Tuesday, January 21, 2014

VẤN ĐỀ HIỆU LỰC CỦA GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN – KHOA PL KINH TẾ – ĐHL HÀ NỘI
Trong thực tiễn pháp lí ở nước ta, việc xác định một giao dịch pháp lí nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại nói riêng có hiệu lực hay không luôn là vấn đề phức tạp và thường gây nhiều tranh luận. Điều này có liên quan trực tiếp đến lợi ích chung của xã hội cũng như lợi ích riêng của các bên tham gia vào giao dịch mà Nhà nước là người có sứ mệnh phải bảo vệ. Vì lẽ đó, việc làm rõ vấn đề hiệu lực của giao dịch pháp lí nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng nói riêng, thiết nghĩ cũng nên xem là việc làm hữu ích cả về phương diện lí luận cũng như thực tiễn.
Bài viết này xin trao đổi một vài ý kiến xung quanh vấn đề hiệu lực của giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại, với tính cách là loại hình giao dịch dân sự đặc thù phát sinh trong đời sống pháp lí ở nước ta cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới.
1. Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại
Hiệu lực pháp lí của giao dịch nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại nói riêng, thực chất là sự thừa nhận của Nhà nước về những hệ quả pháp lí phát sinh bởi hành vi giao dịch của ngân hàng thương mại đối với khách hàng. Việc thừa nhận hiệu lực của một giao dịch pháp lí được Nhà nước thực hiện bằng cách quy định các điều kiện có hiệu lực của giao dịch và các nguyên tắc xác định hiệu lực của giao dịch đó. Ở nước ta, các điều kiện này được quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005 và đương nhiên chúng được áp dụng chung cho mọi giao dịch, trong đó có giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại.
Theo suy nghĩ của chúng tôi, để nhận thức đúng về bản chất, nội dung của mỗi điều kiện có hiệu lực và từ đó có cách thức áp dụng chính xác các điều kiện này đối với giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại, cần lưu ý đến những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về điều kiện “người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự”. Với tính cách là một chủ thể nhân tạo trong đời sống pháp luật, pháp nhân ngân hàng thương mại cũng có năng lực hưởng quyền và năng lực thực hiện các quyền (năng lực hành vi) giống như mọi pháp nhân khác. Tuy pháp luật thực định của nước ta không quy định rõ thế nào là năng lực hành vi dân sự của ngân hàng thương mại nhưng về lí thuyết có thể hiểu đó chính là khả năng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của ngân hàng thương mại thông qua người đại diện hợp pháp của nó. Khả năng này (năng lực hành vi dân sự của ngân hàng thương mại) được xác định bởi hai yếu tố cơ bản sau:
- Tư cách pháp nhân của ngân hàng thương mại.
Sở dĩ phải coi tư cách pháp nhân là yếu tố đầu tiên hợp thành năng lực hành vi dân sự của ngân hàng thương mại là bởi vì, giống như bất kì pháp nhân nào, ngân hàng thương mại chỉ có khả năng thực hiện được các quyền, nghĩa vụ pháp lí của mình (nghĩa là chỉ có năng lực hành vi) khi nó có đầy đủ các điều kiện của một pháp nhân (được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình trong các quan hệ pháp luật). Nói như vậy có nghĩa, chỉ khi nào ngân hàng thương mại được Nhà nước công nhận là một pháp nhân thì khi đó nó mới được Nhà nước thừa nhận là có năng lực chủ thể (bao gồm năng lực hưởng quyền và năng lực thực hiện quyền – năng lực hành vi). Đối với pháp nhân ngân hàng thương mại, tư cách pháp nhân được xác định dựa trên hai bằng chứng có ý nghĩa quyết định là giấy phép thành lập – hoạt động ngân hàng và giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cấp. Nếu thiếu một trong hai bằng chứng này, có thể xem như ngân hàng thương mại chưa có năng lực hành vi dân sự theo đúng nghĩa.
- Năng lực và thẩm quyền đại diện của người đại diện hợp pháp cho ngân hàng thương mại.
Sở dĩ phải coi năng lực và thẩm quyền đại diện của người đại diện hợp pháp cho ngân hàng thương mại là yếu tố hợp thành năng lực hành vi dân sự của ngân hàng thương mại là bởi vì, về nguyên tắc ngân hàng thương mại chỉ có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ của nó thông qua các thể nhân có tư cách là người đại diện hợp pháp cho nó. Từ quan niệm này, có thể khẳng định nếu thể nhân là người đại diện hợp pháp cho ngân hàng thương mại không có năng lực tiếp nhận quyền và thực hiện các quyền đó thay cho và nhân danh ngân hàng thương mại thì coi như ngân hàng thương mại đã không có khả năng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong quan hệ pháp luật với chủ thể khác (nghĩa là không có năng lực hành vi). Mặt khác, cũng có thể xem như giao dịch thương mại của ngân hàng đã vi phạm điều kiện này khi có bằng chứng chứng minh rằng người xưng danh đại diện của ngân hàng thương mại không có thẩm quyền đại diện ngân hàng để xác lập và thực hiện giao dịch với khách hàng.
Thứ hai, về điều kiện “mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã hội”. Đây là điều kiện được pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi công, xét trong mối quan hệ tương hỗ với quyền lợi tư của các bên giao dịch. Đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại, mục đích và nội dung giao dịch không chỉ phản ánh lợi ích của các bên mà còn bị chi phối bởi chính các lợi ích đó. Mục đích của giao dịch thương mại giữa ngân hàng và khách hàng sẽ bị coi là trái pháp luật và đạo đức xã hội khi giao dịch đó được các bên xác lập nhằm vi phạm các quy tắc pháp lí đã được Nhà nước xây dựng để bảo vệ quyền lợi chung hoặc nhằm xâm hại các giá trị đạo đức đã được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Ví dụ, nếu ngân hàng và khách hàng giao kết hợp đồng tài khoản tiền gửi là để giúp cho khách hàng thực hiện hành vi “rửa tiền” đối với nguồn thu nhập do phạm pháp mà có thì giao dịch này được xem là có mục đích trái pháp luật. Còn nội dung của giao dịch thương mại ngân hàng sẽ bị coi là trái pháp luật và đạo đức xã hội khi các điều khoản được cam kết bởi ngân hàng và khách hàng đã vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc vi phạm các chuẩn mực đạo đức đã được Nhà nước thừa nhận. Ví dụ, Ngân hàng A kí kết hợp đồng tín dụng để cho vay đối với khách hàng là con đẻ của Tổng giám đốc ngân hàng A. Giao dịch này có nội dung vi phạm điểm c khoản 1 Điều 77 Luật các tổ chức tín dụng nên về nguyên tắc giao dịch sẽ đương nhiên vô hiệu ngay từ khi xác lập.
Thứ ba, về điều kiện “người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”. Điều kiện này liên quan mật thiết với điều kiện về năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia giao dịch. Chỉ khi nào xác định rõ chủ thể giao dịch có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì việc xác định tính tự nguyện và tự do ý chí của chủ thể đó mới chính xác và khoa học. Đối với chủ thể giao dịch là pháp nhân ngân hàng thương mại, việc xác định tính tự nguyện và tự do ý chí có phần khác biệt và phức tạp hơn so với chủ thể giao dịch là thể nhân. Điều này thể hiện ở chỗ, ý chí của pháp nhân ngân hàng thương mại thực chất là ý chí tập thể của các thành viên pháp nhân và ý chí này thường được thể hiện thông qua các quyết định của tập thể thành viên pháp nhân hoặc thể hiện thông qua hành vi của những người đại diện hợp pháp cho pháp nhân ngân hàng thương mại.
Có thể lưu ý đến hai tiêu chí cơ bản để xác định mức độ tự nguyện của ngân hàng thương mại khi xác lập giao dịch với khách hàng, đó là:
- Mục đích và nội dung của giao dịch phải phù hợp với mục đích và chức năng hoạt động của ngân hàng thương mại như đã được ghi trong Điều lệ của ngân hàng.
Cơ sở khoa học của việc đưa ra tiêu chí này là, xét về bản chất, ngân hàng thương mại được thành lập ra chính là nhằm thực hiện các mục đích và chức năng hoạt động như đã được ghi trong Điều lệ của ngân hàng. Vì vậy, nếu những giao dịch do ngân hàng đó xác lập có mục đích và nội dung phù hợp với mục đích, tôn chỉ, chức năng hoạt động của ngân hàng thì mặc nhiên có thể coi đây là một trong những điều kiện cần có để khẳng định giao dịch đó được xác lập theo ý chí đích thực của ngân hàng.
- Hành vi xử sự của người đại diện cho ngân hàng thương mại khi xác lập giao dịch phải phù hợp với phạm vi thẩm quyền đại diện.
Sở dĩ phải dựa vào tiêu chí này là bởi vì, ý chí thực sự của ngân hàng thương mại về việc xác lập và thực hiện một giao dịch cụ thể thường được thể hiện tập trung và rõ nét nhất ở các văn bản xác định phạm vi thẩm quyền đại diện cho những người đại diện hợp pháp của ngân hàng thương mại. Do vậy, nếu người đại diện hợp pháp của ngân hàng thương mại hành xử hoàn toàn phù hợp với phạm vi thẩm quyền đại diện thì có thể xem như giao dịch đó được xác lập, thực hiện phù hợp với ý chí thực của ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong thực tiễn giao dịch, có những trường hợp mặc dù người đại diện hợp pháp của ngân hàng thương mại hành xử không phù hợp với phạm vi thẩm quyền đại diện nhưng sau đó chính ngân hàng thương mại lại chấp nhận ràng buộc với giao dịch do người này xác lập, bằng cách hoàn thiện các thủ tục uỷ quyền theo quy định của pháp luật thì về nguyên tắc, ngân hàng thương mại vẫn được xem là hoàn toàn tự nguyện tham gia giao dịch và do đó giao dịch vẫn có hiệu lực ràng buộc đối với ngân hàng thương mại.
Thứ tư, về điều kiện “hình thức của giao dịch”. Theo Bộ luật dân sự hiện hành (1995), hình thức của giao dịch dân sự phải phù hợp với quy định của pháp luật thì giao dịch mới có hiệu lực. Trong khi đó, Bộ luật dân sự năm 2005 lại quy định rằng “hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Rõ ràng, quy định mới này của Bộ luật dân sự năm 2005 nhằm hướng tới mục tiêu nới lỏng các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong thời đại kinh tế thị trường, nhất là điều kiện về hình thức của giao dịch. Đối với các giao dịch dân sự mang tính đặc thù như giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại, vấn đề hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi lẽ loại giao dịch này cần được pháp luật quy định chặt chẽ về mặt hình thức nhằm ngăn ngừa các rủi ro pháp lí cho các bên trong quá trình xác lập và thực hiện giao dịch.
Xuất phát từ yêu cầu này của thực tiễn giao dịch ngân hàng, pháp luật đòi hỏi hầu hết các giao dịch loại này phải được xác lập dưới hình thức văn bản. Theo tập quán giao dịch ngân hàng, khái niệm “văn bản giao dịch” trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng thường được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các văn bản, tài liệu giao dịch viết trên giấy và văn bản, tài liệu giao dịch thể hiện trên các phương tiện điện tử như fax, e-mail, điện tín hay các thông điệp điện tử khác… Quan điểm này cũng đã được thừa nhận trong khoản 1 Điều 124 Bộ luật dân sự năm 2005. Việc Nhà nước chấp nhận rộng rãi các hình thức giao dịch thương mại của ngân hàng (nhất là giao dịch thương mại của ngân hàng dưới hình thức điện tử) sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các giao dịch thương mại ngân hàng phát triển. Đến lượt mình, sự phát triển mạnh mẽ của các giao dịch thương mại ngân hàng sẽ là tiền đề thuận lợi cho việc đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đồng thời đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Sự vô hiệu của giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại và các nguyên tắc xử lí hậu quả vô hiệu
Trên nguyên tắc, khi một giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại không thoả mãn một trong số các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định thì giao dịch đó bị coi là vô hiệu và sự vô hiệu này, về lí thuyết có thể được nhìn nhận là ở trạng thái tuyệt đối (đương nhiên vô hiệu) hoặc tương đối (có thể vô hiệu).
Trong khoa học pháp lí, việc xác định trạng thái vô hiệu (tuyệt đối hoặc tương đối) của các giao dịch pháp lí nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng nói riêng thường dựa vào nguyên tắc cơ bản là: Nếu giao dịch được xác lập nhưng vi phạm những quy tắc pháp lí có mục đích bảo vệ lợi ích công hay trật tự công thì hậu quả kéo theo là giao dịch đó đương nhiên vô hiệu ngay từ khi xác lập (vô hiệu tuyệt đối) và bất kì ai quan tâm đến lợi ích chung đều có thể yêu cầu toà án tuyên bố vô hiệu. Ngược lại, nếu giao dịch được xác lập nhưng chỉ vi phạm các quy tắc pháp lí có mục đích bảo vệ lợi ích tư hay quyền lợi tư của các bên tham gia vào giao dịch thì hậu quả kéo theo là giao dịch đó có thể bị coi là vô hiệu (vô hiệu tương đối) và chỉ những người có quyền lợi bị xâm hại (bao gồm các bên của giao dịch hoặc người thứ ba không tham gia vào giao dịch nhưng có quyền lợi liên quan) mới có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu để bảo vệ quyền lợi của mình. Khi người ta nói một giao dịch bị vô hiệu tương đối hay tuyệt đối, điều đó không có nghĩa rằng giao dịch đó bất hợp pháp nhiều hay ít mà chỉ có nghĩa là xác định quyền lợi tương tranh giữa trật tự công và lợi ích tư, tuỳ theo bản chất của quy tắc pháp lí mà sự vi phạm quy tắc đó đã khiến cho giao dịch vô hiệu.
Trong pháp luật thực định của nước ta, tuy các nhà làm luật không quy định rõ thế nào là giao dịch vô hiệu tương đối và giao dịch vô hiệu tuyệt đối nhưng Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 đã thể hiện rõ quan điểm bảo vệ một cách khách quan, công bằng quyền lợi chung của cộng đồng xã hội cũng như quyền lợi riêng của các bên tham gia vào giao dịch. Thực tế cho thấy việc phân biệt giữa giao dịch vô hiệu tuyệt đối và giao dịch vô hiệu tương đối đã từng có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, đặc biệt là trong việc xác định hiệu lực của các giao dịch pháp lí trong điều kiện nền kinh tế thị trường với yêu cầu tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của các bên tham gia vào giao dịch.
Vậy, khi giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại bị vô hiệu (tương đối hay tuyệt đối) thì nguyên tắc xử lí hậu quả vô hiệu đối với các giao dịch đó là như thế nào?
Nhằm bảo vệ sự ổn định, tính an toàn của các giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại trong điều kiện nền kinh tế thị trường, Nhà nước có những quy định khác nhau về cơ chế giải quyết hậu quả vô hiệu đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại. Sự khác nhau này khởi phát từ nguyên tắc chung là cần tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên tham gia vào giao dịch và Nhà nước chỉ xem xét để tuyên bố giao dịch vô hiệu khi các bên có yêu cầu hoặc khi giao dịch được xác lập nhưng vi phạm các quy tắc pháp lí nhằm bảo vệ lợi ích chung và trật tự công. Để việc giải quyết hậu quả vô hiệu của giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại được khách quan, chính xác và đảm bảo tính khoa học, có lẽ cần xuất phát từ quan điểm phân biệt giữa giao dịch vô hiệu tuyệt đối và giao dịch vô hiệu tương đối làm tiền đề. Cụ thể là:
Thứ nhất, nếu giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại được xác lập nhưng vi phạm các quy tắc pháp lí nhằm bảo vệ lợi ích công (bao gồm: Giao dịch có nội dung và mục đích trái pháp luật hay trái đạo đức xã hội; giao dịch được xác lập nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc được xác lập không nhằm mục đích tạo ra các quyền, nghĩa vụ cho các bên…) thì về phương diện lí thuyết, có thể coi là trường hợp vô hiệu tuyệt đối. Để xử lí thoả đáng và hợp lí đối với trường hợp này, chúng tôi bày tỏ sự đồng tình với quan điểm khoa học của một số tác giả cho rằng cần quán triệt các quan điểm có tính nguyên tắc như sau:
- Giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại bị vô hiệu tuyệt đối sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên ngay từ thời điểm xác lập giao dịch. Các bên không thể có lựa chọn nào khác ngoài việc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu như trước khi xác lập giao dịch.
- Bất kì ai là người quan tâm (thường là những chủ thể có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) đến giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại đều có thể yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại bị vô hiệu.
- Thời hạn để yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại vô hiệu là không bị hạn chế.
- Phán quyết của toà án chỉ là sự xác nhận một tình trạng pháp lí đã tồn tại trước đó của quan hệ giao dịch – đó là tình trạng giao dịch không có hiệu lực pháp lí.
Thứ hai, những giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại được xác lập nhưng vi phạm các quy tắc pháp lí nhằm bảo vệ lợi ích riêng của các bên (bao gồm: Giao dịch được xác lập do người không có năng lực pháp luật và năng lực hành vi; giao dịch được xác lập không có sự tự nguyện của người tham gia giao dịch hoặc giao dịch không tuân thủ hình thức do pháp luật quy định) thì về phương diện lí thuyết, có thể xem là giao dịch vô hiệu tương đối. Thiết nghĩ, giải pháp hợp lí cho trường hợp này là Nhà nước phải tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên tham gia vào giao dịch mà quán triệt các quan điểm xử lí mang tính nguyên tắc như sau:
- Giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại bị vô hiệu tương đối là giao dịch ở trong tình trạng bấp bênh về hiệu lực pháp lí trong thời hạn yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Điều này có nghĩa sự vô hiệu của giao dịch là không chắc chắn và các bên có hai khả năng lựa chọn: a) Tìm cách khắc phục các nguyên nhân làm cho giao dịch vô hiệu – gọi là hoàn thiện giao dịch (ví dụ, sửa chữa các sai sót về thủ tục công chứng, thủ tục uỷ quyền, phục hồi lợi ích cho bên đối tác bị thiệt hại, thay đổi nội dung giao dịch cho phù hợp với ý chí của cả hai bên…) để làm cho giao dịch hoàn toàn có hiệu lực; hoặc b) Yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp các bên lựa chọn giải pháp hoàn thiện giao dịch thì mặc nhiên coi như đồng nghĩa với việc họ từ bỏ quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
- Chủ thể có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu chính là ngân hàng thương mại và khách hàng của họ. Tuy nhiên, để tránh nguy cơ khách hàng cố ý “trục lợi” đối với ngân hàng bằng thủ đoạn yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch ngân hàng vô hiệu trong khi chính khách hàng có lỗi thì cần chấp nhận nguyên tắc: Chỉ bên tham gia vào giao dịch có quyền lợi bị xâm hại hoặc người thứ ba có liên quan đến quyền lợi bị xâm hại mới có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch thương mại ngân hàng vô hiệu; còn bên có lỗi trong việc làm cho giao dịch có nguy cơ vô hiệu thì không có quyền này.
- Thời hạn yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu là hạn chế. Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, thời hạn này là 1 năm, còn Bộ luật dân sự năm 2005 lại quy định thời hạn này là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập. Nếu quá thời hạn này mà người có quyền yêu cầu đã không yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu thì giao dịch sẽ không thể bị huỷ bỏ sau đó nhưng không vì thế mà giao dịch đương nhiên được coi là có hiệu lực trở lại, trừ trường hợp các bên đã tiến hành khôi phục lại những điều kiện cần và đủ để cho nó có hiệu lực.
- Phán quyết của toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu là sự kiện pháp lí làm chấm dứt hoàn toàn tình trạng bấp bênh về hiệu lực pháp lí của giao dịch, theo đó giao dịch chính thức bị huỷ bỏ và không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
Thiết nghĩ, các quan điểm mang tính nguyên tắc trên đây hoàn toàn có thể áp dụng chung cho việc xử lí hậu quả vô hiệu của các loại hình giao dịch pháp lí trong đời sống xã hội hiện đại, trong đó có giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, thực tiễn xử lí hậu quả vô hiệu của các giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại trong thời gian qua ở nước ta cho thấy khi áp dụng các nguyên tắc này để xử lí giao dịch thương mại của ngân hàng bị vô hiệu, cần lưu ý tới một số nét đặc thù sau đây:
Một là, việc toà án tuyên bố vô hiệu đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng có thể gây ra các hậu quả bất lợi cho phía ngân hàng cũng như bất lợi cho cả khách hàng của họ. Sự bất lợi này thể hiện ở chỗ, khi giao dịch thương mại của ngân hàng bị tuyên bố vô hiệu, không những các bên bắt buộc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu như trước khi xác lập giao dịch mà về phía ngân hàng, họ không thể đòi khách hàng phải trả lãi cho mình (trong thực tế, có nhiều trường hợp khoản tiền lãi là rất đáng kể). Còn về phía khách hàng, họ cũng không được quyền tiếp tục sử dụng nguồn vốn tín dụng của ngân hàng để hoàn thành kế hoạch kinh doanh hay dự án đầu tư đang thực hiện dở dang và do đó bắt buộc họ phải đi tìm nguồn tài trợ khác mà đôi khi việc làm này không hề dễ dàng và đơn giản. Ngoài ra, việc tuyên bố vô hiệu đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng còn gây hậu quả tổn hại về uy tín của ngân hàng và khách hàng trong kinh doanh. Đặc biệt, hậu quả lớn hơn là sự vô hiệu của các giao dịch thương mại ngân hàng đồng nghĩa với việc làm “đóng băng” sự luân chuyển của các dòng vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Điều này sẽ bất lợi cho việc phát triển nền kinh tế thị trường trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Xuất phát từ tính chất đặc thù như vậy về hậu quả của việc tuyên bố giao dịch thương mại ngân hàng vô hiệu, nên chăng các cơ quan có thẩm quyền tuyên bố giao dịch vô hiệu cần đặc biệt lưu ý nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên giao dịch để từ đó có giải pháp can thiệp hợp lí vào việc xác định hiệu lực của các giao dịch thương mại của ngân hàng. Các giải pháp này có thể là: a) Nếu giao dịch thương mại của ngân hàng được xác lập mà vi phạm các điều kiện có hiệu lực như: Mục đích, nội dung của giao dịch trái pháp luật và đạo đức xã hội hoặc hình thức của giao dịch không phù hợp pháp luật thì toà án có thể vì mục tiêu bảo vệ lợi ích chung mà tuyên bố vô hiệu ngay đối với giao dịch đó chứ không cần phải xác định xem ý chí của các bên giao dịch có mong muốn và yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu hay không; b) Nếu giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại được xác lập mà vi phạm các điều kiện có hiệu lực như chủ thể giao dịch không có năng lực hành vi hoặc người tham gia giao dịch không hoàn toàn tự nguyện thì toà án chỉ có thể xem xét để tuyên bố vô hiệu đối với giao dịch đó khi có yêu cầu của bên giao dịch có quyền lợi bị xâm hại hoặc người thứ ba có quyền lợi bị xâm hại.
Hai là, đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng, nguy cơ lừa đảo và trục lợi bất chính từ việc thiết lập và thực hiện giao dịch là rất lớn. Do vậy, việc toà án tuyên bố vô hiệu đối với các giao dịch thương mại của ngân hàng có thể “vô tình” tạo điều kiện cho bên có ý định trục lợi hay lừa đảo, thực hiện được ý định đó một cách dễ dàng và thuận lợi. Ví dụ, A có ý định trục lợi đối với ngân hàng, đã tìm cách tạo ra chứng cứ về việc vi phạm các điều kiện có hiệu lực trong quá trình giao kết hợp đồng tín dụng, chẳng hạn như việc cố tình giả mạo chữ kí của những người đồng sở hữu chủ tài sản bảo đảm tiền vay; cố ý không thực hiện việc công chứng hợp đồng bảo đảm tiền vay hoặc không thực hiện thủ tục uỷ quyền theo luật định… Sau khi đã được ngân hàng giải ngân, A dùng những chứng cứ này làm căn cứ yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng tín dụng vô hiệu nhằm mục đích chiếm dụng vốn của ngân hàng trong thời hạn nhất định để sử dụng cho công việc riêng của mình và tránh không phải trả lãi tiền vay cho ngân hàng. Từ ví dụ này, có thể nhận định rằng nếu toà án tuyên bố hợp đồng tín dụng vô hiệu thì người vay đã “đắc lợi” một cách vô căn cứ, còn bên cho vay là ngân hàng thì phải gánh chịu thiệt hại do bị khách hàng vay chiếm dụng vốn và không trả lãi tiền vay cho khoảng thời gian sử dụng vốn của ngân hàng. Có lẽ, giải pháp xử lí thích hợp cho tình huống này là: Khi có bằng chứng chứng minh một bên tham gia giao dịch có lỗi trong việc gây ra hậu quả vô hiệu cho giao dịch thì toà án phải “truất quyền” yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu đối với chủ thể đó nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bên tham gia giao dịch hoặc người thứ ba có quyền lợi bị xâm hại. Giải pháp này cần phải được xem là một trong những nguyên tắc cơ bản định hướng cho việc xử lí hậu quả vô hiệu đối với giao dịch nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại nói riêng trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta./.


.Xem: Khoản 2 Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005.
.Xem: Nguyễn Mạnh Bách, “Pháp luật về hợp đồng”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr. 75.
.Xem:
- PTS. Trần Đình Hảo, “Giao dịch dân sự và nghĩa vụ dân sự”, Báo cáo chuyên đề của đề tài: “Những vấn đề lí luận cơ bản về Bộ luật dân sự Việt Nam”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Hà Nội 1997, tr. 87.
- Trần Hữu Huỳnh, “Một vài vấn đề về hợp đồng vô hiệu trong pháp luật Việt Nam”, tài liệu Hội thảo về việc xử lí hợp đồng vô hiệu, Báo diễn đàn doanh nghiệp – câu lạc bộ luật gia Việt Đức, 2003.
. Quan điểm này đã được một số nhà khoa học đề cập trong các công trình nghiên cứu của mình. Xem: PTS. Trần Đình Hảo,“Giao dịch dân sự và nghĩa vụ dân sự”, Báo cáo chuyên đề của đề tài: “Những vấn đề lí luận cơ bản về Bộ luật dân sự Việt Nam”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Hà Nội 1997, tr. 89.
.Xem: Corinne Renault-Brahinsky, “Đại cương về pháp luật hợp đồng”, Nhà pháp luật Việt – Pháp, Hà Nội 2002, tr. 67.
. Về vấn đề này, Bộ luật dân sự Pháp quy định thời hạn yêu cầu tuyên huỷ một giao dịch pháp lí vô hiệu tương đối là 5 năm; còn Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan lại quy định thời hạn này là 1 năm kể từ ngày có sự phê chuẩn hoặc 10 năm kể từ ngày hành vi pháp lí (giao dịch) được thực hiện.
SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 6/2005

0 comments:

Post a Comment

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | LunarPages Coupon Code