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng. Đối tượng áp dụng của Luật là
các tổ chức tín dụng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài; văn phòng đại diện
của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động
ngân hàng; tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, tổ chức,
hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng;
việc thành lập, tổ chức, hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài
khác có hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng chính sách cũng là một loại hình TCTD. Tuy nhiên,
hoạt động của ngân hàng chính sách có những đặc thù khác hẳn so với các
ngân hàng thương mại như hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, được
Chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán, hoạt động không dựa trên cơ sở
thị trường (lãi suất được hỗ trợ, đối tượng cho vay được Nhà nước xác
định trước…). Do đó, Luật các TCTD chỉ có một số quy định điều chỉnh về
tổ chức và hoạt động của ngân hàng chính sách. Trên cơ sở quy định của
Luật, Chính phủ quy định cụ thể việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt
động của loại hình ngân hàng này (Điều 17).
2. Chương II – Giấy phép:
Có 12 điều (từ Điều 18 đến Điều 29) bao gồm các quy định về thẩm quyền
cấp phép, vốn pháp định, điều kiện cấp phép đối với từng loại hình tổ
chức tín dụng, thời hạn, lệ phí cấp phép, đăng ký kinh doanh, công bố
Giấy phép, điều kiện khai trương hoạt động, sử dụng Giấy phép, thu hồi
Giấy phép, những thay đổi phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
Hoạt động ngân hàng là lĩnh vực kinh
doanh có điều kiện. Các điều kiện để được hoạt động ngân hàng bao gồm
điều kiện về vốn; về cổ đông, thành viên sáng lập; về người quản lý,
điều hành; về cơ sở vật chất, kỹ thuật… Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy
phép đối với hoạt động ngân hàng là Ngân hàng Nhà nước (Giấy phép thành
lập và hoạt động của TCTD). Sau khi được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy
phép thành lập và hoạt động, tổ chức tín dụng phải thực hiện đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh.
3. Chương III – Tổ chức, quản trị, điều hành của tổ chức tín dụng: Có 60 điều 8 mục (từ Điều 30 đến Điều 89) bao gồm các quy
định về cơ cấu mạng lưới của tổ chức tín dụng, điều lệ của TCTD, cơ cấu
tổ chức quản lý, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát,
Tổng giám đốc của TCTD và các quy định đặc thù về tổ chức, quản trị,
điều hành của từng loại hình TCTD theo hình thức pháp lý (như công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hai thành viên trở
lên, hợp tác xã…).
Tổ chức, quản trị, điều hành TCTD khác
với tổ chức, quản trị, điều hành các doanh nghiệp thông thường, vì hoạt
động của TCTD có liên quan đến quyền lợi của công chúng gửi tiền và liên
quan đến sự ổn định, phát triển của nền kinh tế. Nói chung các quy định
về tổ chức, quản trị, điều hành TCTD tại Luật các TCTD được xây dựng
trên cơ sở các quy định của Luật doanh nghiệp nhưng trên nguyên tắc là
đưa ra các yêu cầu, điều kiện cao hơn so với tổ chức, quản trị, điều
hành các doanh nghiệp thông thường để phù hợp với đặc thù của loại hình
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ.
4. Chương IV – Hoạt động của tổ chức tín dụng: Có
34 điều (từ Điều 90 đến Điều 123), trong đó có các quy định chung về
hoạt động của tổ chức tín dụng và phạm vi hoạt động đặc thù của từng
loại hình tổ chức tín dụng.
Các quy định chung về hoạt động của TCTD
là TCTD phải kinh doanh theo nội dung ghi trong Giấy phép do Ngân hàng
Nhà nước cấp; các TCTD có quyền thoả thuận với khách hàng về lãi suất,
phí cấp tín dụng theo quy định của pháp luật; ngoài ra, các TCTD phải
xây dựng các quy định nội bộ về cấp tín dụng; về phân loại tài sản có,
trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro; về đánh giá chất lượng tài sản có;
về quản lý thanh khoản; về kiểm soát nội bộ; về xếp hạng tín dụng nội
bộ; về quản trị rủi ro; về phòng chống rửa tiền… để bảo đảm hiệu quả và
an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Phạm vi hoạt động được phân theo từng
loại hình tổ chức tín dụng bao gồm hoạt động của ngân hàng thương mại;
hoạt động của công ty tài chính; hoạt động của công ty cho thuê tài
chính; hoạt động của ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân; hoạt
động của tổ chức tài chính vi mô và hoạt động của chi nhánh ngân hàng
nước ngoài. Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác với các ngân hàng là
không được nhận tiền gửi của cá nhân và không được cung ứng dịch vụ
thanh toán qua tài khoản.
5. Chương V – Văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng:
Có 02 điều (Điều 124, 125) quy định về quyền đặt văn phòng đại diện và
phạm vi hoạt động của văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước
ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng.
Văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài,
tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng không được thực hiện các
hoạt động kinh doanh, chỉ được thực hiện các hoạt động mang tính chất
nghiên cứu thị trường, liên lạc, xúc tiến các dự án đầu tư, thúc đẩy và
theo dõi việc thực hiện các hợp đồng….
6. Chương VI – Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng: Có 10 điều (từ Điều 126 đến Điều 135) quy định về các biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Hoạt động của các TCTD tiềm ẩn rất nhiều
rủi ro, liên quan đến quyền lợi của công chúng gửi tiền và sự ổn định,
phát triển của nền kinh tế, việc bảo đảm an toàn trong hoạt động của
TCTD là rất quan trọng. Do đó, Luật các TCTD đã có nhiều quy định mang
tính hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD. Các quy định
này bao gồm những trường hợp không được cấp tín dụng; những trường hợp
hạn chế cấp tín dụng; giới hạn cấp tín dụng đối với một khách hàng và
nhóm khách hàng có liên quan; giới hạn góp vốn, mua cổ phần của TCTD;
các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD (tỷ lệ khả năng chi
trả, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn
được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn, trạng thái ngoại tệ, vàng
tối đa so với vốn tự có, tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi, các
tỷ lệ tiền gửi trung, dài hạn so với tổng dư nợ cho vay trung, dài hạn);
quy định về dự phòng rủi ro; quy định về cấm kinh doanh bất động sản và
các hạn chế trong việc góp vốn chéo, góp vốn ngược giữa TCTD với công
ty con, công ty liên kết, công ty kiểm soát của TCTD.
7. Chương VII – Tài chính, hạch toán, báo cáo:
Có 9 điều (từ Điều 136 đến Điều 144) quy định về chế độ tài chính; năm
tài chính; hạch toán kế toán; quỹ dự trữ; mua, đầu tư vào tài sản cố
định; báo cáo; công khai báo cáo tài chính; chuyển lợi nhuận, chuyển tài
sản ra nước ngoài.
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài chỉ được mua, đầu tư vào tài sản cố định phục vụ trực tiếp
cho hoạt động không quá 50% vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều
lệ đối với tổ chức tín dụng hoặc không quá 50% vốn được cấp và quỹ dự
trữ bổ sung vốn được cấp đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
8. Chương VIII – Kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, phá sản, giải thể, thanh lý TCTD:
Có 13 điều (từ Điều 145 đến Điều 157) được chia thành 2 mục, quy định
về kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể, phá sản, thanh lý tổ chức
tín dụng, phong toả vốn, tài sản của chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Khi có nguy cơ mất khả năng chi trả, tổ
chức tín dụng phải kịp thời báo cáo với Ngân hàng Nhà nước về thực trạng
tài chính, nguyên nhân, các biện pháp đã áp dụng, dự kiến áp dụng để
khắc phục và Ngân hàng Nhà nước có thể áp dụng biện pháp kiểm soát đặc
biệt để bảo đảm an toàn hoạt động của TCTD, bảo vệ quyền lợi của người
gửi tiền và phục hồi hoạt động kinh doanh của TCTD. Trong quá trình kiểm
soát đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước có thể áp dụng nhiều biện pháp khác
nhau để khôi phục hoạt động bình thường của TCTD. Trường hợp sau quá
trình kiểm soát đặc biệt mà TCTD vẫn không khôi phục được khả năng thanh
toán (mất khả năng thanh toán khi chủ nợ có yêu cầu) thì TCTD được
chuyển sang giải quyết theo thủ tục phá sản do Toà án tiến hành.
Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
trong trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền,
Ngân hàng Nhà nước có quyền phong tỏa một phần hoặc toàn bộ vốn, tài sản
của chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng Nhà nước quy định cụ thể
các trường hợp phong tỏa, chấm dứt phong tỏa vốn và tài sản của chi
nhánh ngân hàng nước ngoài.
9. Chương IX – Cơ quan quản lý nhà nước:
Có 3 điều (từ Điều 158 đến Điều 160) quy định về cơ quan quản lý nhà
nước; thẩm quyền thanh tra, giám sát, kiểm tra; quyền, nghĩa vụ của đối
tượng thanh tra, giám sát.
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan chịu trách
nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc quản lý Nhà nước về tổ chức, hoạt
động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng
Nhà nước thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện tại Việt Nam
của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động
ngân hàng.
10. Chương X – Điều khoản thi hành:
Có 3 điều (từ Điều 161 đến Điều 163) quy định về hiệu lực thi hành, quy
định chuyển tiếp đối với các TCTD và thẩm quyền hướng dẫn Luật.
Để các TCTD đang hoạt động có thời gian
chuyển đổi về tổ chức và hoạt động, Luật các TCTD quy định các nội dung
chuyển tiếp áp dụng Luật các TCTD đối với các TCTD.
Về hướng dẫn thi hành Luật, Chính phủ sẽ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong
Luật hoặc hướng dẫn những nội dung cần thiết khác trong Luật để đáp ứng
yêu cầu quản lý nhà nước đối với các TCTD.
B. Những nội dung mới
1. Phạm vi điều chỉnh:
Luật các TCTD điều chỉnh việc thành lập,
tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể TCTD; việc
thành lập, tổ chức, hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn
phòng đại diện của TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động
ngân hàng.
Thay đổi so với Luật các TCTD năm 1997 là
Luật các TCTD năm 2010 bỏ phần quy định về “các tổ chức khác có hoạt
động ngân hàng”. Bởi vì, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh có
điều kiện. Những điều kiện để được hoạt động ngân hàng đều rất chặt chẽ,
từ tổ chức bộ máy đến quản lý nội bộ, quản trị rủi ro. Những điều kiện
này thông thường các tổ chức khác không phải là TCTD đều không đáp ứng
được. Đó là lý do Chính phủ không thể ban hành được các văn bản hướng
dẫn Luật các TCTD năm 1997 về hoạt động ngân hàng của tổ chức khác. Điều
này có nghĩa là để được cấp phép hoạt động ngân hàng các tổ chức phải
được thành lập như là một TCTD. Những tổ chức nào có hoạt động ngân hàng
đều phải được tổ chức lại dưới hình thức là một TCTD hoặc phải chấm dứt
hoạt động này (trừ việc công ty chứng khoán thực hiện giao dịch ký quỹ,
giao dịch mua, bán lại chứng khoán).
Mặt khác, phạm vi điều chỉnh của Luật đã
được quy định cụ thể hơn. Phạm vi điều chỉnh của Luật được mở rộng từ
chỗ chỉ điều chỉnh chủ yếu về hoạt động sang điều chỉnh về tổ chức quản
lý và hoạt động của TCTD. Trong đó, nội dung về tổ chức quản lý là nội
dung có được bổ sung nhiều nhất được thể hiện ở Chương III của Luật.
2. Về một số khái niệm cơ bản:
Luật các TCTD thay đổi tiêu chí xác định
một tổ chức là TCTD bằng việc thay đổi nội hàm của khái niệm “hoạt động
ngân hàng”: bao gồm một trong ba hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng,
cung ứng dịch vụ thanh toán thay cho việc phải đồng thời thực hiện cả ba
hoạt động trên. Khái niệm “hoạt động ngân hàng” theo hướng nói trên
hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế và là tiêu chí quan trọng để xác
định thế nào là một TCTD. Theo đó, chỉ các TCTD mới được thực hiện hoạt
động ngân hàng (đây là thay đổi căn bản so với Luật các TCTD năm 1997).
Tuy nhiên, phạm vi hoạt động kinh doanh của TCTD không chỉ giới hạn
trong khuôn khổ các hoạt động ngân hàng mà còn có thể có các hoạt động
kinh doanh khác theo quy định.
Luật cũng đã bổ sung một số thuật ngữ
quan trọng như: “khoản đầu tư nhằm nắm quyền kiểm soát” , “người có
liên quan”, “người quản lý”, “người điều hành”… nhằm đáp ứng yêu cầu
quản lý chặt chẽ hơn so với quy định của Luật Doanh nghiệp.
3. Về nguyên tắc áp dụng Luật:
Luật các TCTD 2010 có điểm mới so với
Luật các TCTD năm 1997 là xác định rõ nguyên tắc áp dụng Luật theo
hướng: Luật các TCTD quy định cụ thể các đặc thù trong việc thành lập,
tổ chức, quản lý và hoạt động của TCTD; khi có các quy định khác nhau
giữa Luật các TCTD và luật khác thì Luật các TCTD sẽ được ưu tiên áp
dụng.
Tùy theo hình thức pháp lý của TCTD, các
nội dung không được quy định trong Luật các TCTD sẽ được thực hiện theo
quy định của Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã.
4. Về hình thức tổ chức của TCTD:
Luật các TCTD quy định TCTD được tổ chức
theo các hình thức pháp lý của Luật doanh nghiệp (hoặc Luật Hợp tác xã).
Cụ thể, ngân hàng thương mại trong nước được thành lập, tổ chức dưới
hình thức công ty cổ phần (trừ ngân hàng thương mại nhà nước được thành
lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ). TCTD phi ngân hàng trong nước được
thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn. TCTD 100% vốn nước ngoài, TCTD liên doanh được thành lập, tổ
chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Ngân hàng hợp tác xã,
quỹ tín dụng nhân dân được thành lập, tổ chức dưới hình thức hợp tác xã.
Tổ chức tài chính vi mô được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn.
5. Về cấp giấy phép thành lập và hoạt động TCTD:
Luật đã quy định cụ thể các điều kiện cấp
phép đối với từng loại hình TCTD theo hướng nâng cao các yêu cầu, tiêu
chí về đảm bảo an toàn của từng TCTD và cả hệ thống các TCTD. Các điều
kiện cấp phép được rà soát theo hướng vừa chặt chẽ (bảo đảm việc gia
nhập thị trường của các TCTD mới không ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ
thống TCTD), vừa tuân thủ các cam kết của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Đồng thời cũng làm rõ sự khác biệt về điều kiện cấp phép đối với
mô hình quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô là những TCTD
có mục tiêu hoạt động khác với các ngân hàng thương mại và TCTD phi ngân
hàng (điều kiện cấp giấy phép sẽ theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà
nước).
6. Về các thay đổi cần chấp thuận của NHNN:
So với quy định của Luật Các TCTD năm
1997, Luật các TCTD năm 2010 đã quy định theo hướng quán triệt nguyên
tắc cải cách thủ tục hành chính và tăng quyền tự chủ cho TCTD trong vấn
đề về những thay đổi cần chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước. Luật các
TCTD năm 2010 đã giảm bớt các nội dung cần phải được sự chấp thuận của
Ngân hàng Nhà nước như chuyển nhượng cổ phần có ghi tên quá tỷ lệ quy
định, thay đổi thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám
đốc của TCTD; bỏ thủ tục chuẩn y điều lệ thay bằng đăng ký điều lệ.
7. Về tổ chức, quản trị, điều hành TCTD:
Tổ chức, quản trị, điều hành các TCTD là
một trong những nội dung có nhiều điểm mới nhất của Luật các TCTD năm
2010. So với Luật các TCTD năm 1997 chỉ có 6 điều quy định về tổ chức,
quản trị, điều hành TCTD thì Luật các TCTD năm 2010 với hơn 60 điều quy
định về tổ chức, quản trị, điều hành TCTD là một sự bổ sung và thay đổi
căn bản về nội dung này.
Việc bổ sung thêm nhiều quy định về tổ
chức, quản trị, điều hành TCTD tại Luật các TCTD năm 2010 xuất phát từ
lý do Luật các TCTD năm 1997 thiếu các quy định cụ thể, đặc thù về tổ
chức, quản trị, điều hành các TCTD. Do vậy, trong thực tiễn đã phát sinh
xung đột luật giữa các quy định hướng dẫn của Chính phủ, Ngân hàng Nhà
nước (có giá trị pháp lý thấp hơn so với các Luật) với các quy định của
Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, Luật đầu tư, Luật chứng khoán…. Điều
này đã gây khó khăn cho việc xác định tính đặc thù trong việc tổ chức,
quản trị, điều hành TCTD so với các loại hình doanh nghiệp khác. Từ đó,
ảnh hưởng lớn đến việc quản lý và bảo đảm an toàn trong hoạt động của
TCTD và hệ thống các TCTD.
Luật các TCTD năm 2010 đã quy định chi
tiết, cụ thể, rõ ràng về tổ chức và công tác quản trị, điều hành, kiểm
soát của từng loại hình tổ chức của TCTD. Tổ chức, quản trị, điều hành
TCTD theo Luật các TCTD năm 2010 không phân loại theo loại hình hoạt
động của TCTD hay theo hình thức sở hữu của TCTD mà phân loại theo các
hình thức tổ chức doanh nghiệp của Luật doanh nghiệp và Luật hợp tác xã.
Cụ thể, Luật các TCTD năm 2010 quy định cơ cấu tổ chức, quản trị, điều
hành của các loại hình tổ chức của TCTD bao gồm: Tổ chức tín dụng là
công ty cổ phần; Tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên; Tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm từ hai thành viên
trở lên và Tổ chức tín dụng là hợp tác xã.
Các quy định về tổ chức, quản trị, điều
hành đối với TCTD là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn về cơ
bản được xây dựng dựa trên cơ sở các quy định của Luật doanh nghiệp đối
với loại hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, đồng thời kế
thừa các quy định pháp luật hiện hành từ các Nghị định của Chính phủ,
văn bản của Ngân hàng Nhà nước còn phù hợp và tham khảo các thông lệ
quốc tế. Các quy định về tổ chức, quản trị, điều hành đối với TCTD là
hợp tác xã về cơ bản được xây dựng trên cơ sở các quy định của Luật hợp
tác xã và trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành. Mặc
dù, các quy định về tổ chức, quản trị, điều hành đối với các TCTD được
xây dựng trên cơ sở các quy định của Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã
nhưng có rất nhiều điểm khác biệt so với các Luật này để phù hợp với đặc
thù trong hoạt động của các TCTD, trên nguyên tắc là đưa ra các yêu cầu
cao hơn về tổ chức, quản trị, điều hành TCTD so với các doanh nghiệp
thông thường. Do đó, các quy định về tổ chức, quản trị, điều hành đối
với các TCTD thường được thiết kế chặt chẽ hơn so với các doanh nghiệp
khác trong nền kinh tế. Đây cũng là một thông lệ chung được thừa nhận
rộng rãi trên bình diện quốc tế (nguyên tắc số 3 và 7 của 25
nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hiệu quả của Uỷ ban Basel, Luật
ngân hàng Singapore, Luật ngân hàng Canada…). Những nội dung có thể áp
dụng được Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã không được quy định lại
trong Luật các TCTD năm 2010 để tránh trùng lắp và bảo đảm để những quy
định chung vẫn có thể được áp dụng khi có thay đổi trong Luật doanh
nghiệp, Luật hợp tác xã.
Một số nội dung cụ thể về tổ chức, quản trị, điều hành:
- Về việc chấp thuận danh
sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản
trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng
giám đốc (Giám đốc) của TCTD: Theo Luật Các TCTD năm 1997, thành
viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám
đốc) của TCTD sau khi được bầu, bổ nhiệm phải được NHNN chuẩn y. Khi
thực hiện quy định này đã có những vướng mắc như việc can thiệp sâu vào
quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông (hoặc Hội đồng quản trị) của
TCTD, hơn nữa trong thời gian các chức danh trên đã được bầu, bổ nhiệm
nhưng chưa được NHNN chuẩn y thì việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
các chức danh này như thế nào? Để giải quyết những vướng mắc trên, Luật
các TCTD năm 2010 quy định: NHNN chấp thuận danh sách dự kiến những
người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng
thành viên, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của TCTD. Những người được bầu, bổ
nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, thành viên
Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của TCTD phải thuộc danh sách đã
được NHNN chấp thuận.
- Về thành viên độc lập của Hội đồng quản trị: Luật
các TCTD năm 2010 quy định về thành viên độc lập của Hội đồng quản trị.
Việc yêu cầu có thành viên độc lập trong Hội đồng quản trị là nhằm phát
huy trí tuệ và tăng tính độc lập, khách quan trong các quyết định của
Hội đồng quản trị, hạn chế việc chi phối trong quá trình ra quyết định
của các thành viên không độc lập (thường là đại diện của các cổ đông
lớn), bảo vệ lợi ích của tổ chức tín dụng và các cổ đông nhỏ, qua đó
nhằm ổn định và bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD và hệ thống các
TCTD. Luật các TCTD năm 2010 quy định Hội đồng quản trị của TCTD cổ
phần phải có tối thiểu 01 thành viên độc lập; Hội đồng quản trị tối
thiểu phải có 1/2 tổng số thành viên là thành viên độc lập và thành viên
không phải là người điều hành TCTD. Luật cũng quy định những điều kiện
của thành viên Hội đồng quản trị độc lập, để bảo đảm thành viên này có
được tính độc lập trong hoạt động của mình.
- Về giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần: Tổ
chức và hoạt động của TCTD cổ phần phải mang tính đại chúng cao để bảo
đảm sự minh bạch, hạn chế sự thâu tóm có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của
công chúng gửi tiền, gây mất an toàn hệ thống. Do đó, Luật quy định các
giới hạn về tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông: Một cổ đông cá nhân
không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một TCTD. Một cổ đông là
tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một TCTD, trừ một
số trường hợp đặc biệt. Cổ đông và những người có liên quan của cổ đông
đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một TCTD.
8. Về hoạt động của TCTD:
Luật Các TCTD năm 1997 không quy định
phân biệt phạm vi hoạt động của từng loại hình TCTD nên khi triển khai
thực hiện đã gặp nhiều vướng mắc, đặc biệt trong việc xác định loại
nghiệp vụ mà một loại hình TCTD cụ thể được phép thực hiện. Do vậy, đã
ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của các loại hình TCTD.
Khắc phục hạn chế nói trên, Luật các TCTD
năm 2010 quy định cụ thể phạm vi hoạt động của từng loại hình TCTD,
trong đó lấy hoạt động của ngân hàng thương mại làm căn cứ dẫn chiếu khi
quy định phạm vi hoạt động của các loại hình TCTD khác. Cụ thể tại
Chương IV của Luật về hoạt động của TCTD, ngoài mục quy định chung, có 6
mục quy định về hoạt động của từng loại hình TCTD: Hoạt động của ngân
hàng thương mại; Hoạt động của công ty tài chính; Hoạt động của công ty
cho thuê tài chính; Hoạt động của TCTD là hợp tác xã; Hoạt động của tổ
chức tài chính vi mô; Hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Luật các TCTD năm 2010 đã thay đổi tiêu
chí phân biệt giữa ngân hàng và TCTD phi ngân hàng. Theo đó, phạm vi
hoạt động của các TCTD phi ngân hàng khác với các ngân hàng là không
được phép nhận tiền gửi của cá nhân và không được cung ứng dịch vụ thanh
toán qua tài khoản của khách hàng. Theo tiêu chí này, ranh giới phân
biệt hoạt động giữa ngân hàng và TCTD phi ngân hàng được làm rõ hơn.
Tiêu chí phân biệt này cũng phù hợp với thông lệ áp dụng tại hầu hết các
nước và tạo điều kiện để một mặt giảm bớt được rủi ro cho hệ thống ngân
hàng, mặt khác cho phép các công ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính được mở rộng phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác của mình
do các quy định về an toàn sẽ được áp dụng ở mức độ thấp hơn so với các
ngân hàng thương mại là những tổ chức nhận tiền gửi của dân cư và tham
gia vào hệ thống thanh toán.
Đối với mỗi loại hình TCTD, Luật các TCTD
năm 2010 quy định rõ những nghiệp vụ TCTD đương nhiên được kinh doanh
sau khi được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, những nghiệp vụ kinh
doanh phải được phép của Ngân hàng Nhà nước trước khi thực hiện, những
nghiệp vụ khi thực hiện phải thành lập công ty con, công ty liên kết và
những nghiệp vụ TCTD không được thực hiện. Việc quy định theo hướng này
dẫn đến giảm đi nhiều “giấy phép con” so với quy định hiện nay, thực
hiện tinh thần cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho các TCTD.
Ví dụ, ngân hàng thương mại (Mục 2 Chương IV) ngay sau khi được cấp Giấy
phép thành lập và hoạt động thì đương nhiên được thực hiện khoảng 20
nhóm hoạt động kinh doanh, còn khoảng 6 nhóm hoạt động kinh doanh có
nhiều rủi ro thì ngân hàng thương mại trước khi thực hiện phải được Ngân
hàng Nhà nước chấp thuận (như thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế;
tham gia hệ thống thanh toán quốc tế, góp vốn, mua cổ phần; kinh doanh,
cung ứng dịch vụ ngoại hối; kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh…).
9. Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD:
Trên cơ sở thay đổi phạm vi hoạt động của
từng loại hình TCTD, Luật đã quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn của
từng loại hình TCTD theo hướng kiểm soát chặt chẽ hơn đối với các ngân
hàng thương mại và nới lỏng tỷ lệ an toàn áp dụng đối với công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính như các quy định về giới hạn cấp tín
dụng, các quy định về giới hạn góp vốn, mua cổ phần….
Về nhóm các quy định nhằm hạn chế sự tập
trung rủi ro quá mức của TCTD vào một hoặc một nhóm khách hàng, Luật các
TCTD năm 2010 có một điều chỉnh quan trọng so với Luật các TCTD năm
1997 là không xác định hạn mức tín dụng cho một khách hàng theo từng
loại nghiệp vụ tín dụng, mà đưa ra hạn mức cấp tín dụng tổng thể đối với
một khách hàng. Đây là cách quy định phản ảnh thực tế là rủi ro của
TCTD khi cấp tín dụng cho một khách hàng không phụ thuộc vào nghiệp vụ
tín dụng mà phụ thuộc vào rủi ro của đối tác liên quan.
Các quy định về góp vốn, mua cổ phần của
các TCTD tại Luật các TCTD năm 1997 và văn bản hướng dẫn còn chưa chặt
chẽ, tạo kẽ hở để các TCTD mở rộng phạm vi hoạt động sang quá nhiều các
lĩnh vực không có liên quan nhiều, thậm chí không có liên quan với hoạt
động chính, chủ yếu của các TCTD. Điều này về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của TCTD trên lĩnh vực hoạt động chính, chưa nói đến
những rủi ro khác có thể phát sinh từ những lĩnh vực hoạt động không
phải là chuyên môn sâu của TCTD. Chính vì lý do đó, Luật các TCTD năm
2010 đã đưa ra các quy định cụ thể theo hướng thông lệ chung được áp
dụng đối với hoạt động ngân hàng là giới hạn phạm vi hoạt động của các
TCTD vào các hoạt động chính và những lĩnh vực hoạt động có liên quan
trực tiếp đến hoạt động chính bằng việc quy định cụ thể các giới hạn góp
vốn, mua cổ phần của TCTD.
Luật các TCTD năm 2010 đưa ra các quy định nhằm hạn chế các
quan hệ cấp tín dụng nội bộ như: không được cấp tín dụng cho thành viên
Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, Phó Tổng
giám đốc – là những người có quyền lực trong TCTD, nhằm hạn chế xung đột
lợi ích, tránh tình trạng lạm dụng ảnh hưởng của những người này đến
việc ra quyết định cấp tín dụng của TCTD, có thể gây mất an toàn cho
TCTD và hệ thống TCTD; không được cấp tín dụng đối với pháp nhân là cổ
đông có người đại diện phần vốn góp là thành viên Hội đồng quản trị,
thành viên Ban kiểm soát của TCTD, pháp nhân là thành viên góp vốn, chủ
sở hữu của tổ chức tín dụng; hạn chế cấp tín dụng đối với cổ đông lớn,
cổ đông sáng lập của TCTD nhằm hạn chế việc các tập đoàn, tổng công ty
lạm dụng việc thành lập TCTD để huy động vốn và cho vay nội bộ – hoạt
động chứa đựng rất nhiều rủi ro, nhằm bảo đảm an toàn cho TCTD và phù
hợp với thông lệ chung trong hoạt động ngân hàng…
Luật các TCTD năm 2010 hạn chế việc góp
vốn, mua cổ phần chéo, góp vốn, mua cổ phần ngược giữa TCTD, công ty
con, công ty liên kết, công ty kiểm soát. Cụ thể, Luật quy định công ty
con, công ty liên kết của cùng một công ty kiểm soát không được góp vốn,
mua cổ phần của nhau; Công ty con, công ty liên kết của một TCTD không
được góp vốn, mua cổ phần của chính TCTD đó; TCTD đang là công ty con,
công ty liên kết của công ty kiểm soát không được góp vốn, mua cổ phần
của công ty kiểm soát đó và TCTD không được góp vốn, mua cổ phần của các
doanh nghiệp, TCTD khác là cổ đông, thành viên góp vốn của chính TCTD
đó.
10. Về kiểm soát đặc biệt:
Để chủ động xử lý các TCTD có nguy cơ mất
khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán, bảo đảm an toàn trong hoạt
động của TCTD, trên cơ sở kế thừa các quy định pháp luật hiện hành, các
nội dung về kiểm soát đặc biệt được quy định đầy đủ, chi tiết hơn. Cụ
thể:
- Luật đã quy định bổ sung thêm 2 trường
hợp mà một TCTD có thể bị Ngân hàng Nhà nước đặt vào tình trạng kiểm
soát đặc biệt: Hai năm liên tục bị xếp loại yếu kém theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước; Không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo
quy định trong thời hạn một năm liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu thấp hơn 4% trong thời hạn 6 tháng liên tục.
- Đồng thời, Luật quy định theo hướng
trao cho Ngân hàng Nhà nước thẩm quyền lớn hơn trong việc kiểm soát đặc
biệt đối với TCTD như Ngân hàng Nhà nước có quyền yêu cầu chủ sở hữu
tăng vốn, xây dựng, thực hiện kế hoạch tái cơ cấu hoặc bắt buộc sáp
nhập, hợp nhất, mua lại đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt, nếu chủ sở
hữu không có khả năng hoặc không thực hiện việc tăng vốn; trực tiếp
hoặc chỉ định TCTD khác góp vốn, mua cổ phần của TCTD được kiểm soát đặc
biệt trong một số trường hợp nhất định….
11. Về chuyển tiếp áp dụng Luật các TCTD:
Để không làm ảnh hưởng đến hoạt động của
các TCTD được thành lập và hoạt động theo Luật các TCTD năm 1997 và để
TCTD đang hoạt động có đủ thời gian điều chỉnh tổ chức và hoạt động theo
quy định của Luật mới, Luật đưa ra các quy định về việc chuyển tiếp đối
với các tổ chức đang hoạt động theo 3 nhóm:
- Các quy định của Luật mà TCTD phải tuân thủ ngay như các quy định về phạm vi hoạt động ngân hàng…;
- Các quy định của Luật sẽ được thực hiện
chuyển tiếp trong thời hạn 02 năm như một số quy định về tổ chức, quản
trị, điều hành TCTD…;
- Các quy định thực hiện chuyển tiếp theo
hướng dẫn của NHNN đối với các quy định phức tạp cần có lộ trình cụ thể
để tuân thủ như quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần, các quy định về góp
vốn, mua cổ phần….
IV. Tổ chức thực hiện Luật các tổ chức tín dụng
Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2011. Để Luật có thể nhanh chóng đi vào cuộc sống,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện
Luật các tổ chức tín dụng với trọng tâm bao gồm nhiều hoạt động tuyên
truyền, phổ biến khác nhau như tổ chức Hội nghị tuyên truyền, phổ biến
Luật, phối hợp với các trường ngân hàng đưa nội dung Luật vào chương
trình giảng dạy cho cán bộ và sinh viên, xuất bản ấn phẩm hỏi đáp về
Luật, giới thiệu nội dung của Luật trên các chuyên trang, chuyên mục của
các phương tiện thông tin đại chúng… Đồng thời để bảo đảm có thể thực
hiện ngay các quy định của Luật khi có hiệu lực, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã và đang tiến hành rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn
bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật. Các quy định của Luật
các tổ chức tín dụng được xây dựng theo hướng quy định chi tiết, cụ thể
hóa ở mức tối đa. Do đó, sẽ giảm bớt số lượng lớn các văn bản hướng dẫn
thi hành. Tuy nhiên, còn một số vấn đề thuộc lĩnh vực điều hành nghiệp
vụ của Ngân hàng Nhà nước và một số nội dung khác không thể quy định
ngay trong Luật mà cần văn bản hướng dẫn của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ và Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo tính linh hoạt, phù hợp với tình
hình thực tiễn. Theo dự kiến, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng
Nhà nước theo thẩm quyền sẽ ban hành trong quý III, IV năm 2010 các Nghị
định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư của
Ngân hàng Nhà nước để hướng dẫn thi hành Luật. Ngoài ra, một số Nghị
định hoặc văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước đang có hiệu lực vẫn
tiếp tục được áp dụng và sẽ được sửa đổi, bổ sung khi cần thiết.
0 comments:
Post a Comment