TS. BÙI ĐĂNG HIẾU – Trường Đại học Luật Hà Nội
Điều 24 Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 quy định: “Quyền
nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với
mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác”. Quy định này đã nêu lên khái niệm về quyền
nhân thân thông qua hai đặc điểm cơ bản là: gắn liền với cá nhân, không
chuyển dịch. Nếu chỉ dừng lại ở những đặc điểm đó thì khái niệm quyền
nhân thân sẽ vướng phải một số bất cập nhất định sau đây.
Thứ nhất, hai đặc điểm nêu trên thực sự
chưa đủ để phân biệt quyền nhân thân với các quyền dân sự khác, bởi lẽ
có một số quyền tài sản cũng mang đủ hai đặc điểm này. Pháp luật hôn
nhân và gia đình quy định rằng quyền được cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp
dưỡng cũng được gắn liền với những cá nhân nhất định như: giữa cha mẹ và
con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà và cháu, giữa vợ và chồng.
Quyền yêu cầu cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng
các quyền, nghĩa vụ khác và cũng “không thể chuyển giao cho người khác”
(Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình 2000). Quyền này là quyền tài sản
chứ không phải là quyền nhân thân. Điều 309 BLDS 2005 cũng quy định một
số quyền tài sản không thể chuyển giao cho người khác như “quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm uy tín”.
Các quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại này được phát sinh khi các quyền
nhân thân của cá nhân bị xâm phạm, chúng là quyền tài sản nhưng cũng
gắn liền với cá nhân người bị thiệt hại và cũng không dịch chuyển được
sang cho chủ thể khác.
Thứ hai, Điều 24 BLDS 2005 quy định rằng quyền nhân thân là quyền “gắn liền với mỗi cá nhân”,
vậy thì các chủ thể khác (như pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác) có
các quyền nhân thân của mình không? Điều 604 và Điều 611 BLDS 2005 có đề
cấp đến “danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác”, vậy đây
có được coi là quyền nhân thân của pháp nhân và các chủ thể khác không?
Điều 1 Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/04/2004, cũng như Điều 1
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao, đều quy định giống nhau rằng “Thiệt hại do tổn
thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp
nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm,
tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin … vì bị hiểu
nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ
chức phải chịu”. Các quy định đó đều hướng tới sự thừa nhận các quyền nhân thân đối với pháp nhân và các chủ thể khác.
Các phân tích trên cho ta thấy phải chăng khái
niệm quyền nhân thân nên được mở rộng không những gắn với cá nhân mà với
cả các chủ thể khác. Ngoài đặc điểm được nêu tại Điều 24 BLDS 2005,
chúng ta cũng nên bổ sung thêm một số đặc điểm nữa (như: gắn liền với
giá trị tinh thần, không định giá được, …) để phân biệt quyền nhân thân
với các quyền dân sự khác. Từ đó chúng ta có thể xây dựng khái niệm
quyền nhân thân như sau: “Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với đời
sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và không
thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”.
BLDS 2005 liệt kê tương đối nhiều các quyền nhân thân
(từ Điều 26 đến Điều 51), bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền thay đổi
họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền
đối với hình ảnh; quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ,
thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người;
quyền xác định lại giới tính; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy
tín; quyền bí mật đời tư; quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền
được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; quyền ly
hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi con nuôi và
quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự
do cư trú; quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên
cứu, sáng tạo. Điều 738 và Điều 751 BLDS 2005 còn quy định thêm một số
quyền nhân thân như: quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật
hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác
phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố hoặc cho phép người khác công
bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác
sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm; quyền đứng tên tác giả trong văn
bằng bảo hộ sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn,
giống cây trồng.
Các quyền nhân thân này có thể được phân loại theo
nhiều tiêu chí khác nhau, mỗi tiêu chí thể hiện một khía cạnh pháp lý
đặc thù. Thông qua các phân loại này chúng ta sẽ hiểu được rõ nét hơn
bản chất pháp lý của từng loại quyền nhân thân, từ đó nhận diện được
chính xác các hành vi xâm phạm và đề ra được phương thức bảo vệ thích
hợp nhất. Sau đây chúng tôi sẽ trình bày sáu cách phân loại các quyền
nhân thân và ý nghĩa của từng cách phân loại đó.
Thứ nhất, dựa vào căn cứ phát sinh mà
các quyền nhân thân có thể phân thành nhóm các quyền nhân thân không gắn
với tài sản và nhóm các quyền nhân thân gắn với tài sản. Phân loại này
được thể hiện tại khoản 1 Điều 15 BLDS 2005. Các quyền nhân thân không
gắn với tài sản được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS 2005. Các
quyền nhân thân không gắn với tài sản này được công nhận đối với mọi cá
nhân một cách bình đẳng và suốt đời, không phụ thuộc vào bất cứ hoàn
cảnh kinh tế, địa vị hay mức độ tài sản của người đó. Các quyền nhân
thân này thể hiện giá trị tinh thần của chủ thể đối với chính bản thân
mình, luôn gắn với chính bản thân người đó và không dịch chuyển được
sang chủ thể khác.
Ngược lại, các quyền nhân thân gắn với tài sản chỉ
được xác lập cùng với sự hình thành của một tài sản vô hình (như tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, …). Đây là quyền nhân thân của
chủ thể đối với tài sản vô hình mà người đó sáng tạo ra. Các quyền nhân
thân này được quy định tại khoản 2 Điều 738 và mục a khoản 1 Điều 751
BLDS 2005. Trong số các quyền này có một quyền có thể chuyển giao được
sang cho chủ thể khác – đó là quyền công bố hoặc cho phép người khác
công bố tác phẩm (theo quy định tại Khoản 1 Điều 742 BLDS 2005).
Việc phân loại này giúp chúng ta định hình rõ căn cứ
và thời điểm xác lập các quyền nhân thân. Mỗi một chủ thể đều được công
nhận một cách vô điều kiện các quyền nhân thân không gắn với tài sản.
Tuy nhiên, để được thừa nhận các quyền nhân thân gắn với tài sản thì chủ
thể đó phải chứng minh đươc sự tồn tại của loại tài sản vô hình do
chính mình sáng tạo ra. Nếu không có tài sản đó thì không phát sinh các
quyền nhân thân của chủ thể có liên quan.
Thứ hai, dựa vào chủ thể mang quyền mà
các quyền nhân thân có thể được phân thành hai nhóm là: Nhóm các quyền
nhân thân của cá nhân và nhóm các quyền nhân thân của các chủ thể khác
(không phải là cá nhân). Các quyền nhân thân của cá nhân bao gồm các
quyền nhân thân được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS 2005 và các
quyền nhân thân gắn với tài sản được quy định tại Điều 738 BLDS 2005.
Các quyền nhân thân của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có thể bao
gồm: quyền được bảo vệ danh dự, uy tín (được đề cập đến tại Điều 604 và
Điều 611 BLDS 2005). Theo chúng tôi, có thể thừa nhận thêm một số quyền
nhân thân của pháp nhân như quyền đối với tên gọi, quyền tự do kinh
doanh đối với các chủ thể có đăng ký kinh doanh.
Việc phân loại này giúp chúng ta nhận diện được chính
xác nội dung năng lực pháp luật của từng chủ thể khi tham gia vào các
quan hệ dân sự. Mặc dù chỉ là chủ thể hư cấu, chỉ có ý nghĩa về mặt pháp
lý, nhưng pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác cũng có “đời sống tinh thần”
của riêng mình, có những giá trị phi vật chất, không định giá được và
không thể chuyển giao được cho chủ thể khác, và các giá trị đó cần phải
được bảo vệ khỏi sự xâm phạm bất hợp pháp.
Thứ ba, dựa vào đối tượng của quyền mà các quyền nhân thân được phân thành 5 nhóm sau đây:
1) Nhóm các quyền cá biệt hoá chủ thể, bao gồm: quyền
đối với họ tên; quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền
được khai sinh, khai tử; quyền đối với hình ảnh; quyền xác định lại giới
tính; quyền đối với quốc tịch.
2) Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân,
bao gồm: quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể;
quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người.
3) Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của
chủ thể: quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời
tư; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động; quyền tự do kinh
doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo.
4) Nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hôn nhân và
gia đình của cá nhân: quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền
được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; quyền ly hôn;
quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi con nuôi và quyền
được nhận làm con nuôi;
5) Nhóm các quyền đối với các đối tượng của quyền sở
hữu trí tuệ: quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút
danh trên tác phẩm hay trên văn bằng bảo hộ (đối với sáng chế, kiểu
dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng), quyền
được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự
toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên
tạc tác phẩm.
Trong phân loại này, mỗi nhóm nêu trên có những đặc
điểm pháp lý riêng biệt. Nhóm các quyền cá biệt hoá chủ thể được thể
hiện dưới hình thức các công cụ cá biệt hoá khác nhau ở mỗi chủ thể (mỗi
người có tên gọi và hình ảnh và các yếu tố lý lịch khác nhau). Tập hợp
các công cụ cá biệt hoá đó ở mỗi chủ thể sẽ cho ta được sự hình dung bên
ngoài về chủ thể đó khác biệt với các chủ thể khác. Quyền “thể hiện mình” được bảo vệ một cách tuyệt đối trước sự xâm phạm của bất kỳ chủ thể khác, và được bảo vệ theo yêu cầu của chủ thể quyền.
Thân thể của mỗi cá nhân không phải là tài sản, mà
thuộc về nhân thân của cá nhân đó. Các quyền liên quan đến thân thể của
cá nhân được bảo vệ một cách giống nhau ở mọi cá nhân (tính mạng, sức
khoẻ, thân thể của mỗi cá nhân đều được bảo vệ như nhau và đều là vô giá
mà không phụ thuộc vào giới tính hay địa vị xã hội) và được bảo vệ một
cách tuyệt đối khỏi sự xâm phạm của bất kỳ chủ thể khác, bất kể chủ thể
quyền có yêu cầu hay không yêu cầu được bảo vệ.
Nhóm quyền nhân thân liên quan đến quan hệ hôn nhân
và gia đình được chia thành hai phân nhóm là: nhóm các quyền tạo lập gia
đình (quyền kết hôn, quyền ly hôn, quyền nhận nuôi và được nhận làm con
nuôi) và nhóm quyền giữa các thành viên trong gia đình (quyền bình đẳng
vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia
đình). Các quyền thuộc phân nhóm thứ nhất được bảo vệ một cách tuyệt đối
khỏi sự xâm phạm của bất kỳ chủ thể khác. Còn các quyền thuộc phân nhóm
thứ hai chỉ được bảo vệ một cách tương đối khỏi sự xâm phạm của các
thành viên khác trong chính gia đình đó mà thôi. Các quyền này được xác
lập một cách khác nhau ở từng chủ thể, phụ thuộc vào hoàn cảnh gia đình
của người đó (đã lập gia đình chưa, có con cái hay không) và phụ thuộc
vào địa vị của người đó trong gia đình (là con hay là cha, là chồng hay
là vợ). Các quyền này có thể chấm dứt khi các chủ thể trong gia đình
không còn nữa.
Nhóm các quyền nhân thân liên quan đến các đối tượng
của quyền sở hữu trí tuệ mang đặc điểm của quyền nhân thân gắn với tài
sản (xem ở phần trên) và được bảo hộ phụ thuộc vào đặc điểm riêng của
từng đối tượng sở hữu trí tuệ.
Thứ tư, Dựa vào thời hạn bảo hộ mà các
quyền nhân thân được phân loại thành hai nhóm: Nhóm các quyền nhân thân
được bảo hộ vô thời hạn và nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ có thời
hạn.
Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn bao
gồm: quyền đối với họ tên; quyền đối với hình ảnh; quyền được bảo vệ
danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được
nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền
bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén,
xuyên tạc tác phẩm.
Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ có thời hạn bao
gồm: quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai
sinh, khai tử; quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân
thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận
bộ phận cơ thể người; quyền xác định lại giới tính; quyền kết hôn, quyền
bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên
trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền
được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc
tịch; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động, quyền tự do kinh
doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo; quyền đặt tên cho tác phẩm;
quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
Việc phân loại này có ý nghĩa đối với việc bảo vệ
quyền nhân thân khỏi sự xâm phạm. Các quyền nhân thân thuộc nhóm vô thời
hạn được pháp luật bảo hộ vĩnh viễn. Khi chủ thể không còn nữa thì
những người có liên quan được quyền yêu cầu bảo vệ khi có hành vi xâm
phạm. Ví dụ: nếu có người tung tin thất thiệt làm tổn hại đến danh dự
của một người đã khuất thì những người thân thích của người đó vẫn có
quyền yêu cầu chấm dứt hành vi xâm hại và bồi thường thiệt hại. Ngược
lại, các quyền nhân thân thuộc nhóm có thời hạn thì chỉ được pháp luật
bảo hộ khi chủ thể đó còn sống. Bởi lẽ, khi cá nhân chết đi thì các
quyền nhân thân thuộc nhóm này hoặc không thể thực hiện được nữa, hoặc
không thể bị xâm phạm nữa. Riêng thời hạn bảo hộ quyền công bố hoặc cho
phép người khác công bố tác phẩm được quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật
Sở hữu trí tuệ năm 2000. Đặc biệt, quyền được khai tử của cá nhân chỉ
được thực hiện khi chính cá nhân đó chết đi. Trình tự và thời hạn khai
tử được thực hiện theo quy định riêng của pháp luật.
Đối với các quyền thuộc nhóm vô thời hạn, chúng ta
nên lưu ý phân biệt giữa việc thực hiện quyền yêu cầu chấm dứt hành vi
xâm phạm với việc thực hiện quyền công bố, cho phép sử dụng các thông
tin của cá nhân. Sau khi một người chết đi thì những người thân thích
được quyền yêu cầu chấm dứt các hành vi xâm phạm đến họ tên, hình ảnh,
danh dự, uy tín, bí mật đời tư, tên trên tác phẩm, xâm phạm toàn vẹn tác
phẩm của người đó. Tuy nhiên, khác với chính chủ thể quyền nhân thân,
những người thân thích này không được quyền thay đổi tên gọi, thay đổi
nội dung tác phẩm. Các thông tin cá nhân (bí mật đời tư hay tác phẩm
chưa được công bố) mà khi còn sống người đó không muốn tiết lộ (vì lý do
hết sức riêng tư) thì sau khi người đó qua đời những người thân thích
cũng không được quyền công bố. Điều này thể hiện sự tôn trọng đối với cá
nhân đã khuất. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 38 BLDS 2005 lại quy định những
người thân thích được quyền cho phép thu thập, công bố bí mật đời tư của
cá nhân sau khi cá nhân đó chết đi. Với quy định này thì liệu mỗi người
trong số chúng ta khi chết đi có thể yên tâm không khi biết rằng mọi bí
mật đời tư của mình sẽ được người khác biết đến? Cũng như vậy đối với
các tác phẩm chúng ta không muốn công bố vì được sáng tác dành riêng cho
một người yêu quý thì sau này cũng sẽ được công bố rộng rãi ngoài mong
muốn của chúng ta?
Thứ năm, dựa vào đặc điểm của hành vi
xâm phạm mà chúng ta phân loại các quyền nhân thân thành ba nhóm: 1)
Nhóm các quyền mà hành vi xâm phạm tác động vào chính chủ thể quyền; 2)
Nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào các chủ thể khác (không phải là
chủ thể quyền); 3) Nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào vật phẩm liên
quan đến quyền.
Nhóm các quyền mà hành vi xâm phạm tác động vào chính
chủ thể quyền bao gồm: quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức
khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể
người; quyền xác định lại giới tính; quyền thay đổi họ tên; quyền xác
định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền được bảo vệ nhân
phẩm, các quyền nhân thân liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình;
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú;
quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng
tạo.
Nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào các chủ thể
khác (không phải là chủ thể quyền) bao gồm: quyền được bảo vệ danh dự,
uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền đối với họ tên; quyền công bố hoặc
cho phép người khác công bố tác phẩm;
Nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào vật phẩm liên
quan đến quyền bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền đối với hình ảnh;
quyền bí mật đời tư; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền đối với quốc
tịch; quyền bí mật đời tư; quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên
thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi
tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm,
không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.
Việc phân loại dựa trên đặc điểm của hành vi xâm phạm
có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận diện và chứng minh hành vi xâm
phạm. Khi nộp đơn yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ trước những hành vi
xâm phạm quyền nhân thân của mình thì chủ thể quyền phải chỉ ra được các
hành vi xâm phạm và chứng minh rằng hành vi đó đã trực tiếp xâm hại đến
quyền nhân thân của mình. Hơn thế nữa, việc phân tích đặc điểm của hành
vi xâm phạm sẽ giúp ích cho việc khôi phục lại các giá trị nhân thân bị
xâm phạm.
Đối với các quyền thuộc nhóm thứ nhất thì chính chủ
thể quyền là người bị hành vi xâm phạm tác động tới. Hậu quả mà hành vi
này mang lại là những tổn thất trực tiếp gây ra đối với chủ thể quyền
(tính mạng, sức khoẻ, thân thể, …) hoặc những khó khăn ngăn cản chủ thể
quyền thực hiện hành vi liên quan đến quyền nhân thân của mình (đi lại,
lao động, sáng tạo, kết hôn, ly hôn, …). Quá trình khắc phục thiệt hại
chủ yếu được thực hiện đối với chính chủ thể quyền như chăm sóc, chữa
bệnh, phục hồi sức khoẻ, xin lỗi, chấm dứt hành vi cản trở, … (Riêng đối
với trường hợp xâm phạm tính mạng thì việc khôi phục tính mạng là không
thực hiện được, trách nhiệm bồi thường khi đó được thực hiện cho những
người thân thích của chủ thể quyền).
Đối với các quyền thuộc nhóm thứ hai thì hành vi xâm
hại lại không tác động vào chính chủ thể quyền, mà tác động vào các chủ
thể khác làm ảnh hưởng đến sự nhìn nhận, đánh giá của các chủ thể khác
về cá nhân chủ thể mang quyền (tung tin thất thiệt xúc phạm danh dự,
giảm uy tín của chủ thể quyền, công bố trái phép tác phẩm của tác giả
trước công chúng, …). Những thiệt hại mà chủ thể quyền phải gánh chịu có
thể được xoá bỏ bằng việc cải chính, xin lỗi công khai trên các phương
tiên thông tin đại chúng để xoá đi sự nhìn nhận tiêu cực của các chủ thể
khác đối với chủ thể quyền do hành vi xâm hại gây ra.
Đối với các quyền thuộc nhóm thứ ba thì hành vi lại
không tác động vào các chủ thể nói chung, mà lại tác động vào vật phẩm
có liên quan đến quyền của chủ thể quyền (thư tín, chỗ ở, sách báo và
các ấn phẩm mang tác phẩm, ….). Những thiệt hại do hành vi này gây ra có
thể được khắc phục phần nào thông qua tác động đến các vật phẩm đó như
việc thu hồi ấn phẩm, trả lại thư tín, sửa chữa thông tin trong lý lịch,
…
Cần lưu ý rằng trong cách phân loại này có sự giao
thoa nhất định giữa các nhóm. Có những quyền nhân thân thuộc cả hai nhóm
trong ba nhóm nêu trên. Ví dụ như: hành vi xâm phạm bí mật đời tư có
thể biểu hiện bằng hành vi tác động vào các chủ thể khác (công bố thông
tin đời tư) cũng như bằng hành vi tác động vào vật phẩm mang thông tin
về bí mật đời tư (bóc mở thư tín, điện tín, …).
Thứ sáu, dựa vào phương thức bảo vệ mà
các quyền nhân thân được phân thành hai nhóm: Nhóm các quyền được bảo vệ
khi có yêu cầu và nhóm được bảo vệ không phụ thuộc vào yêu cầu.
Nhóm các quyền được bảo vệ khi có yêu cầu bao gồm:
quyền đối với họ tên; quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc;
quyền được khai sinh, khai tử; quyền đối với hình ảnh; quyền hiến bộ
phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền xác định lại giới tính; quyền được bảo vệ
danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền kết hôn; quyền bình đẳng vợ
chồng; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được
nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc tịch;
quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền
tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động, quyền tự do kinh doanh;
quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo; quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng
tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh
khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố hoặc cho phép người
khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho
người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.
Nhóm được bảo vệ không phụ thuộc vào yêu cầu bao gồm:
quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được
bảo vệ nhân phẩm; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên
trong gia đình.
Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định cơ
chế bảo vệ hiệu quả các quyền nhân thân. Đối với các quyền nhân thân
thuộc nhóm thứ nhất thì chủ thể quyền chính lại người đánh giá xem các
quyền nhân thân của mình có bị xâm phạm hay không, tự quyết định có yêu
cầu chấm dứt hành vi xâm phạm hay không, và Nhà nước sẽ chỉ can thiệp và
bảo vệ khi có yêu cầu. Ví dụ: các nhạc sĩ thường khởi kiện khi chứng
kiến ca khúc của mình bị xuyên tạc lời, nhưng một số nhạc sĩ khác thì
lại thấy vui vì điều đó, bởi lẽ khi đó họ cảm thấy các ca khúc của mình
đã “thực sự đi vào quần chúng, được quần chúng nhắc tới”, và họ
không cảm thấy sự xúc phạm trong đó. Trong cuộc sống hàng ngày diễn ra
vô số các vụ chửi bới, xúc phạm danh dự của nhau, nhưng số vụ án liên
quan đến xâm phạm danh dự mà Toà án phải giải quyết thì không nhiều, bởi
lẽ chỉ khi nào có yêu cầu của chủ thể quyền thì Nhà nước mới can thiệp
vào. Yêu cầu ở đây có thể là của chính chủ thể quyền hay của những người
thân thích (khi chủ thể quyền không còn nữa hoặc không đầy đủ năng lực
hành vi dân sự).
Nhưng đối với các quyền nhân thân thuộc nhóm thứ hai
thì Nhà nước sẽ chủ động can thiệp vào chống lại hành vi xâm phạm ngay
cả khi không có yêu cầu. Ví dụ như các hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, thân thể của người khác, các hành vi bạo lực, xâm phạm nhân phẩm
hay các hành vi xâm phạm quyền được hưởng sự chăm sóc của trẻ em, …
Trên đây là một số phân loại cơ bản đối với các quyền
nhân thân. Có thể còn nhiều cách phân loại nữa dựa trên các tiêu chí
khác, bởi lẽ quyền nhân thân luôn là vấn đề mới mẻ, nhạy cảm và phức
tạp. Mong các đọc giả góp ý bổ sung thêm nhằm giúp cho các nhà lập pháp
định hình được rõ nét nhất bản chất của các quyền nhân thân, từ đó hoàn
thiện các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nhân thân./.
SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ THÁNG 7 NĂM 2009
0 comments:
Post a Comment