Posted on 19/01/2014
TS. NGUYỄN VÂN ANH – Sở KH&CN Bà Rịa – Vũng Tàu
ThS LÊ VŨ TOÀN – Trường Quản lý KH&CN, Bộ KH&CN
Hiện nay tổng đầu tư cho
khoa học và công nghệ (KH&CN) ở nước ta đạt mức 0,6% GDP, trong đó,
chủ yếu từ ngân sách nhà nước (0,5% GDP). Mức đầu tư này hiện đang thấp
hơn rất nhiều so với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới
(năm 2010, Nhật Bản đầu tư cho KH&CN là 3,3% GDP, Hàn Quốc là 3%, Mỹ
2,7%, Đức 2,3%, Singapore 2,2%). Do
vậy, việc gia tăng tỷ lệ đầu tư cho KH&CN, đặc biệt, việc huy động
từ phía doanh nghiệp là vấn đề quan trọng đang được đặt ra. Một trong
những hình thức huy động được áp dụng là khuyến khích doanh nghiệp thành
lập Quỹ phát triển KH&CN để phục vụ cho việc đổi mới công nghệ tại
chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thành lập loại hình Quỹ này ở nước
ta hiện còn gặp nhiều khó khăn, cần có những giải pháp tháo gỡ kịp thời.
Đặt vấn đề
Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp là một
trong những loại hình Quỹ được đề cập đầu tiên tại nước ta trong Luật
KH&CN [1] năm 2000. Điều 38.2 Luật KH&CN quy định: “Doanh nghiệp
được lập Quỹ phát triển KH&CN để chủ động đầu tư phát triển
KH&CN”. Luật Chuyển giao công nghệ (CGCN) (2006) [2], Luật Thuế thu
nhập doanh nghiệp (2008) [3] tiếp tục bổ sung và đưa ra những quy định
cụ thể. Trên cơ sở quy định của các Luật trên, Bộ Tài chính đã ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể: Quyết định 36 [4],
Thông tư 15 [5], Thông tư 105 [6]. Có thể nói, đây là các văn bản pháp
lý quan trọng để Quỹ hình thành và đi vào hoạt động.
Tuy nhiên, theo Báo cáo tại Hội thảo về việc triển khai thực hiện Quỹ trên địa bàn tỉnh Bình Phước ngày 26.4.2013 [7]: “Việc
hình thành Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp hiện nay đang gặp
nhiều khó khăn, ít về số lượng (khoảng 15%), lại không đồng đều, như tại
Bình Phước có doanh nghiệp trích 10% lợi nhuận trước thuế chỉ được
khoảng 20 triệu đồng, có doanh nghiệp lại lên đến 189 tỷ đồng”.
Tại Bà Rịa – Vũng Tàu, tính đến tháng 7/2013 có 5
doanh nghiệp/hơn 8.000 doanh nghiệp thành lập Quỹ. Thành phố Hồ Chí Minh
có 49 doanh nghiệp có Quỹ được hình thành. Trong đó có 26 doanh nghiệp
đã trích lập quỹ với tổng cộng 346,8 tỷ đồng nhưng mới sử dụng hết 117,8
tỉ đồng (chiếm 33,9% tổng số tiền); số đơn vị chưa trích lập quỹ là 23
doanh nghiệp do mới lập Quỹ [8]. Tỷ lệ trích lập Quỹ tại 2 địa phương
này từ 5 đến 10%, thời gian Quỹ được thành lập chỉ 1-3 năm trở lại đây.
Qua tìm hiểu thực tế tại các doanh nghiệp và các quy định về Quỹ đã ban
hành, nhận thấy có 2 vấn đề quan trọng cần phải quan tâm giải quyết. Đó
là:
- Doanh nghiệp không biết áp dụng như thế nào để
đủ căn cứ pháp lý và có chứng từ hợp lệ khi sử dụng kinh phí từ Quỹ. Tại
Bà Rịa – Vũng Tàu có thời điểm, một doanh nghiệp trích 5 tỷ đồng cho
Quỹ, nhưng không biết cách giải ngân nguồn vốn này.
- Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật quy định sử
dụng Quỹ có nhiều điều khoản còn chưa hợp lý, cách hiểu về tính chất
nguồn vốn của Quỹ của các cơ quan tài chính nhiều địa phương không đồng
nhất, có khi gây khó khăn, cản trở cho doanh nghiệp khi quyết toán thuế
hàng năm.
Nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong
quá trình sử dụng nguồn vốn thuộc Quỹ, bài viết xin tập trung vào các
nội dung: (1) Chỉ ra những văn bản pháp lý, hướng áp dụng đối với những
nội dung doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong quá trình thực hiện; (2)
Đề cập tới những vấn đề chưa hợp lý của cơ quan nhà nước liên quan đến
sử dụng Quỹ của doanh nghiệp; (3) Từ đó đưa ra đề xuất, khuyến nghị nhằm
phát triển loại hình Quỹ này.
Những vấn đề doanh nghiệp cần biết khi sử dụng nguồn vốn Quỹ
Theo quy định tại Điều 5, Thông tư 15 và Điều 2,
Thông tư 105 (sửa đổi Thông tư 15) nguồn vốn của Quỹ được sử dụng cho
các nội dung sau đây:
1. Thực hiện các đề tài, dự án KH&CN của doanh nghiệp tại Việt Nam.
2. Hỗ trợ phát triển KH&CN của doanh nghiệp
tại Việt Nam: a) Trang bị cơ sở vật chất – kỹ thuật cho hoạt động
KH&CN của doanh nghiệp (xây dựng phòng thí nghiệm, cơ sở thử nghiệm,
máy móc trang thiết bị phục vụ cho nghiên cứu và phát triển); b) Mua
máy móc, thiết bị để đổi mới công nghệ trực tiếp sử dụng vào việc sản
xuất sản phẩm của doanh nghiệp; c) Mua bản quyền công nghệ, quyền sử
dụng, quyền sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp,
thông tin KH&CN, các tài liệu, sản phẩm có liên quan để phục vụ cho
hoạt động KH&CN của doanh nghiệp theo quy định của Luật CGCN; d) Trả
lương, chi thuê chuyên gia hoặc hợp đồng với tổ chức KH&CN để thực
hiện các hoạt động KH&CN của doanh nghiệp; đ) Chi phí cho đào tạo
nhân lực KH&CN của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về
KH&CN; e) Chi cho các hoạt động sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý
hoá sản xuất; f) Chi phí cho các hoạt động hợp tác nghiên cứu, triển
khai về KH&CN với các tổ chức, doanh nghiệp trong nước.
Với các quy định như trên thấy rằng, nội dung đề cập
doanh nghiệp được phép sử dụng Quỹ rất rộng, nhưng thiếu cụ thể, liên
quan đến văn bản quy phạm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính điều này
khiến các doanh nghiệp gặp lúng túng trong quá trình triển khai thực
hiện. Vì vậy, để giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn những quy định trong
một số trường hợp thường hay vướng mắc, xin đưa ra một số gợi ý như sau:
Đối với việc “Thực hiện các đề tài, dự án KH&CN của doanh nghiệp tại Việt Nam”
Theo quy định của Thông tư 15: “Đề tài, dự án
KH&CN của doanh nghiệp phải được xây dựng và chịu trách nhiệm, tổ
chức thực hiện theo những quy định của Nhà nước về thủ tục xét duyệt,
nghiệm thu (có hội đồng đánh giá đầu vào, hội đồng đánh giá nghiệm thu
kết quả đầu ra)…”.
Cho đến nay, chưa có văn bản quy định của Nhà nước về
thủ tục xét duyệt, nghiệm thu đối với các đề tài, dự án KH&CN của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở cấp nhà nước, Bộ KH&CN đã ban hành các
văn bản liên quan đến quản lý các đề tài/dự án cấp nhà nước, cụ thể:
Quyết định 101, Quyết định 112, Thông tư 073, Thông tư 124, Thông tư 085, Thông tư liên tịch 936 Thông tư liên tịch 447; Thông tư 118.
Nội dung các văn bản trên quy định cụ thể trình tự,
thủ tục, hồ sơ xét duyệt, nghiệm thu, sử dụng kinh phí, cùng các biểu
mẫu liên quan thuyết minh/báo cáo tổng kết đề tài, dự án ở cấp nhà nước.
Trên cơ sở các văn bản này, Sở KH&CN các tỉnh/thành phố đã vận dụng
để xây dựng các văn bản quy định cụ thể việc quản lý các đề tài/dự án
sử dụng ngân sách sự nghiệp khoa học tại địa phương. Do vậy, các doanh
nghiệp cũng có thể nghiên cứu các văn bản trên để xây dựng những quy
định cụ thể tại đơn vị cho phù hợp.
Đối với nội dung quy định“Mua bản quyền công nghệ, quyền sử dụng, quyền sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp”
Việc “Mua bản quyền công nghệ, quyền sử dụng, quyền
sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp”, về thực chất
đây là quá trình tiếp nhận công nghệ, hay là doanh nghiệp thực hiện
CGCN (với tư cách là bên nhận công nghệ) để đổi mới công nghệ tại doanh
nghiệp. Về nội dung này, cần lưu ý:
- Theo Nghị định 133 [9] của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn một số điều của Luật CGCN, doanh nghiệp được phép tham
gia thực hiện CGCN đối với các công nghệ không bị cấm. Việc mua bán
công nghệ phải được lập hợp đồng CGCN. Đối với các công nghệ không bị
cấm, doanh nghiệp có thể đăng ký hoặc không đăng ký Hợp đồng CGCN với cơ
quan quản lý KH&CN tại địa phương (Sở KH&CN) nhưng nếu đăng ký
thì
sẽ được hưởng ưu đãi với các nội dung liên quan. Đối
với các công nghệ hạn chế chuyển giao, bắt buộc doanh nghiệp phải đăng
ký với Bộ KH&CN. Danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao, công
nghệ hạn chế chuyển giao, công nghệ cấm chuyển giao được quy định tại
Điều 5 Nghị định 133.
- Giá công nghệ do doanh nghiệp và đối tác thoả thuận
(Điều 22, Luật CGCN). Tuy nhiên, khi doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước
(chiếm tỷ lệ 51% trở lên), để nhận CGCN trong dự án đầu tư, doanh nghiệp
phải lập phương án nhận CGCN, trong đó nêu rõ nội dung CGCN và giá ước
tính của công nghệ để trình cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư
(Điều 4, Nghị định 133).
Trường hợp “Mua máy móc, thiết bị để đổi mới công nghệ trực tiếp sử dụng vào việc sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp”
Đến nay, cũng chưa có văn bản hướng dẫn của cơ quan
quản lý nhà nước về thủ tục xác nhận việc mua máy móc, thiết bị để đổi
mới công nghệ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, qua việc triển khai thực tiễn
tại địa phương, để có cơ sở cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận
“máy móc, thiết bị để đổi mới công nghệ của doanh nghiệp đảm bảo thay
thế một phần hay toàn bộ công nghệ đã, đang sử dụng bằng công nghệ khác
tiên tiến hơn”, doanh nghiệp cần xây dựng dự án hoặc phương án mua máy
móc, thiết bị trước khi mua và báo cáo kết quả thực hiện (trong đó cần
phân tích rõ hiện trạng và kết quả đạt được sau khi đưa máy móc, thiết
bị vào sử dụng) gửi cho cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN tại địa
phương (Sở KH&CN).
Nhằm hạn chế nhập các công nghệ, máy móc thiết bị cũ
lạc hậu vào Việt Nam, mới đây Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 17
[13], quy định cụ thể đối với việc nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó có một số nội dung quan
trọng, các doanh nghiệp cần hết sức lưu ý trong quá trình triển khai
thực hiện: “ Chỉ được nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công
nghệ mới, ưu tiên nhập khẩu máy móc, thiết bị có trình độ công nghệ tiên
tiến, cao phì hợp với dự án đầu tư đã được phê duyệt, khuyến khích nhập
khẩu máy móc, thiết bị có tính năng vượt trội về tiết kiệm năng lượng
và tài nguyên, thân thiện môi trường; Trong trường hợp cần thiết phải
nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng, phải
đáp ứng các yêu cầu theo hướng dẫn của Bộ KH&CN; Không nhập khẩu máy
móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ mà các nước đã công bố loại bỏ vì
lạc hậu, chất lượng kém, gây ô nhiễm môi trường…” (Mục 5, Chỉ thị 17).
Về nội dung “Chi cho các hoạt động sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất”
Để một sáng kiến được công nhận, phải được thông qua
Hội đồng. Thành phần của Hội đồng sáng kiến được quy định tại Điều 8,
Nghị định 13 [10]: “Hội đồng sáng kiến bao gồm những người có trình
độ chuyên môn về lĩnh vực có liên quan đến nội dung sáng kiến, đại diện
của tổ chức công đoàn nơi tác giả là công đoàn viên và các thành phần
khác theo quyết định của người đứng đầu cơ sở xét công nhận sáng kiến”.
Nội dung chi phí hoạt động sáng kiến bao gồm: Chi
phí tạo ra sáng kiến, chi phí áp dụng sáng kiến, trả thù lao, trả thưởng
cho tác giả sáng kiến và những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến
lần đầu (Điều 16, Nghị định 13).
Việc trả thù lao của chủ đầu tư tạo ra sáng kiến cho
tác giả sáng kiến và những người tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu theo
thoả thuận. Theo Nghị định 13: “Sáng kiến là giải pháp kỹ thuật,
giải pháp quản lý, giải pháp tác nghiệp, hoặc giải pháp ứng dụng tiến bộ
kỹ thuật được cơ sở công nhận nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
có tính mới trong phạm vi cơ sở đó; đã được áp dụng và áp dụng thử tại
cơ sở đó có khả năng mang lại lợi ích thiết thực; không thuộc đối tượng
loại trừ theo quy định” (Điều 3). Như vậy, sáng kiến cũng có thể là công nghệ nếu giải pháp thoả mãn tiêu chí quy định của Luật CGCN “Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”
(Điều 3.2). Sáng kiến cũng có thể là đối tượng sở hữu trí tuệ nếu được
xác lập và bảo hộ theo Luật Sở hữu trí tuệ [11]. Vì vậy, nếu các bên
không thoả thuận được, thì ngoài việc áp dụng theo quy định (Điều 10,
Nghị định 13) về sáng kiến, còn có thể vận dụng Luật CGCN, Luật Sở hữu
trí tuệ hoặc Luật KH&CN 2013 [14] để làm cơ sở thanh toán khi xét
thấy phù hợp. Theo quy định của Luật KH&CN 2013 (có hiệu lực thi
hành từ 01 tháng 01 năm 2014) thì: “Lợi nhuận thu được từ việc sử
dụng, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng, góp vốn bằng kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước
được chia cho tác giả tối thiểu 30%” (Điều 43, Luật KH&CN 2013).
Một số vấn đề thuộc trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan
a) Tỷ lệ trích lập: hiện nay mức quy định tỷ lể trích
lập là tối đa 10% thu nhập tính thuế hàng năm áp dụng cho tất cả mọi
loại hình doanh nghiệp (Điều 17.1. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp). Quy
định này chưa phù hợp với loại hình doanh nghiệp nhỏ. Đây cũng là ý
kiến nêu lên tại Hội thảo ở Bình Phước “Tỷ lệ trích Quỹ nên phân theo các mức khác nhau (doanh nghiệp lớn, vừa, nhỏ và siêu nhỏ)” [7]. Đồng thời cần “Mở rộng đối tượng lập Quỹ cho các doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp mới thành lập chưa có lãi, các hợp tác xã, làng nghề”[7].
b) Một số quy định của Nhà nước chưa phù hợp với tính chất hoạt động KH&CN.
- Tại Điều 5.1.1, Thông tư 15 quy định “Cấp kinh phí để thực hiện các đề tài, dự án KH&CN của doanh nghiệp tại Việt Nam”: “Kết
quả đề tài được hội đồng KH&CN đánh giá, nghiệm thu đạt yêu cầu
theo quy định về KH&CN, được áp dụng vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp”. Điều này chưa phù hợp bởi lẽ: hoạt động
KH&CN bao gồm nhiều công đoạn: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng
dụng, triển khai thực nghiệm, sản xuất thử nghiệm. Tính chất của hoạt
động KH&CN tiềm ẩn nhiều rủi ro, hoạt động R&D từ nghiên cứu cơ
bản đến sản xuất thử nghiệm,… không phải bao giờ cũng thành công. Theo
tổng kết của UNESCO thì tỷ lệ thành công của hoạt động nghiên cứu cơ
bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai tương ứng là 25%, 40%,
60% [12]. Nếu cứ hiểu theo quy định trên, thì những đề tài/ dự án mà kết
quả nghiên cứu thất bại (không đáp ứng mục tiêu đề tài,
dự án đặt ra), doanh nghiệp không thể đưa vào áp dụng, thì phải chăng
sẽ không được sử dụng kinh phí của Quỹ? Hay quá trình nghiên cứu, doanh
nghiệp biết kết quả áp dụng sẽ thất bại, không nên sản xuất đại trà,
nhưng doanh nghiệp vẫn phải áp dụng để được sử dụng kinh phí từ Quỹ?
Theo chúng tôi, trong quy định nêu trên nên bỏ đoạn “được áp dụng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”.
- Điều 2, Thông tư 105 quy định “Chi phí cho các hoạt
động hợp tác nghiên cứu, triển khai về KH&CN với các tổ chức, doanh
nghiệp trong nước”:
- Các hoạt động hợp tác nghiên cứu, triển khai về
KH&CN theo các danh mục thuộc lĩnh vực KH&CN được cơ quan có
thẩm quyền ban hành hoặc cho phép nghiên cứu, triển khai (như Danh mục
công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển, Danh mục sản phẩm công
nghệ cao được khuyến khích phát triển được ban hành kèm theo Quyết định
số 49/2010/QĐ-TTg ngày 19.7.2010 của Thủ tướng Chính phủ…).
- Các tổ chức, doanh nghiệp trong nước là
các tổ chức, doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật và
có chức năng nhiệm vụ theo đúng chuyên ngành cần hợp tác nghiên cứu".
Hoạt động R&D diễn ra hết sức đa dạng, phong phú,
các văn bản pháp quy của Nhà nước hiện chưa thể cập nhật, điều chỉnh
kịp thời. Đến nay, chỉ có các văn bản quy phạm pháp luật về danh mục
công nghệ cấm chuyển giao, công nghệ hạn chế chuyển giao hoặc danh mục
công nghệ khuyến khích chuyển giao (Nghị định 133); danh mục công nghệ
cao được ưu tiên đầu tư phát triển và danh mục sản phẩm công nghệ cao
được khuyến khích phát triển (Quyết định số 49/2010/QĐ-TTg ngày
19.7.2010 của Thủ tướng Chính phủ); hoặc danh mục các lĩnh vực cá nhân
được thành lập tổ chức KH&CN (Quyết định 97/2009/QĐ-TTg ngày
24.7.2009). Do vậy, doanh nghiệp hoàn toàn được phép nghiên cứu và hợp
tác nghiên cứu với các đối tác những vấn đề mà Nhà nước không cấm. Hơn
nữa, việc hợp tác có thể từ hai bên trở lên, đối với những vấn đề phục
vụ cho chính nhu cầu cải tiến, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, hoặc đáp ứng cho nhu cầu thị trường, nếu xét thấy kết quả
nghiên cứu đó có khả năng sinh lời. Hình thức hợp tác có thể cử cán bộ
có trình độ chuyên môn kỹ thuật phối hợp thực hiện nghiên cứu, hoặc cùng
với các doanh nghiệp khác đầu tư vốn cho một tổ chức KH&CN nào đó
nghiên cứu. Với những tình huống đã nêu, thì nội dung quy định đối với
“Chi phí cho các hoạt động hợp tác nghiên cứu, triển khai về KH&CN
với các tổ chức, doanh nghiệp trong nước” trên đây là chưa phù hợp,
thiếu thực tế, cản trở đến sự phát triển KH&CN nói chung cũng như
gây khó khăn cho việc quyết toán kinh phí sử dụng Quỹ của doanh nghiệp
nói riêng.
c) Về tính chất của nguồn vốn Quỹ
Thời gian qua, một số doanh nghiệp khi quyết toán
kinh phí sử dụng vốn Quỹ bị cơ quan tài chính tại một số địa phương
không đồng ý các khoản chi thuộc đề tài/dự án mà doanh nghiệp đã triển
khai thực hiện, với lý do định mức chi cho các đề tài/dự án vượt quá
định mức chi cho các đề tài/dự án có sử dụng ngân sách nhà nước theo
“Thông tư liên tịch số 44/2007/ TTLT-BTC-BKHCN ngày 7.5.2007” (Thông tư
44), với lập luận: “Nếu như doanh nghiệp không trích lập Quỹ, thì 25% số
kinh phí này phải nộp vào ngân sách nhà nước (nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp). Do vậy, doanh nghiệp sử dụng Quỹ này coi như sử dụng kinh phí
có sử dụng ngân sách nhà nước” (mặc dù vốn của doanh nghiệp hoàn toàn là
100% tư nhân). Một lãnh đạo của một cơ quan thuộc Bộ KH&CN cho
biết, chính bởi quan điểm này, có doanh nghiệp đã trích lập Quỹ cả 4.000
tỷ đồng, nhưng không thể giải ngân được…
Liên quan đến vấn đề này, hiện có nhiều quan điểm
khác nhau. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân của các tác giả (ngoại trừ
trường hợp doanh nghiệp có vốn nhà nước, bài viết tạm chưa bàn đến) đối
với doanh nghiệp có 100% vốn không phải của Nhà nước, kinh phí sử dụng
từ Quỹ không thể được coi là kinh phí có sử dụng ngân sách. Bởi vì, số
kinh phí trích nộp có đến 3/4 đương nhiên là của doanh nghiệp, không cần
bàn cãi. Đồng thời nếu như doanh nghiệp thấy việc sử dụng nguồn vốn này
khó khăn, rất có thể doanh nghiệp không trích lập Quỹ nữa mà chuyển
sang mục đích đầu tư khác. Do vậy, doanh nghiệp không bắt buộc phải áp
dụng định mức chi cho các đề tài/dự án theo Thông tư 44 đã ban hành. Hơn
nữa, định mức chi theo Thông tư 44, so với thời điểm hiện nay đã quá
lạc hậu, quá thấp, không phù hợp với định mức chi cho đề tài/dự án doanh
nghiệp thực hiện trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, càng không
thể áp dụng để chi cho các chuyên gia là người nước ngoài (nếu có) hỗ
trợ doanh nghiệp trong quá trình thực hiện nghiên cứu đổi mới công nghệ
tại doanh nghiệp.
Đề xuất, khuyến nghị
Trong giai đoạn hiện nay, việc khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư cho hoạt động R&D là quan trọng và cần thiết. Đặc
biệt, việc hình thành Quỹ phát triển KH&CN tại các doanh nghiệp là
một yếu tố hết sức ý nghĩa đối với quá trình đổi mới KH&CN ở Việt
Nam. Nếu như tất cả các doanh nghiệp Việt Nam đều thành lập Quỹ này, sẽ
tạo ra một nguồn kinh phí rất lớn đầu tư cho KH&CN. Từ đó, giúp xã
hội hoá hoạt động KH&CN, hỗ trợ tích cực vào quá trình đổi mới công
nghệ tại các doanh nghiệp. Kinh phí từ ngân sách nhà nước đầu tư cho
KH&CN sẽ chỉ tập trung vào những vấn đề lớn, trọng điểm, thực sự tạo
ra những sức bật, đòn bẩy cho nền kinh tế.
Dưới góc độ nghiên cứu từ cơ quan quản lý nhà nước về
KH&CN, thấy rằng bên cạnh việc quan tâm làm sao các Quỹ phải được
doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích, cần lưu ý đến việc đưa ra các quy
định và cơ chế sử dụng kinh phí Quỹ phải hợp tình, hợp lý cho doanh
nghiệp nhằm đáp ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Vì
vậy xin đưa một số ý kiến đề xuất, khuyến nghị như sau:
Đối với các doanh nghiệp (đã, đang và sẽ có ý định) thành lập Quỹ,
cần cụ thể hoá các nội dung được phép trích lập, sử dụng Quỹ trong Điều
lệ hoạt động. Cử cán bộ chuyên trách, hoặc bộ phận chuyên trách xây
dựng các định mức, quy chế, quy trình, thủ tục cụ thể về việc sử dụng
kinh phí Quỹ theo từng nội dung được phép sử dụng để áp dụng trong nội
bộ, làm cơ sở quản lý việc sử dụng Quỹ tại doanh nghiệp, đồng thời làm
cơ sở pháp lý quyết toán thuế với cơ quan nhà nước.
Đối với cơ quan quản lý KH&CN tại các địa phương,
cử bộ phận chuyên trách hỗ trợ, giúp các doanh nghiệp trong quá trình
triển khai thực hiện. Tham mưu cho UBND tỉnh/thành phố ban hành văn bản
quy phạm pháp luật theo thẩm quyền, quy định việc triển khai thực hiện
việc trích lập, sử dụng, quyết toán thuế khi sử dụng nguồn vốn Quỹ, làm
cơ sở cho các sở, ban ngành và các doanh nghiệp triển khai thực hiện tại
địa phương.
Đối với Bộ KH&CN và các bộ/ngành liên quan:
cần quan tâm nắm bắt tình hình triển khai Quỹ tại các địa phương để
chỉnh sửa, bổ sung hoặc đề xuất cho cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh, bổ
sung các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành nhằm phát triển loại
hình Quỹ này. Trong đó:
Trường Quản lý KH&CN của Bộ KH&CN cần xây
dựng chuyên đề về các loại Quỹ liên quan đến hoạt động KH&CN nói
chung cũng như Quỹ phát triển KH&CN doanh nghiệp nói riêng, đưa nội
dung này vào chương trình tập huấn thường xuyên hàng năm, đồng thời mời
các giảng viên am hiểu cả về lý thuyết và thực tiễn, đặc biệt có kinh
nghiệm về việc xử lý tình huống trích lập và sử dụng kinh phí Quỹ của
doanh nghiệp để tham gia tập huấn cho các địa phương.
Cơ quan chịu trách nhiệm về phát triển KH&CN địa
phương của Bộ KH&CN cần sâu sát hơn với tình hình cơ sở, hàng năm tổ
chức hội thảo với chủ đề phát triển Quỹ, tạo diễn đàn cho các doanh
nghiệp và cơ quan quản lý KH&CN chia sẻ kinh nghiệm và học tập các
mô hình triển khai tốt tại các địa phương.
Chú thích và tài liệu tham khảo
1 Quyết định số 10/2007/QĐ-BKHCN ngày 11.5.2007 của
Bộ trưởng Bộ KH&CN về việc ban hành Quy định tuyển chọn, xét chọn tổ
chức, cá nhân chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp nhà nước.
2 Quyết định số 11/2007/QĐ-BKHCN ngày 4.6.2007 của Bộ
trưởng Bộ KH&CN về Quy định tuyển chọn, xét chọn tổ chức, cá nhân
chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học xã hội và nhân văn cấp nhà nước.
3 Thông tư số 07/2009/TT-BKHCN ngày 3.4.2009 của Bộ
trưởng Bộ KH&CN về Hướng dẫn đánh giá, nghiệm thu đề tài khoa học xã
hội cấp nhà nước.
4 Thông tư số 12/2009/TT-BKHCN ngày 8.5.2009 của Bộ
trưởng Bộ KH&CN về Hướng dẫn đánh giá, nghiệm thu đề tài KHCN, dự án
sản xuất thử nghiệm cấp nhà nước.
5 Thông tư 08/2011/TT-BKHCN ngày 30.6.2011 của Bộ
KH&CN sửa đổi, bổ sung một số điều của các Quy định ban hành theo
Quyết định số 10/2007/QĐ-BKHCN ngày 11.5.2007 và Quyết định số
11/2007/QĐ-BKHCN ngày 4.6.2007 của Bộ trưởng Bộ KH&CN.
6 Thông tư liên tịch số 93/2006/TTLT-BTC-KHCN ngày
4.10.2006 của liên Bộ KH&CN – Tài Chính về Hướng dẫn chế độ khoán
kinh phí của đề tài, dự án KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước.
7Thông tư liên tịch số 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN ngày
7.5.2007 của liên Bộ Tài chính và KH&CN về Hướng dẫn định mức xây
dựng và phân bổ dự toán kinh phí đối với các đề tài, dự án KH&CN có
sử dụng ngân sách nhà nước.
8 Thông tư số 11/2013/TT-BKHCN ngày 29.3.2013 của Bộ KH&CN hướng dẫn quản lý dự án KH&CN.
[1] Luật KH&CN số 21/2000/QH10 ngày 9.6.2000.
[2] Luật CGCN số 80/2006/QH11 ngày 29.11.2006.
[3] Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 ngày 3.6.2008.
[4] Quyết định 36/2007/QĐ-BTC ngày 16.5.2007 của Bộ
Tài chính về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ phát
triển KH&CN của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp.
[5] Thông tư 15/2011/TT-BTC ngày 9.2.2011 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thành lập, tổ chức, hoạt động, quản lý và sử dụng Quỹ
phát triển KH&CN của doanh nghiệp.
[6] Thông tư số 105/2012/TT-BTC ngày 25.6.2012 của Bộ
Tài chính sửa đổi, bổ sung Thông tư số 15/2011/TT-BTC ngày 9.2.2011 của
Bộ Tài chính hướng dẫn thành lập, tổ chức, hoạt động, quản lý và sử
dụng Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp.
[9] Nghị định 133/2008/NĐ-CP ngày 31.12.2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật CGCN.
[10] Nghị định số 13/2012/NĐ-CP ngày 02/3/2012 của Chính phủ về ban hành Điều lệ Sáng kiến.
[11] Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005; và Luật sửa đổi bổ sung Luật sở hữu trí tuệ 2009.
[12] Nguyễn Danh Sơn (2001), Nghiên cứu hình thành và
cơ chế hoạt động của hệ thống của quỹ hỗ trợ tài chính cho hoạt động
KH&CN ở Việt Nam, Đề tài cấp bộ, Bộ KH&CN 8/2001.
[13] Chỉ thị 17/CT-TTg ngày 09 tháng 8 năm 2013 của
Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường quản lý, kiểm soát việc nhập khẩu
công nghệ, máy móc, thiết bị của doanh nghiệp.
[14] Luật KH&CN số 29/2013/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2013.
SOURCE: TẠP CHÍ VÀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, SỐ 18 NĂM 2013 (661)TRA CỨU BÀI VIẾT CÙNG TÁC GIẢ TẠI ĐÂY
0 comments:
Post a Comment