Điều đáng ngạc nhiên là, một trong những đặc điểm chính của luật cải cái thuế năm 1987 là tăng thuế thu nhập công ty, đồng thời lại giảm thuế thu nhập cá nhân. Sự thay đổi nguồn thu là xấp xỉ 120 tỷ đôla sau thời kỳ 5 năm và được thúc đẩy bởi những tính toán chính trị hơn là do thay đổi trong quan điểm của Tổng thống Reagan về việc không muốn có thuế công ty. Để đạt được sự chấp thuận nhằm cải cách thuế thu nhập cá nhân mà Tổng thống Reagan cho là quan trọng thì thu thuế từ thuế thu nhập cá nhân phải giảm xuống. Để bù đắp phần thu đã bị giảm sút, phải tăng thu các loại thuế khác. Thuế công ty là một mục tiêu rõ ràng, cụ thể là từ năm 1981 và năm 1982, các luật thuế đã đưa ra những thuế suất rất không đồng đều đối với thu nhập từ các loại đầu tư vốn khác nhau. Việc loại bỏ bớt một số méo mó này sẽ tạo điều kiện để chính phủ hạ thuế suất công ty theo luật định, đồng thời tăng thu. Như trong Hình 21.3, khi thực hiện một số cách đầy đủ những thay đổi của Luật thuế năm 1986, thuế thu nhập công ty ước tính chiếm 12,8% thu thuế liên bang.
Tuy nhiên những thay đổi trong tổng thu có thể không cho thấy nhiều thông tin về những thay đổi trong tác động kinh tế của thuế công ty. Các nhà kinh tế cho rằng thuế công ty gây ra những méo mó quan trọng trong phân bổ đầu tư và mức đầu tư chung. Chương này đề cập đến một số vấn đề:
- Thuế công ty là thuế đánh vào cổ đông vào công nhân hay người tiêu dùng, và ai là người chịu gánh nặng thuế này?
- Thuế công ty có ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả kinh tế?
- Thuế công ty có ảnh hưởng như thế nào đến các quyết định tài chính – nợ, cổ tức và sự sát nhập công ty?
- Có nên đánh thuế các công ty không?
0 comments:
Post a Comment