PHAN CẨM THƯỢNG
Tình hình tranh giả,
tranh chép, tranh nhái theo một phong cách nào đó diễn ra rất phức tạp
trong vòng hơn 25 năm qua, khiến các họa sỹ tuyệt vọng về vấn đề bản
quyền không có cách gì bảo vệ được mình. Một phần do chính các họa sỹ
có lúc thấy bức tranh nào bán được thì cứ thản nhiên chép lại, hoặc thay
đổi rất ít, khiến phong cách của họ trở nên nhàm chán và dễ bắt chước.
Bảo tàng cần phải là nơi chuẩn mực cho việc bảo vệ bản quyền
Trước đây tôi đã nhiều lần bày tỏ những nghi ngờ của
mình về tính chân bản của một số tác phẩm hội họa treo ở Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam. Nghi ngờ vì trình độ vẽ của những bức tranh được gọi là
của danh họa đó rất non yếu, đến mức hoặc phải khẳng định rằng đó là
tranh chép lại, hoặc nếu đúng là của họa sỹ vẽ ra thì cũng chưa đáng
giá. Rất nhiều người trong nghề và khán giả nước ngoài đều có cảm nhận
như vậy, và ngoài việc thất vọng, không có cách gì khác.
Do chiến tranh, có thời Bảo tàng Mỹ thuật đã phải đưa
nhiều tác phẩm đi sơ tán và treo những phiên bản. Những phiên bản thời
đó khá tốt, vì hoặc do chính tác giả sao lại, hoặc do một họa sỹ giỏi
khác làm, nhưng hội họa luôn là độc bản, sự sao chép dù tốt đến đâu cũng
không thay thế được chân bản.
Thật giả trở nên lẫn lộn, cứ thế kéo dài cho đến bây
giờ, càng ngày càng thấy tệ hơn, và dường như tới mức không thể xác định
được thật giả nữa. Trong lưu trữ của gia đình ông Đức Minh vẫn còn biên
bản về việc Bảo tàng Mỹ thuật xin phép sao lại 13 bức tranh thuộc quyền
sở hữu của ông. Nhân đó, ông Đức Minh cũng nhờ họa sỹ Nguyễn Tư Nghiêm
vẽ lại cho mình bức Con nghé quả thực, nhưng là một người hiểu biết,
Nguyễn Tư Nghiêm đã vẽ kích thước to hơn, lộn ngược lại bố cục và vẽ
theo bút pháp những năm 1970.
Gần đây, khi nghiên cứu ký họa và phác thảo của các
họa sỹ, tôi càng thấy sự khác biệt vô cùng giữa công việc của họa sỹ với
bức tranh treo ở bảo tàng. Trình độ của ký họa và phác thảo là mười,
thì bức tranh thể hiện chỉ là một, thậm chí rất ngô nghê.
Trên đây là một ý kiến hoàn toàn cá nhân, cần có
những nghiên cứu khác bổ sung, nhưng thiết nghĩ bảo tàng cần phải là nơi
chuẩn mực cho việc bảo vệ bản quyền, nhất là trong thời đại hiện nay.
Họa sỹ tuyệt vọng về vấn đề bản quyền
Tình hình tranh giả, tranh chép, tranh nhái theo một
phong cách nào đó diễn ra rất phức tạp, ít nhất là trong vòng 25 năm
qua, khiến các họa sỹ tuyệt vọng về vấn đề bản quyền, không có cách gì
bảo vệ được mình. Một phần do chính các họa sỹ có lúc thấy bức tranh nào
bán được thì cứ thản nhiên chép lại, hoặc thay đổi rất ít, khiến phong
cách của họ trở nên nhàm chán và dễ bắt chước.
Một phần do chưa có bộ luật nào về hoạt động
thương mại và bản quyền nghệ thuật, các quy chế thì thường lạc hậu so
với thực tế và càng ít hiệu quả hơn, hơn nữa quy chế lại do những người
không mấy hiểu biết về quản trị kinh doanh nghệ thuật soạn thảo và cố
vấn. Có thể người soạn thảo là họa sỹ, nhưng họ không hề được đào tạo về
quản trị kinh doanh nghệ thuật. Phần khác, quản lý thương mại xã hội có
xu hướng đánh giá thấp vấn đề kinh doanh nghệ thuật coi đó chỉ như
thương mại thông thường. Phần khác, số sinh viên và thợ vẽ thất nghiệp
khá đông, sẵn sàng đi làm thuê.
Chúng ta không có hội đồng giám định chất lượng nghệ
thuật, không có phương tiện khoa học phục vụ cho việc này, không có hệ
thống nghiên cứu chuyên nghiệp. Ví dụ ở góc độ nhà nước không hề có
nghiên cứu chuyên biệt nào về các danh họa Việt Nam, họ sống thế nào, vẽ
bao nhiêu tranh, ai sưu tập, ai sở hữu, các đặc điểm nhận dạng phong
cách, tranh của họ đang luân chuyển trên thị trường thế nào…
Thậm chí các cuốn sách tạm gọi là tốt về Nguyễn Sáng,
Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên… lại do tư nhân biên
soạn xuất bản. Gần đây các cuốn sách của họa sỹ Vũ Giáng Hương, Lương
Xuân Nhị được sự hỗ trợ của các cơ quan văn hóa, nhưng về nội dung cũng
do họa sỹ tự làm. Nền tảng của việc xác định bản quyền phụ thuộc vào hệ
thống nghiên cứu, nếu nghiên cứu không tốt, nguồn tư liệu không xác định
cơ bản thì coi như hiệu lực bảo vệ bản quyền càng ngày càng nan giải.
Đáng lẽ từ lâu, giới mỹ thuật cần đưa các gallery vào hoạt động mỹ thuật chung, và kết nạp các chủ gallery vào hội mỹ thuật. Ngược lại các gallery được thả nổi hoàn toàn, giống như mọi cửa hàng kinh doanh thông thường, họ không được giúp đỡ tư vấn về kiến thức nghệ thuật và các quy chế nghệ thuật.
Đáng lẽ từ lâu, giới mỹ thuật cần đưa các gallery vào hoạt động mỹ thuật chung, và kết nạp các chủ gallery vào hội mỹ thuật. Ngược lại các gallery được thả nổi hoàn toàn, giống như mọi cửa hàng kinh doanh thông thường, họ không được giúp đỡ tư vấn về kiến thức nghệ thuật và các quy chế nghệ thuật.
Chủ gallery không có bằng cấp gì (Bằng quản trị kinh
doanh nghệ thuật, Aministrator of art ), không hề vì mục đích nghệ thuật
chung của xã hội, thuần vì lợi nhuận, nên họ kinh doanh không hạn chế
đối tượng, nghĩa là ai bán chạy thì kinh doanh, không mời được họa sỹ
thì làm tranh giả. Một thời gian dài làm ăn khó khăn, các họa sỹ không
cộng tác, tất cả các gallery trong nước có xu hướng kinh doanh một số
họa sỹ giống nhau.
Ngược lại, các họa sỹ luôn có xu hướng tự kinh doanh
lấy, làm thiệt hại đầu tư quảng cáo của gallery, và khách hàng muốn mua
rẻ không chi trả phần trăm kinh doanh cũng luôn trực tiếp tìm đến họa
sỹ. Những vấn đề trên cho thấy, đáng nhẽ thị trường nghệ thuật Việt Nam
có thể hình thành từ những năm 1990 lập tức xuống dốc, và chuyển hướng
sang thị trường xuất khẩu không chính thức và hoạt động này cũng có cơ
hội phát triển. (Phan Cẩm Thượng)
Vi phạm bản quyền mỹ thuật có những biểu hiện như sau:
- Sao chép lại những tác phẩm hội họa và điêu khắc ở
mức độ làm giả nhưng coi như bán bản thật. Tác phẩm của tất cả những
danh họa Việt Nam đã chết và còn sống đều có thể bị lợi dụng. Thực hiện
là các gallery, các nhà sưu tập tham gia vào kinh doanh không chính
thức. Trong đó họa sỹ Bùi Xuân Phái bị làm giả nhiều nhất, đến mức độ
hiện nay, hầu như không thể xác định được đâu là tranh thật và tranh giả
đối với Bùi Xuân Phái. Một nhà sưu tầm nước ngoài đã nhận định một cách
hài hước rằng: Khi sống Phái vẽ nhiều bao nhiêu, thì khi chết Phái vẽ
nhiều bấy nhiêu. Nguy cơ của việc này là xóa sổ hoàn toàn thành tựu hội
họa của Bùi Xuân Phái.
- Sao chép tranh tự do ở rất nhiều cửa hàng trong các
thành phố, chủ yếu là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng là tác
phẩm tất cả các danh họa trong và ngoài nước có thể và bán với giá rất
rẻ, chừng vài trăm nghìn một bức.
- Dùng ký họa của họa sỹ chuyển thể thành mọi chất
liệu sơn dầu, sơn mài, lụa… đặc biệt là các tác phẩm của Dương Bích
Liên. Thậm chí còn sáng tác ra ký họa.
- Sử dụng các tác phẩm của nghệ sỹ đưa vào thiết kế
design, với mục đích kinh doanh nhưng không trả nhuận bút và không xin
phép tác giả. Các tác giả viết sách cũng bị sử dụng rất tùy tiện tư liệu
của họ.
- Thoải mái vẽ theo một phong cách đang bán chạy, với
bố cục khác, và ký tên trực tiếp người vẽ. Nghĩa là bắt chước phong
cách trắng trợn vào mục đích kinh doanh. Ví dụ họa sỹ A bắt chước lối vẽ
tả thực y hệt của Đỗ Quang Em.
- Xuất hiện họa sỹ ảo. Thậm chí cũng trưng bầy, tặng
hoa… Tức là tranh do một xưởng, nhiều người vẽ từng công đoạn, và lấy
một cái tên nào đó, (cũng có thể cử một người thật tên thật, nhưng lại
không phải người tham gia vẽ ). Hoặc một họa sỹ chuyên vẽ thuê, nay vẽ
theo phong cách biểu hiện lấy tên A, mai vẽ theo phong cách trừu tượng
lấy tên B. Còn triển lãm thế nào, đặt tên tác giả là gì do chủ gallery
quyết định.
Cần xây dựng hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp
Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại không có, sưu tầm từ bảo
tàng chính rất hạn chế, khiến rất nhiều tác phẩm không có cơ hội đến
với công chúng trong nước và góp phần vào đời sống văn hóa dân tộc. Phần
lớn những tác phẩm tốt của nước ta trong quá khứ và đặc biệt là đương
đại, chạy ra nước ngoài.
Trong cái thị trường xuất khẩu không chính thức, sự
vi phạm bản quyền không kiểm soát được, sự thiệt hại về kinh tế không
đáng nói bằng sự thiệt hại về văn hóa, làm tha hóa rất nhiều thanh niên
tham gia vào sản xuất tranh giả, cũng như xóa sổ tương lai của họ, cũng
thực chất là xóa sổ nhiều danh họa khi không còn khả năng phân biệt thật
giả, và khi tranh giả được chấp nhận đưa ra đấu giá mà ý kiến hay kiện
cáo từ trong nước không có cơ sở pháp lý.
Trước tiên là Bùi Xuân Phái và các tác phẩm của ông,
thứ đến là Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng và Nguyễn Phan Chánh thuộc nhóm
nguy cơ. Có thể nói, bây giờ khó mà trông thấy một bức tranh tự tay
Nguyễn Phan Chánh vẽ. Tương lai là Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Gia Trí,
Nguyễn Tiến Chung… Ngay cả những họa sỹ đang sống và còn trẻ như Đỗ
Quang Em, Bùi Hữu Hùng, Lê Thiết Cương, Đào Hải Phong… tranh giả đầy rẫy
mọi nơi.
Nhìn bề mặt thì vi phạm bản quyền mỹ thuật có nhiều
biểu hiện nghiêm trọng, nhưng bản chất của vấn đề là chúng ta chưa có
một hoạt động chuyên nghiệp tương xứng với sự phát triển của nghệ thuật,
chưa đánh giá được vai trò của nghệ thuật đối với văn hóa và kinh tế.
Do đó xử lý các vi phạm thì dễ, nhưng không bao giờ triệt để, và không
biết các vi phạm ấy sẽ phát sinh ra cái gì, xử lý vi phạm bằng hành
chính hay đăng ký bản quyền tác phẩm cũng không giúp cho nghệ thuật phát
triển tốt hơn và có thể đối đầu với các vụ kiện về bản quyền ở quốc tế.
Cần xây dựng một hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp mới là căn bản.
Việc này có những mặt sau :
- Xây dựng thị trường nghệ thuật trong nước, trong đó
bảo tàng và các doanh nghiệp đóng vai trò chính, mua và sưu tầm tác
phẩm, coi đó là phần cốt lõi của văn hóa doanh nhân. Để doanh nghiệp
tham gia mua, bảo trợ nghệ thuật, nghệ sỹ, cần có sự can thiệp của nhà
nước, ngược lại doanh nghiệp được ưu tiên thị phần, miễn thuế khi đóng
góp vào phát triển nghệ thuật. Các nghệ sỹ được mua và bảo trợ sẽ có
trách nhiệm giáo dục nghệ thuật cho công nhân của doanh nghiệp. Xây dựng
ngay bảo tàng nghệ thuật hiện đại.
- Xây dựng tiểu sử nghệ thuật của các nghệ sỹ chính yếu, theo dõi sự luân chuyển của các tác phẩm và hoạt động của họ.
- Đăng ký hành nghề nghệ thuật chuyên nghiệp cho các
nghệ sỹ đang sống. Chỉ có những người đăng ký hành nghề mới được phép
triển lãm, ngược lại họ cần công khai thương mại và đóng thuế tượng
trưng (ví dụ một nghìn đồng cho một bức tranh bán ). Vì thực chất thu
nhập do bán tranh không có tính chất thường xuyên, đời sống nghệ sỹ còn
thấp, nếu mức thuế không phù hợp sẽ làm sụp đổ thị trường non trẻ, và
làm mất sự đóng góp văn hóa của hoạt đông nghệ thuật. Đối với những nghệ
sỹ trẻ chưa đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp sẽ được hội đồng nghệ
thuật giới thiệu để triển lãm. Chỉ có những nghệ sỹ hành nghề chuyên
nghiệp mới được bảo vệ bản quyền và vào thị trường đấu giá. Dần tiến đến
xếp hai bậc thang nghệ sỹ trên cơ sở giá tranh và giá trị nghệ thuật
đối với văn hóa dân tộc.
- Thành lập cơ quan giám định nghệ thuật được luật
pháp bảo vệ, vì phán quyết của họ liên quan đến sự thất thiệt hay được
lợi của nhiều người sở hữu tác phẩm giả hay thật. Công việc này không
giống như hội đồng nghệ thuật mà chúng ta thường thành lập, vì nó đòi
hỏi những người có chuyên môn nghệ thuật, có kinh nghiệm về giám định và
thương mại nghệ thuật, có chương trình nghiên cứu, biết vận dụng các
phương tiện khoa học hỗ trợ, không hề là một nghệ sỹ đơn thuần. Có thể
nói chúng ta chưa có những người như vậy và cần phải đào tạo.
Mặc dầu nền nghệ thuật hiện đại Việt Nam, nếu tính từ
năm 1925, đã có hơn 80 năm hoạt động và nhiều thành tựu, nhưng trước xã
hội kinh tế thị trường và thị trường nghệ thuật quốc tế, chúng ta mới
bước đi những bước ban đầu. Mọi kinh nghiệm hoạt động nghệ thuật thời
bao cấp không giúp ích gì, thậm chí chúng ta không nhận thấy những hạn
chế của các tổ chức nghệ thuật theo kiểu cũ, thì vấn đề bản quyền mỹ
thuật hiện tại không bao giờ lý giải được và đưa ra những biện pháp tổng
thể cho bước đi lâu dài của nghệ thuật.
Cần nhận thức rõ những khu vực phi lợi nhuận và phi
thương mại trong nghệ thuật, cũng như không thể không thương mại hóa
hoạt động nghệ thuật, trong đó tiên quyết là tách nghệ sỹ ra khỏi thương
mại trực tiếp, để giữ một bầu không khí đẹp đẽ riêng cho họ.
Ý thức xã hội trong nghệ thuật của họ cũng gắn với
khả năng đóng góp về thuế thu nhập của họ khi bán những tác phẩm. Tác
phẩm bán càng đắt, cơ bản cũng đồng nghĩa với giá trị nghệ thuật cao, và
đóng góp nhiều hơn bằng thuế. Ví dụ một tác phẩm giá trị là một triệu
đô la, thuế thu nhập tới 40%, nghĩa là cả nghệ sỹ lẫn nước nhà đều có
thu nhập cao, hơn vì chỉ bán tác phẩm có vài trăm đô la và trốn thuế.
Xây dựng một nền nghệ thuật chuyên nghiệp có chiều sâu, và hoạt động
nghệ thuật như là một ngành thương mại đặc biệt, một ngành công nghiệp
sạch, đương nhiên đòi hỏi cơ chế đặc biệt, chính sách thuế phát triển
mềm dẻo từng bước thích ứng với sự trưởng thành của thị trường nghệ
thuật, tự nó có khả năng triệt tiêu được việc vi phạm bản quyền nghệ
thuật.
Đáng lẽ từ lâu, giới mỹ thuật cần đưa các gallery vào hoạt động mỹ thuật chung, và kết nạp các chủ gallery vào hội mỹ thuật. Ngược lại các gallery được thả nổi hoàn toàn, giống như mọi cửa hàng kinh doanh thông thường, họ không được giúp đỡ tư vấn về kiến thức nghệ thuật và các quy chế nghệ thuật.SOURCE: VIETNAMNET
Chủ gallery không có bằng cấp gì (Bằng quản trị kinh doanh nghệ thuật, Aministrator of art ), không hề vì mục đích nghệ thuật chung của xã hội, thuần vì lợi nhuận, nên họ kinh doanh không hạn chế đối tượng, nghĩa là ai bán chạy thì kinh doanh, không mời được họa sỹ thì làm tranh giả. Một thời gian dài làm ăn khó khăn, các họa sỹ không cộng tác, tất cả các gallery trong nước có xu hướng kinh doanh một số họa sỹ giống nhau.
Ngược lại, các họa sỹ luôn có xu hướng tự kinh doanh lấy, làm thiệt hại đầu tư quảng cáo của gallery, và khách hàng muốn mua rẻ không chi trả phần trăm kinh doanh cũng luôn trực tiếp tìm đến họa sỹ. Những vấn đề trên cho thấy, đáng nhẽ thị trường nghệ thuật Việt Nam có thể hình thành từ những năm 1990 lập tức xuống dốc, và chuyển hướng sang thị trường xuất khẩu không chính thức và hoạt động này cũng có cơ hội phát triển. (Phan Cẩm Thượng)
Trích dẫn từ: http://vietnamnet.vn/vanhoa/2009/04/840548/
0 comments:
Post a Comment