THS. NGUYỄN THANH TĀM - ĐH Luật Hà Nội
I. QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA EU VỀ CHUYỂN GIAO QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Quy định hiện hành của EU về chuyển giao quyền sở hữu
công nghiệp chủ yếu được ghi nhận trong Quy chế chuyển giao công nghệ
của EU năm 2004, viết tắt là TTBER.
1. Mục đích của Quy chế
(i) TTBER nhằm mục đích xử lý mối quan hệ giữa vấn đề
chuyển giao công nghệ chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp) và vấn đề
cạnh tranh, chống độc quyền.
(ii) TTBER cần đáp ứng hai đòi hỏi: thứ nhất, bảo đảm
cạnh tranh hiệu quả; thứ hai, bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch
kinh doanh. Khi thực hiện những mục tiêu này, cần tính đến nhu cầu đơn
giản hoá khung pháp luật và việc áp dụng pháp luật; cần loại bỏ cách
tiếp cận theo kiểu liệt kê các điều khoản được hưởng sự miễn trừ; phải
chỉ ra các hợp đồng được hưởng sự miễn trừ và phải cụ thể hóa các hạn
chế cạnh tranh hoặc các điều khoản không được đưa vào hợp đồng.
(iii) Theo Điều 2 TTBER, Điều 81 (1) Hiệp ước EC về
việc cấm các thỏa thuận nhằm ngăn cản, hạn chế hoặc bóp méo cạnh tranh
không được áp dụng đối với các hợp đồng chuyển giao công nghệ được ký
kết giữa hai nhà kinh doanh, liên quan đến sản xuất và cung ứng sản phẩm
theo hợp đồng. Việc miễn trừ này áp dụng trong phạm vi theo đó hợp đồng
ghi nhận các hạn chế cạnh tranh thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 81
(1) Hiệp ước EC. Sự miễn trừ này phải áp dụng với điều kiện quyền sở hữu
trí tuệ của công nghệ chuyển giao chưa hết hạn bảo hộ hoặc không bị
tuyên bố vô hiệu; nếu đó là bí quyết, thì bí quyết vẫn còn tính bí mật,
trừ trường hợp bí quyết đã được công chúng biết đến như là một kết quả
của hoạt động của bên nhận, theo đó sự miễn trừ sẽ áp dụng trong thời
hạn của hợp đồng.
2. Định nghĩa hợp đồng chuyển giao công nghệ
(i) Khái niệm “chuyển giao” (“transfer”) được hiểu là
công nghệ phải dịch chuyển từ nhà kinh doanh này sang nhà kinh doanh
khác. Thông thường, công nghệ chuyển giao dưới dạng licence, theo đó Bên
giao trao cho Bên nhận quyền sử dụng công nghệ của mình để đổi lấy tiền
bản quyền. Nó cũng có thể dưới dạng “licence” thứ cấp” (“sub –
licensing”), trong đó Bên giao cho phép Bên nhận trao licence cho bên
thứ ba (Bên nhận thứ cấp) được khai thác công nghệ.
(ii) Theo Điều 1 Khoản 1 (b) và (f) TTBER, “công
nghệ” nghĩa là sáng chế, ứng dụng sáng chế, mẫu hữu ích, ứng dụng mẫu
hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí các sản phẩm bán dẫn,
các giấy chứng nhận bảo hộ bổ sung đối với sản phẩm y học hoặc các sản
phẩm khác có thể là đối tượng của giấy chứng nhận bảo hộ bổ sung, giấy
chứng nhận giống cây trồng, bí quyết (know – how), bản quyền phần mềm.
Như vậy, khái niệm “công nghệ” theo TTBER khá rộng và bao hàm các đối
tượng sở hữu công nghiệp, trừ nhãn hiệu hàng hóa.
(iii) “Hợp đồng chuyển giao công nghệ” là hợp đồng
licence, hoặc hợp đồng chuyển giao hỗn hợp các đối tượng nói trên, kể cả
hợp đồng ghi nhận các quy định về bán và mua sản phẩm, hoặc liên quan
đến việc chuyển giao, chuyển nhượng các quyền sở hữu trí tuệ, trong đó
các quy định này không phải là đối tượng của một số hợp đồng, và chúng
liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm theo hợp
đồng.
(iv) Cũng theo Điều 1 Khoản 1 (b) TTBER, việc “chuyển
nhượng” hoặc kết hợp các đối tượng nói trên, sẽ được coi là các hợp
đồng chuyển giao công nghệ, và phụ thuộc vào chất lượng của các sản phẩm
được sản xuất hoặc làm bằng nhiều thao tác có sử dụng công nghệ.
(v) Theo quy định của TTBER, các hợp đồng licence có
đối tượng là nhãn hiệu hàng hoá không được coi là hợp đồng chuyển giao
công nghệ.
TTBER chỉ điều chỉnh việc chuyển giao các loại quyền
sở hữu trí tuệ khác, như nhãn hiệu hàng hoá và quyền tác giả (không phải
là bản quyền phần mềm), trong chừng mực các quyền sở hữu trí tuệ này
liên quan trực tiếp đến việc khai thác công nghệ được chuyển giao, và
không cấu thành đối tượng số một của hợp đồng. Điều kiện này nói lên
rằng: các hợp đồng chuyển giao các loại quyền sở hữu trí tuệ khác chỉ
được áp dụng sự miễn trừ, trong chừng mực theo đó các quyền sở hữu trí
tuệ này tạo ra cho Bên nhận khả năng khai thác tốt hơn công nghệ được
chuyển giao. Tuy nhiên, trong trường hợp giá trị của công nghệ được
chuyển giao cho Bên nhận bị giới hạn, do Bên nhận đã sử dụng một công
nghệ giống hệt hoặc tương tự, và đối tượng chính của hợp đồng là licence
nhãn hiệu hàng hóa, thì không thuộc phạm vi áp dụng của TTBER.
Theo quan điểm của Ủy ban Châu Âu, việc chuyển giao
nhãn hiệu hàng hóa thường diễn ra trong bối cảnh phân phối và bán lại
hàng hóa, dịch vụ, và nói chung là nó giống hợp đồng phân phối hơn là
hợp đồng chuyển giao công nghệ. Nếu một hợp đồng licence nhãn hiệu hàng
hóa liên quan trực tiếp đến việc sử dụng, bán lại hàng hóa, dịch vụ, và
không cấu thành đối tượng số một của hợp đồng, thì hợp đồng này được
điều chỉnh bằng Quy chế (EC) số 2790/1999 về áp dụng Điều 81 (3) Hiệp
ước EC đối với các loại hợp đồng và có phối hợp theo chiều dọc.
3. Phạm vi điều chỉnh của Quy chế
(i) Quy chế này không điều chỉnh các hợp đồng licence có đối tượng là nhãn hiệu hàng hóa.
(ii) Quy chế này chỉ điều chỉnh các hợp đồng licence
theo đó Bên giao cho phép Bên nhận khai thác công nghệ được chuyển giao
nhằm mục đích sản xuất hoặc cung ứng hàng hóa hoặc dịch vụ.
Tuy nhiên quy chế này không điều chỉnh các hợp đồng licence có mục đích:
- Tiếp tục nghiên cứu và phát triển công nghệ được chuyển giao;
- Thiết lập các liên kết sáng chế, chẳng hạn: hợp
đồng quy định việc liên kết các chuyển giao nhằm mục đích chuyển giao cả
gói các quyền sở hữu trí tuệ cho bên thứ ba. Loại hợp đồng này được gọi
là “hợp đồng liên kết công nghệ”; hợp đồng trong đó Bên nhận được bên
giao cho phép cấp licence cho bên thứ ba (Bên nhận phụ) để khai thác
công nghệ của Bên giao; hợp đồng licence, bao gồm cả các hợp đồng
licence chéo, có mục đích bảo đảm rằng một bên không dẫn chiếu quyền sở
hữu công nghiệp của mình để ngăn cản bên khác khai thác chính công nghệ
của mình (“hợp đồng không đòi hỏi”- “non-assertion agreements”).
(iii) Quy chế này chỉ điều chỉnh các hợp đồng ký kết
giữa một Bên giao và một Bên nhận, kể cả khi các điều kiện hợp đồng được
quy định cho hơn một cấp thương mại (đa cấp). Chẳng hạn: hợp đồng yêu
cầu Bên nhận thiết lập một hệ thống phân phối đặc biệt, và cụ thể hóa
các nghĩa vụ của Bên nhận, theo đó Bên nhận phải, hoặc được phép, bắt
buộc người bán lại sản phẩm phải sản xuất theo licence. Tuy nhiên, các
điều kiện và nghĩa vụ nói trên phải phù hợp với quy tắc cạnh tranh áp
dụng cho các hợp đồng cung ứng và phân phối. Các hợp đồng cung ứng và
phân phối được ký kết giữa một Bên nhận và các bên mua không được miễn
trừ theo Quy chế này. Các hợp đồng này chỉ được miễn trừ, nếu chúng được
điều chỉnh bằng một quy chế về áp dụng điều khoản miễn trừ cho các hợp
đồng cung ứng và phân phối.
(iv) Mối quan hệ với các quy chế miễn trừ khác.
TTBER điều chỉnh các hợp đồng giữa hai bên liên quan
đến việc chuyển giao công nghệ vì lý do sản xuất hoặc cung ứng sản phẩm
theo hợp đồng. Tuy nhiên, công nghệ
(bao hàm các đối tượng sở hữu công nghiệp) cũng có thể là một yếu tố của các loại hợp
đồng khác. Do đó, cần phải thấy được sự giao thoa giữa TTBER và các quy chế miễn trừ khác. Đó là:
- Quy chế (EC) số 2658/2000 về áp dụng Điều 81 (3) Hiệp ước EC cho các loại hợp đồng đặc biệt;
- Quy chế (EC) số 2659/2000 về áp dụng Điều 81 (3) Hiệp ước EC cho các loại hợp đồng nghiên cứu và phát triển;
- Quy chế (EC) số 2690/2000 về áp dụng Điều 81 (3) Hiệp ước EC cho các loại hợp đồng và thủ đoạn có phối hợp theo chiều dọc.
Quy chế (EC) số 2658/2000 về áp dụng Điều 81 (3) Hiệp
ước EC cho các loại hợp đồng đặc biệt điều chỉnh các hợp đồng sản xuất
liên kết, chẳng hạn như hợp đồng liên doanh. Quy chế có các quy định về
chuyển nhượng hoặc sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ, trong đó các quyền
sở hữu trí tuệ không cấu thành đối tượng số một của hợp đồng, nhưng liên
quan trực tiếp và cần thiết cho việc thực hiện hợp đồng.
Trong trường hợp các nhà kinh doanh thiết lập một
liên doanh sản xuất và cho phép liên doanh khai thác công nghệ để sản
xuất sản phẩm, thì việc chuyển giao này thuộc sự điều chỉnh của Quy chế
(EC) số 2658/2000, chứ không thuộc sự điều chỉnh của TTBER. Tuy nhiên,
trong trường hợp liên doanh cam kết chuyển giao công nghệ cho bên thứ
ba, thì hoạt động này không có mối liên hệ với hoạt động sản xuất của
liên doanh, do đó không phụ thuộc phạm vi điều chỉnh của Quy chế (EC) số
2658/2000.
Quy chế (EC) số 2659/2000 về áp dụng Điều 81 (3) Hiệp
ước EC cho các loại hợp đồng nghiên cứu và phát triển điều chỉnh các
hợp đồng trong đó hai hoặc nhiều nhà kinh doanh đồng ý liên kết tiến
hành hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), và đồng ý liên kết
khai thác các kết quả của hoạt động nghiên cứu và phát triển.
Quy chế (EC) số 2790/1999 về áp dụng Điều 81 (3) Hiệp
ước EC điều chỉnh các hợp đồng và thủ đoạn có phối hợp theo chiều dọc,
các hợp đồng ký kết giữa hai hoặc nhiều nhà kinh doanh, trong đó mỗi nhà
kinh doanh hoạt động ở các cấp thương mại khác nhau của dây chuyền sản
xuất và phân phối, và các bên được phép mua, bán lại một số hàng hóa,
dịch vụ. Quy chế này cũng điều chỉnh các hợp đồng cung ứng và phân phối.
TTBER và Quy chế (EC) số 2790/1999 có liên quan chặt
chẽ với nhau. Hợp đồng giữa Bên giao và Bên nhận là đối tượng của TTBER,
trong khi đó hợp đồng giữa Bên nhận và người mua là đối tượng của Quy
chế (EC) số 2790/1999.
4. Hướng dẫn áp dụng Điều 81 (3) Hiệp ước EC cho các hợp đồng chuyển giao công nghệ
(i) Chỉ áp dụng Điều 81 (3) Hiệp ước EC cho các hợp
đồng chắc chắn thoả mãn bốn điều kiện của điều khoản này. Thứ nhất, góp
phần vào phát triển sản xuất hoặc phân phối sản phẩm hoặc khuyến khích
tiến bộ kỹ thuật hoặc kinh tế; thứ hai, dành cho người tiêu dùng một sự
phân chia công bằng các lợi ích đạt được; thứ ba, không áp đặt các hạn
chế không cần thiết cho việc đạt tới các mục tiêu này; thứ tư, không tạo
ra cho nhà kinh doanh khả năng loại trừ cạnh tranh liên quan đến một
phần quan trọng của sản phẩm.
(ii) Yêu cầu về ngưỡng thị phần đối với hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Đối với các hợp đồng giữa các đối thủ cạnh tranh, cần
thoả mãn yêu cầu theo đó, tổng thị phần của các bên không vượt quá 20%
và không chứa đựng các hạn chế mang tính phi cạnh tranh nghiêm trọng
(“hardcore restrictions”); và điều này phải có hệ quả là phát triển sản
xuất hoặc phân phối và cho phép người tiêu dùng có được một sự phân chia
lợi ích công bằng.
Đối với các hợp đồng giữa các nhà kinh doanh không
phải là đối thủ cạnh tranh, cần thoả mãn yêu cầu như trên, thị phần cá
biệt của mỗi bên không vượt quá 30%. Theo Điều 1 khoản 1 (h) TTBER, “các
đối thủ cạnh tranh” nghĩa là các nhà kinh doanh cạnh tranh trên thị
trường công nghệ liên quan và/hoặc thị trường sản phẩm liên quan.
Các nhà kinh doanh cạnh tranh trên “thị trường công
nghệ liên quan” nghĩa là các nhà kinh doanh chuyển giao công nghệ cạnh
tranh (đối thủ cạnh tranh hiện tại trên thị trường công nghệ). TTBER
phân biệt giữa các đối thủ cạnh tranh và các nhà kinh doanh không phải
là đối thủ cạnh tranh vì lý do sau đây: nói chung, hợp đồng giữa các đối
thủ cạnh tranh đặt ra một rủi ro lớn hơn đối với cạnh tranh trên thị
trường so với hợp đồng giữa các nhà kinh doanh không phải là đối thủ
cạnh tranh. Tuy nhiên, sự cạnh tranh giữa các nhà kinh doanh sử dụng
cùng một công nghệ (cạnh tranh intra – technology) tạo ra một sự bổ sung
quan trọng cho sự cạnh tranh giữa các nhà kinh doanh sử dụng các công
nghệ mang tính cạnh tranh (cạnh tranh inter- technology). Chẳng hạn: sự
cạnh tranh intra – technology có thể dẫn tới việc giảm giá sản phẩm chứa
đựng công nghệ liên quan, nó không chỉ sinh ra lợi ích trực tiếp hoặc
gián tiếp cho người tiêu dùng sản phẩm này mà còn thúc đẩy sự cạnh tranh
tiếp theo giữa các nhà kinh doanh sử dụng các công nghệ mang tính cạnh
tranh. Trong hoạt động chuyển giao công nghệ, cũng phải tính tới tình
huống các Bên nhận thực hiện hành vi bán sản phẩm của chính mình, chứ
không bán lại sản phẩm do nhà kinh doanh khác cung ứng. Do đó, sự khác
biệt về chất lượng sản phẩm dựa trên sự cạnh tranh giữa các Bên nhận là
lớn hơn so với trường hợp các thỏa thuận về bán lại sản phẩm. Theo Điều 8
Khoản 2 TTBER, nếu thị phần ban đầu không vượt quá ngưỡng 20% và 30%,
nhưng tăng dần và vượt quá các ngưỡng nói trên nhưng không quá 25% và
35%, thì hợp đồng sẽ được tiếp tục áp dụng sự miễn trừ trong thời hạn 2
năm liên tục, tiếp theo năm mà ngưỡng 20% hoặc 30% bị vượt quá lần đầu
tiên.
Theo Điều 8 Khoản 3 TTBER, nếu thị phần ban đầu vượt
quá ngưỡng 20% và 30%, nhưng không quá 25% và 35%, thì hợp đồng sẽ được
tiếp tục áp dụng sự miễn trừ trong thời hạn 1 năm, tiếp theo năm mà mức
25% hoặc 35% bị vượt quá lần đầu tiên.
TTBER quy định về ngưỡng thị phần nhằm mục đích xác
định “ngưỡng an toàn” (“safe habour”) cho các bên trong hợp đồng chuyển
giao công nghệ, để các bên không vi phạm luật cạnh tranh.
(iii) Điều 81 (3) Hiệp ước EC không áp dụng đối với
các hợp đồng chứa đựng hạn chế mang tính phi cạnh tranh nghiêm trọng
(“hardcore restrictions”), bất kể thị phần của các nhà kinh doanh liên
quan là bao nhiêu. Điều 4 TTBER quy định về các hạn chế mang tính phi
cạnh tranh nghiêm trọng.
Trong trường hợp một bên của hợp đồng là đối thủ cạnh
tranh, sự miễn trừ không được áp dụng cho hợp đồng, nếu hợp đồng này,
trực tiếp hoặc gián tiếp, có một yếu tố hoặc kết hợp nhiều yếu tố dưới
sự kiểm soát của các bên, có mục tiêu sau đây:
(a) Hạn chế khả năng của một bên trong việc ấn định giá bán sản phẩm cho các bên thứ ba;
(b) Giới hạn sản lượng hoặc bán hàng, trừ các giới
hạn sản lượng của sản phẩm theo hợp đồng được áp đặt cho Bên nhận theo
một hợp đồng không mang tính có đi có lại;
(c) Phân chia thị trường hoặc khách hàng, trừ trường hợp:
- Nghĩa vụ của Bên nhận, theo một hợp đồng không mang
tính có đi có lại, phải khai thác công nghệ được chuyển giao trong một
hoặc nhiều lĩnh vực sử dụng mang tính kỹ thuật, một hoặc nhiều thị
trường sản phẩm;
- Yêu cầu theo đó Bên nhận sản xuất hoặc cung ứng các
sản phẩm theo hợp đồng nhằm mục đích sử dụng cá nhân, bao gồm việc bán
sản phẩm theo hợp đồng, như phụ tùng của chính sản phẩm của mình;
(d) Hạn chế khả năng của Bên nhận trong việc khai
thác công nghệ của chính mình, hoặc hạn chế khả năng của các bên của hợp
đồng trong việc tiến hành hoạt động nghiên cứu và phát triển, trừ khi
hạn chế này là cần thiết để ngăn cản việc tiết lộ cho các bên thứ ba bí
quyết được chuyển giao.
Việc ấn định giá giữa các đối thủ cạnh tranh cấu
thành một sự hạn chế cạnh tranh về đối tượng. Chẳng hạn, việc ấn định
giá có thể dưới dạng một hợp đồng trực tiếp quy định giá chính xác phải
trả, hoặc bảng giá với sự giảm giá tối đa được phép. Nó cũng có thể được
thực hiện một cách gián tiếp bằng việc áp dụng các biện pháp phản
khuyến khích để làm thay đổi một mức giá đã thoả thuận, chẳng hạn: quy
định rằng tỉ lệ phần trăm tiền bản quyền sẽ tăng nếu giá sản phẩm bị
giảm xuống dưới một mức nào đó.
Về sự giới hạn việc bán hàng và sản lượng: nếu các
đối thủ cạnh tranh đồng ý giới hạn sản lượng của nhau, thì hợp đồng này
không khác gì một cartel. Tương tự như vậy đối với các hợp đồng trong đó
quy định giảm sự khuyến khích các bên mở rộng sản lượng, chẳng hạn: áp
đặt cho một bên phải thanh toán cho bên kia, nếu sản lượng vượt quá một
mức nào đó.
Về vấn đề phân chia thị trường và khách hàng: chẳng
hạn như các thoả thuận chuyển giao chéo, trong đó mỗi bên được trao một
quyền độc quyền trong việc khai thác công nghệ được chuyển giao trên một
lãnh thổ đặc biệt. Chúng có thể dưới dạng một licence không mang tính
có đi có lại, trong đó Bên nhận được trao một lãnh thổ độc quyền, trong
khi đó Bên giao giữ lại một lãnh thổ khác cho mình. Thậm chí trong
trường hợp không có sự hạn chế cạnh tranh rõ ràng hoặc hiểu ngầm nào bị
áp đặt cho Bên giao, thì nó cũng được coi là hạn chế mang tính phi cạnh
tranh nghiêm trọng, nếu hợp đồng licence hạn chế Bên nhận trong việc bán
hàng ở đâu và cho ai.
Trong trường hợp một bên của hợp đồng không phải là
đối thủ cạnh tranh, sự miễn trừ không được áp dụng cho hợp đồng, nếu hợp
đồng này, trực tiếp hoặc gián tiếp, có một yếu tố hoặc kết hợp nhiều
yếu tố dưới sự kiểm soát của các bên, có mục tiêu sau đây:
(a) Hạn chế khả năng của một bên trong việc ấn định
giá bán sản phẩm cho các bên thứ ba, không ảnh hưởng tới khả năng áp đặt
một giá bán tối đa hoặc đặt trước một giá bán, với điều kiện nó không
phải là một giá bán cố định hoặc tối thiểu, như là hệ quả của sức ép
hoặc khuyến khích từ bất kỳ bên nào;
(b) Giới hạn lãnh thổ hoặc khách hàng mà Bên nhận được phép bán sản phẩm theo hợp đồng, trừ trường hợp:
- Hạn chế việc bán hàng vào lãnh thổ độc quyền hoặc bán hàng sản phẩm cho một nhóm khách hàng độc quyền của Bên giao;
- Hạn chế việc bán hàng tích cực (“active sales”) vào
lãnh thổ độc quyền hoặc bán hàng cho một nhóm khách hàng độc quyền mà
Bên giao đã ấn định cho Bên nhận khác;
- Yêu cầu theo đó Bên nhận phải sản xuất hoặc cung
ứng các sản phẩm theo hợp đồng chỉ nhằm mục đích sử dụng cá nhân, bao
gồm việc bán sản phẩm theo hợp đồng, như phụ tùng của chính sản phẩm của
mình;
- Hạn chế việc một Bên nhận, kinh doanh ở tất cả các cấp bán hàng, được bán hàng cho người sử dụng cuối cùng;
- Hạn chế việc các thành viên của một hệ thống phân phối chọn lọc được bán hàng cho nhà phân phối không được cấp phép;
(c) Hạn chế việc một Bên nhận, là một thành viên của
một hệ thống phân phối chọn lọc và kinh doanh ở cấp bán lẻ, được bán
hàng tích cực hay thụ động cho người sử dụng cuối cùng, không ảnh hưởng
đến khả năng cấm một thành viên của hệ thống được kinh doanh ở một số cơ
sở không được cấp phép.
Các hạn chế được nêu trong Điều 4 TTBER bị coi là các
hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng. Các hạn chế này rõ ràng là không cần
thiết cho việc phát triển sản xuất hoặc phân phối. Do đó, Điều 81 (3)
Hiệp ước EC không áp dụng đối với các hợp đồng chứa đựng các hạn chế nêu
trên.
(iv) Điều 5 TTBER quy định về các điều kiện để một hợp đồng được áp dụng sự miễn trừ:
- Sự miễn trừ không được áp dụng cho bất kỳ nghĩa vụ nào, được quy định trong hợp đồng, được liệt kê dưới đây:
(a) Bất kỳ nghĩa vụ trực tiếp hoặc gián tiếp nào của
Bên nhận trong việc cấp licence độc quyền cho Bên giao hoặc cho bên thứ
ba do Bên giao chỉ định, mà licence này liên quan đến cải tiến quan
trọng hoặc sự ứng dụng mới của công nghệ đựơc chuyển giao (nghĩa vụ cấp
licence ngược, hay nghĩa vụ grant – back);
(b) Bất kỳ nghĩa vụ trực tiếp hoặc gián tiếp nào của
Bên nhận trong công việc chuyển nhượng, toàn bộ hoặc một phần, cho Bên
giao hoặc bên thứ ba do Bên giao chỉ định, các quyền được cải tiến hoặc
ứng dụng mới công nghệ được chuyển giao;
(c) Bất kỳ nghĩa vụ trực tiếp hoặc gián tiếp nào,
theo đó không thừa nhận giá trị hoặc phản đối tính bí mật hoặc tính quan
trọng về nội dung của quyền sở hữu trí tuệ mà Bên giao nắm giữ trên thị
trường chung, không ảnh hưởng tới khả năng chấm dứt hợp đồng, trong
trường hợp Bên nhận không thừa nhận giá trị phản đối tính bí mật và tính
quan trọng về nội dung của quyền sở hữu trí tuệ được chuyển giao.
Mục đích của các quy định nói trên là làm vô hiệu hoá
việc áp dụng sự miễn trừ đối với các hợp đồng, mà chúng có thể làm giảm
sự khuyến khích sáng tạo của Bên nhận. Nói cách khác, Điều 5 TTBER nhằm
bảo vệ sự sáng tạo của Bên nhận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ.
- Sự miễn trừ không được áp dụng cho bất kỳ nghĩa vụ
trực tiếp hoặc gián tiếp nào, mà nó giới hạn sản lượng của các sản phẩm
theo hợp đồng bởi Bên nhận trong một hợp đồng không mang tính có đi có
lại giữa các đối thủ cạnh tranh.
- Trong trường hợp các bên của hợp đồng không phải là
các đối thủ cạnh tranh, sự miễn trừ không được áp dụng cho bất kỳ nghĩa
vụ trực tiếp nào, mà nó giới hạn khả năng của Bên nhận trong việc khai
thác chính công nghệ của mình, hoặc giới hạn khả năng của các bên của
hợp đồng trong việc thực hiện hoạt động nghiên cứu và phát triển, trừ
khi hạn chế này là cần thiết để ngăn cản việc tiết lộ cho các bên thứ ba
bí quyết được chuyển giao.
Điều 4 và Điều 5 TTBER quy định danh sách các hạn chế
mang tính phi cạnh tranh nghiêm trọng và các điều kiện áp dụng miễn trừ
nhằm mục đích bảo đảm rằng: các hợp đồng, mặc dù được áp dụng sự miễn
trừ, cũng không làm giảm sự khuyến khích sáng tạo, không làm chậm trễ
việc phổ biến công nghệ, không hạn chế quá mức sự cạnh tranh giữa Bên
giao và Bên nhận, hoặc giữa các Bên nhận. Việc TTBER quy định kết hợp về
ngưỡng thị phần, về việc không miễn trừ đối với các hợp đồng chứa đựng
các hạn chế mang tính phi cạnh tranh nghiêm trọng, và về các điều kiện
áp dụng miễn trừ, nói chung sẽ bảo đảm rằng: kể cả trong các trường hợp
các hợp đồng được áp dụng điều khoản miễn trừ, thì điều đó cũng không
làm mất đi sự cạnh tranh giữa các nhà kinh doanh.
(v) Để đạt được lợi ích và mục tiêu của chuyển giao
công nghệ, Quy chế này cũng được áp dụng cho các điều khoản không phải
là đối tượng số một của hợp đồng, nhưng liên quan trực tiếp tới việc áp
dụng công nghệ được chuyển giao.
(vi) Nếu một hợp đồng licence được miễn trừ áp dụng
quy định cấm hạn chế cạnh tranh theo Điều 81 Hiệp ước EC, thì điều đó
không có nghĩa là hợp đồng này được miễn trừ áp dụng quy định cấm lạm
dụng vụ trí ưu thế theo Điều 82 Hiệp ước EC.
5. Không áp dụng điều khoản miễn trừ và không áp dụng Quy chế
(i) Theo Điều 6 Khoản 1 TTBER, trong các trường hợp
đặc biệt, khi mà hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh của Quy chế nhưng
trái với Điều 81 (3) Hiệp ước EC, thì Uỷ ban Châu Âu được phép không áp
dụng sự miễn trừ. Đặc biệt là các trường hợp sau đây:
(a) Hạn chế các bên thứ ba tiếp cận thị trường, chẳng
hạn: bằng tác động tổng hợp của hệ thống song song của các hợp đồng hạn
chế cạnh tranh tương tự, theo đó cấm Bên nhận sử dụng công nghệ của các
bên thứ ba;
(b) Hạn chế Bên nhận tương lai tiếp cận thị trường,
chẳng hạn: bằng tác động tổng hợp của hệ thống song song của các hợp
đồng hạn chế cạnh tranh tương tự, theo đó cấm Bên giao chuyển giao cho
các Bên nhận khác;
(c) Các bên không khai thác công nghệ được chuyển giao mà không có bất cứ một lý do khách quan nào.
(ii) Theo Điều 6 Khoản 2 TTBER, các cơ quan có thẩm
quyền của các nước thành viên được phép không áp dụng điều khoản miễn
trừ cho các hợp đồng trái với Điều 81 (3) Hiệp ước EC, trong trường hợp
tác động của các hợp đồng này diễn ra trên lãnh thổ của một nước thành
viên, hoặc một phần của lãnh thổ này, mà nó có tất cả đặc trưng của một
thị trường riêng biệt về địa lý. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo
rằng: việc thực hiện thẩm quyền này không làm tổn hại tới việc áp dụng
thống nhất các quy tắc cạnh tranh trên phạm vi thị trường chung của EU
hoặc không làm tổn hại tới hiệu lực đầy đủ của các biện pháp thực thi
các quy tắc cạnh tranh.
(iii) Theo Điều 7 Khoản 1 TTBER Ủy ban Châu Âu được
phép tuyên bố rằng; nếu hệ thống song song của các hợp đồng chuyển giao
công nghệ tương tự chiếm trên 50% thị trường liên quan, thì Quy chế này
sẽ không áp dụng đối với các hợp đồng chứa đựng các hạn chế đặc biệt
liên quan đến thị trường này. Như vậy, Ủy ban Châu Âu đã khôi phục sự áp
dụng đầy đủ Điều 81 Hiệp ước EC đối với các hợp đồng này.
1.6. Thời hạn có hiệu lực của Quy chế
Quy chế này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/05/2004 và hết hiệu lực ngày 30/04/2014.
II. NHỮNG KINH NGHIỆM TỪ
PHÁP LUẬT EU CHO VIỆC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
CHUYỂN GIAO QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1. Quy chế chuyển
giao công nghệ của EU năm 2004 nhằm mục đích xử lý mối quan hệ giữa vấn
đề chuyển giao công nghệ (bao hàm chuyển giao sở hữu công nghiệp) vấn đề
cạnh tranh, chống độc quyền. Nó phản ánh thực tiễn quan hệ sở hữu công
nghiệp và cạnh tranh ở trình độ rất cao. Đây là kết quả của hơn 40 năm
hội nhập kinh tế khu vực ở Tây Âu và sự phát triển của pháp luật EU về
chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp.
Trong khi đó, ở nước ta hiện nay, hoạt động chuyển
giao quyền sở hữu công nghiệp còn rất đơn điệu và lẻ tẻ. Có thể nói rằng
chưa có thị trường khoa học – công nghệ ở nước ta. Thực tiễn nói trên
được thể hiện rõ trong các văn bản pháp luật Việt Nam về sở hữu công
nghiệp và cạnh tranh. Còn trong lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp, pháp
luật Việt Nam mới chỉ quan tâm tới việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp,
chưa tập trung nhiều vào vấn đề chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp và
cạnh tranh liên quan tới quyền sở hữu công nghiệp. Ở Việt Nam hiện nay
chưa có một văn bản nào tương tự như TTBER của EU.
Luật cạnh tranh vừa được Quốc Hội thông qua, và khi
có các hoạt động trên thị trường sở hữu công nghiệp, thì lúc đó mới xuất
hiện nhu cầu xử lý mối quan hệ giữa vấn đề chuyển giao công nghệ (bao
hàm chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp) và vấn đề cạnh tranh, chống
độc quyền. TTBER của EU sẽ là một trong những kinh nghiệm của thế giới
để Việt Nam có thể tham khảo.
2. Theo kinh nghiệm lập pháp của EU,
quan hệ hợp đồng liên quan đến chuyển giao công nghệ không chỉ được
điều chỉnh bằng TTBER, mà còn được điều chỉnh bằng nhiều Quy chế khác.
Điều này tạo thuận lợi cho việc xử lý chồng chéo trong điều chỉnh quan
hệ hợp đồng liên quan đến chuyển giao công nghệ.
3. Về định nghĩa về hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Theo TTBER, khái niệm “chuyển giao” (“transfer”) được
hiểu là licence, theo đó Bên giao trao cho Bên nhận quyền sử dụng công
nghệ của mình để đổi lấy tiền bản quyền. Quan niệm này của pháp luật EU
cũng giống như các nước công nghiệp phát triển khác như Hoa Kỳ, Nhật
Bản, v..v.. Theo pháp luật Hoa Kỳ, tất cả các loại hợp đồng chuyển giao
công nghệ đều được gọi là hợp đồng licence (có người dịch là hợp đồng
cấp phép)1, nghĩa là sự cho phép của Bên giao cho Bên nhận được sử dụng
những tri thức nhất định, trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận.
Sự cho phép này thực chất là cho thuê công nghệ, chứ không phải là
chuyển giao công nghệ. Trong khi đó, các nước đang phát triển hiểu về
chuyển giao công nghệ theo nghĩa rộng nhất, nhấn mạnh yếu tố chuyển
giao, bao hàm việc trang bị cho Bên nhận khả năng điều hành một chu
trình sản xuất kinh doanh một sản phẩm, dịch vụ nhất định.
TTBER định nghĩa khái niệm “công nghệ” khá rộng nhưng
không bao hàm nhãn hiệu hàng hóa. Như vậy, “hợp đồng chuyển giao công
nghệ” là hợp đồng licence công nghệ, kể cả hợp đồng ghi nhận các quy
định về bán và mua sản phẩm. Tuy nhiên, các hợp đồng licence có đối
tượng là nhãn hiệu hàng hóa không được coi là hợp đồng chuyển giao công
nghệ. Bởi vì, theo quan điểm của Ủy ban Châu Âu, việc chuyển giao nhãn
hiệu hàng hóa thường diễn ra trong bối cảnh phân phối và bán lại hàng
hóa, dịch vụ, do đó nó giống hợp đồng phân phối hơn là hợp đồng chuyển
giao công nghệ. Còn theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, hợp đồng
licence nhãn hiệu hàng hóa được coi là hợp đồng chuyển giao công nghệ,
và được điều chỉnh, cùng với các hợp đồng licence khác, bằng Nghị định
số 45/NĐ-CP ngày 01/07/1998 về chuyển giao công nghệ.
4. Phạm vi điều
chỉnh của TTBER rất rõ ràng, không điều chỉnh chồng chéo các loại quan
hệ hợp đồng liên quan tới chuyển giao công nghệ.
5. Việc Quy chế quy
định kết hợp về ngưỡng thị phần, về việc không miễn trừ đối với các hợp
đồng chứa đựng các hạn chế mang tính phi cạnh tranh nghiêm trọng, và về
các điều kiện áp dụng miễn trừ, nói chung sẽ bảo đảm rằng, kể cả trong
trường hợp các hợp đồng được áp dụng điều khoản miễn trừ, thì điều đó
cũng không làm mất đi sự cạnh tranh giữa các nhà kinh doanh. Các quy
định trong Quy chế chuyển giao công nghệ hiện hành của EU cho thấy pháp
luật có thể bảo vệ hữu hiệu sự cạnh tranh lành mạnh giữa Bên giao và Bên
nhận, hoặc giữa các Bên nhận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ nói
chung và chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp nói riêng.
Trong khi đó, Điều 13 Khoản 1-7 Nghị định số
45/1998/NĐ-CP ngày 01/07/1998, khi quy định cấm ghi nhận các điều khoản
hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng licence, chỉ tập trung vào bảo vệ lợi
ích của Bên nhận, mà thông thường là các doanh nghiệp Việt Nam. Quy định
trên dường như chưa quan tâm đến tình huống theo đó các doanh nghiệp
Việt Nam là Bên giao trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công
nghiệp, hoặc cả Bên giao và Bên nhận đều là các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong những trường hợp này, pháp luật dường như chưa bảo vệ được sự cạnh
tranh lành mạnh của cả Bên giao và Bên nhận trong hợp đồng chuyển giao
quyền sở hữu công nghiệp.
6. Quy chế của EU
có thời hạn hiệu lực trong 10 năm (2004 – 2014). Thời hạn này phù hợp
với sự phát triển và thay đổi về khoa học – công nghệ, về quan hệ thương
mại liên quan tới quyền sở hữu công nghiệp. Trong khi đó, Nghị định số
45/1998/NĐ/CP ngày 01-07-1998 có thời hạn hiệu lực không xác định, nghĩa
là được áp dụng trong một thời gian dài, do đó có thể không theo kịp sự
thay đổi của chính sách và mục tiêu kinh tế trong từng giai đoạn.
1 Carolyn hot chokiss, Luật quốc tế về doanh nghiệp, tr. 27 (sách dịch), Nxb Thống kê, 1996.
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 6/2004
0 comments:
Post a Comment