ĐẶNG TRUNG HÀ – Vụ Pháp luật quốc tế – Bộ Tư pháp
Lý lịch tư pháp theo
pháp luật Việt Nam được hiểu là “bộ nhớ” về các án tính của những cá
nhân đã từng can án hình sự. Dưới góc độ khoa học pháp lý, lý lịch tư
pháp được định nghĩa là những dữ liệu về tình trạng pháp lý của một cá
nhân, ghi nhận là những thông tin về các chế tài, hình phạt, biện pháp
pháp lý đã áp dụng đối với cá nhân đó.
Khi tìm hiểu về vấn đề này trong pháp luật một số
nước, chúng ta có thể thấy có hai loại thuật ngữ dùng để chỉ khái niệm
này như: criminal record hay criminal history record (lý lịch tư pháp
hình sự); judicial record hay court record (dùng để chỉ những dữ liệu về
các bản án, quyết định của ngành tư pháp, toà án trong đó bao gồm cả
các án hình sự và phi hình sự). Để tìm hiểu phương pháp quản lý và cấp
lý lịch tư pháp của một số nước từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật Việt
Nam, tham luận bước đầu xin được đề cập đến pháp luật của một số nước,
trong đó có chú ý tìm hiểu 02 nước thuộc hệ thống pháp luật Common
law(Hoa Kỳ và Vương quốc Liên hiệp Anh) và 01 nước thuộc hệ thống pháp
luật Civil law (Cộng hoà Pháp). Do các thông tin và tài liệu tác giả chủ
yếu thu thập được thông qua các website, cơ sở dữ liệu pháp luật, một
số sách, tạp chí nước ngoài và được tập hợp lại trên dựa vào chủ quan
của tác giả, nên chắc chắn không tránh khỏi sai sót. Tác giả rất mong
nhận được ý kiến đóng góp từ phía các chuyên gia để việc nghiên cứu đạt
kết quả tốt hơn.
I. Pháp luật một số nước về lý lịch tư pháp
1. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Vấn đề quản lý hệ thống dữ liệu và phạm
vi cung cấp lý lịch tư pháp cũng đang là vấn đề hiện gây tranh cãi tại
Hoa Kỳ, đặc biệt là trong quan hệ với vấn đề cấm phân biệt đối xử trong
tuyển dụng lao động. Theo luật về các quyền dân sự của Liên bang cũng
như các bang tại Hoa Kỳ quy định cấm mọi hình thức phân biệt đối xử đối
với những người đã bị kết án hình sự và đã chấp hành hình phạt. Từ quy
định của luật liên bang, hầu hết các bang đều ban hành các đạo luật nhằm
cụ thể hoá quy định về cấm phân biệt đối xử này trong đó hạn chế việc
các cá nhân, tổ chức kiểm tra lý lịch tư pháp của một người. Hiện nay,
nhất là trong quá trình tuyển chọn lao động làm việc trong các ngành
dịch vụ đặc thù, nhu cầu kiểm tra lý lịch tư pháp ngày càng gia tăng và
những tổ chức tuyển dụng lao động đã có những kiến nghị với Quốc hội
liên bang cũng như Quốc hội của các bang mở rộng hơn nữa quyền của các
tổ chức này trong việc kiểm tra lý lịch tư pháp của người lao động.
Trong bối cảnh đó, vấn đề quản lý và
cấp lý lịch tư pháp như thế nào cũng đang là vấn đề đặt ra cho các nhà
lập pháp Mỹ. Dưới đây chúng ta tìm hiểu một số nội dung chính có liên
quan đến quản lý và cấp lý lịch tư pháp, đó là: các cơ sở dữ liệu về lý
lịch tư pháp, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu và vấn đề tiếp cận đối với
hệ thống cơ sở dữ liệu này.
1.1. Các cơ sở dữ liệu lưu trữ thông tin về lý lịch tư pháp và cơ quan quản lý.
Hoa Kỳ không có một văn bản pháp lý riêng
quy định về việc tổ chức hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc quản
lý và cấp lý lịch tư pháp của các cá nhân. Tuy nhiên, nếu nhìn vào bản
chất của cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp là nơi lưu trữ các thông tin có
liên quan đến tình trạng pháp lý, các chế tài, hình phạt, biện pháp pháp
lý đã áp dụng với một cá nhân thì chúng ta cũng có thể thấy ở Hoa Kỳ hệ
thống các dữ liệu này cũng khá phong phú.
Do đặc điểm của quốc gia liên bang, các
“kho” dữ liệu về lý lịch tư pháp của công dân Mỹ cũng được lưu trữ ở cả
các cơ sở dữ liệu của liên bang cũng như các cơ sở dữ liệu của từng
bang. Ngoài ra, căn cứ theo quy định của các đạo luật liên quan đến tư
do thông tin công cộng của Hoa Kỳ, nhiều tổ chức tư nhân cũng đã tập hợp
những thông tin công khai của chính quyền và xây dựng những hệ cơ sở dữ
liệu thông tin của riêng mình nhằm mục đích cung cấp cho những người có
nhu cầu.
a/Ở cấp độ liên bang:
– Hệ thống tàng thư căn cước tội phạm của Cục điều tra liên bang Mỹ FBI.
Có thể thấy cơ sở dữ liệu quan trọng nhất
chứa đựng lý lịch tư pháp của các cá nhân là hệ thống thông tin tội
phạm của Cục điều tra liên bang Mỹ FBI. Hệ thống này sử dụng phương pháp
lưu trữ các tàng thư căn cước của tội phạm. Đây là một trong những
hệ cơ sở dữ liệu nằm trong hệ thống dữ liệu điện tử chính thống của liên
bang.
Việc sử dụng vân tay để xác định công dân
đã lần đầu tiên được áp dụng tại Mỹ từ năm 1902. Từ việc lưu trữ các
dấu vân tay của công dân, các nhà tù của Hoa Kỳ đã sử dụng đặc điểm
không thể trùng lắp của hệ thống này để xác định tội phạm. Vào những
thập niên đầu của thế kỷ 20, ngày càng nhiều các cơ quan cảnh sát địa
phương ở Mỹ sử dụng hệ thống tàng thư căn cước này để xác định tội phạm
và để quản lý thống nhất vào một đầu mối, ngày 1/07/1921 Quốc Hội liên
bang Hoa Kỳ đã ban hành một đạo luật thiết lập Phòng quản lý căn cước
trực thuộc Cục Điều tra liên bang Mỹ FBI với chức năng thống nhất lưu
trữ các hồ sơ căn cước tội phạm. Năm 1933, Uỷ ban về các dịch vụ dân sự
Hoa Kỳ (nay là Văn phòng quản lý nhân sự liên bang) đã giao thêm cho
Phòng quản lý căn cước của FBI nhiệm vụ quản lý hơn 140.000 hồ sơ căn
cước của công chức phục vụ cho bộ máy chính quyền liên bang và bang. Đến
năm 1992, Phòng căn cước đã được tái thiết lập lại với tên gọi mới là
Phòng về các dịch vụ thông tin tội phạm tư pháp ( Criminal Justice
Information – CJIS). Phòng CJIS hiện có hai chức năng chính là duy trì
và cập nhật cơ sở dữ liệu về tội phạm (bao gồm cả các lệnh truy nã, các
quyết định bắt giam, thi hành hình phạt, các quyết định phóng thích
phạm nhân) và cung cấp dịch vụ có liên quan đến kiểm tra, xác định tội
phạm và lý lịch tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền của liên bang, các
bang và các các cá nhân được quyền tiếp cận hệ thống thông tin này theo
quy định của pháp luật. Hệ thống tàng thư căn cước này lưu trữ đến hơn
41 triệu thông tin liên quan đến tội phạm, và hàng ngày có trung bình có
khoảng 7.000 thông tin được cập nhật mới.
Trước tiên, có thể thấy rằng mục đích sử
dụng của hệ cơ sở dữ liệu này trước hết là nhằm phục vụ cho các công
việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm của Cục điều tra liên bang. Do
vậy, các thông tin trong dữ liệu cũng được lưu trữ dưới các tiêu chí
nhằm phục vụ cho các cơ quan điều tra, công tố của chính quyền là chính,
việc sử dụng hệ cơ sở dữ liệu vào mục đích kiểm tra và cấp lý lịch tư
pháp hình sự của một cá nhân chỉ là mục đích thứ yếu.
– Hệ cơ sở dữ liệu của ngành tư pháp.
Hầu hết các Toà án liên bang Mỹ đã tiến
hành tin học hoá và các bản án, các thống kê về tội phạm được đưa lên
trên trang web của các toà án này, trừ những trường hợp đặc biệt không
công khai. Đây cũng là một nguồn cơ sở dữ liệu có lưu trữ các thông tin
liên quan đến các chế tài, hình phạt và biện pháp pháp lý của một cá
nhân do Toà án tuyên và cũng có thể được sử dụng vào mục đích kiểm tra
về lý lịch tư pháp. Tuy nhiên, các vụ việc do Toà án liên bang xét xử
chủ yếu là những vụ việc hình sự đặc biệt nghiêm trọng như giết người,
buôn bán ma tuý, tội phạm có tổ chức… và theo thống kê chỉ chiếm 10%
tổng số tội phạm trên phạm vi toàn nước Mỹ hàng năm.
b/ Ở các bang.
– Hệ thống cơ sở dữ liệu về tội phạm của bang.
Hiện nay, tại Hoa Kỳ hầu hết các bang
(trừ bang Califolia)[1]đã có hệ cơ sở dữ liệu về tội phạm trong phạm vi
lãnh thổ của bang mình được cập nhật trong từng năm dựa trên các phán
quyết đã được tuyên bởi toà án bang. Hệ thống dữ liệu này là công khai
và mọi người đều có thể tiếp cận theo luật về tự do thông tin. Tất
nhiên, mục đích của hệ cơ sở dữ liệu này cũng không phải là để quản lý
và cấp lý lịch tư pháp cho những tổ chức, cá nhân có yêu cầu mà là nhằm
mục đích chính là thống kê tội phạm xảy ra trên từng bang của nước Mỹ.
– Hệ thống lưu trữ của các Toà án cấp bang.
Hầu hết các toà án bang đều có các ghi
chép và lưu trữ các thông tin có liên quan đến lý lịch tư pháp, không
chỉ trong lĩnh vực hình sự mà còn cả trong các lĩnh vực khác như: các
chế tài xử phạt đối với các tội vi phạm giao thông, việc thay đổi họ
tên, quyết định ly hôn, vấn đề phá sản… Hệ thống tài liệu này được lưu
trữ dưới các hình thức như: tập biên bản làm việc của Toà án (minute
book), tập ghi chép các hoạt động (Register of action), tập thông tin về
phán quyết (judgment book) và tập các án lệ (case files).
Ngoài các hệ cơ sở dữ liệu chính nói
trên, còn có các cơ sở dữ liệu khác cũng lưu trữ các thông tin về lý
lịch tư pháp như: cơ sở dữ liệu của cơ quan lưu trữ liên bang và các
bang của Hoa Kỳ, cơ sở dữ liệu do các tổ chức tư nhân tự xây dựng dựa
trên các hệ cơ sở dữ liệu cho phép tiếp cập công khai (các cơ sở dữ liệu
tội phạm của bang, các cơ sở dữ liệu về án lệ của toà án). Theo luật
của Hoa Kỳ, các dữ liệu công và các tài liệu khác do các cơ quan Nhà
nước ghi lại sau một thời gian nhất định đều phải đưa vào hệ thống lưu
trữ của liên bang cũng như của các bang. Do vậy, hệ cơ sở dữ liệu của cơ
quan lưu trữ rất phát triển, lưu trữ các thông tin đa dạng từ các quyết
định hành chính đến cả quyết định của các cơ quan tư pháp. Các hệ cơ sở
dữ liệu của các tổ chức tư nhân cũng ngày càng phát triển đáp ứng nhu
cầu thông tin của các cá nhân, tổ chức vì nhiều mục đích khác nhau.
1.2. Phạm vi lưu trữ thông tin của các cơ sở dữ liệu có liên quan đến lý lịch tư pháp.
Qua nghiên cứu, có thể thấy các cơ sở dữ
liệu có liên quan đến lý lịch tư pháp ở Hoa Kỳ có phạm vi lưu trữ thông
tin khá rộng.
– Đối với “kho” dữ liệu lớn nhất là hệ
thống tàng thư căn cước của FBI thì ngoài việc lưu trữ về án tính còn
lưu trữ cả các thông tin khác như: các lệnh bắt, lệnh truy nã… và cả
những thông tin liên quan đến các biện pháp xử lý của Toà án áp dụng đối
với các hành vi chưa được coi là tội phạm hình sự như: xử lý các đối
tượng gây rối trật tự công cộng, phạt do vi phạm luật lệ giao
thông.v.v.. Tóm lại, hệ thống của FBI lưu trữ tất cả những thông tin mà
họ thu thập được liên quan đến việc vi phạm pháp luật của các cá nhân để
phục vụ cho công tác điều tra khám phá tội phạm. Gần đây, kho dữ liệu
về tàng thư căn cước của FBI đã chia làm hai thư mục riêng: một thư mục
chuyên lưu trữ các thông tin về án tích phục vụ cho mục đích kiểm tra lý
lịch tư pháp và một thư mục là các thông tin liên quan đến tội phạm
(lệnh bắt, truy nã, các thông báo tội phạm…) phục vụ cho mục đích điều
tra khám phá tội phạm.
Đối với các hệ thống lưu trữ của cơ quan
Toà án thì có thể tìm thấy ở đây hầu hết các quyết định của Toà án, từ
quyết định phạt tước bằng lái xe, phạt lao động công ích do gây rối trật
tự công cộng đến các án hình sự nghiêm trọng như tử hình.
1.3. Vấn đề tiếp cận đối với các cơ sở dữ liệu lưu trữ thông tin về lý lịch tư pháp.
Các thông tin liên quan đến lý lịch tư
pháp của một người là vấn đề khá nhạy cảm. Ở Hoa Kỳ, giải quyết vấn đề
này còn phải giải quyết mối quan hệ giữa hai loại quyền: quyền được tiếp
cận các hệ dữ liệu công cộng của quốc gia và quyền giữ bí mật riêng tư,
cấm phân biệt đối xử đối với những người đã phải chịu các hình phạt của
toà án.
a/ Tiếp cận với hệ cơ sở dữ liệu tàng thư căn cước tội phạm của FBI:
việc tiếp cận với cơ sở dữ liệu của FBI được quy định khá chặt chẽ. Các
thông tin này hầu hết chỉ được cung cấp cho các cơ quan tư pháp có thẩm
quyền (như cơ quan điều tra, toà án) và cho chính những cá nhân có yêu
cầu kiểm tra lý lịch tư pháp của bản thân. Quy định này nhằm tránh việc
phân biệt đối xử đối với những người đã từng có án tích, đặc biệt trong
việc tìm kiếm việc làm. Bên cạnh đó, mỗi bang của Hoa Kỳ cũng ban hành
những luật riêng quy định một số loại đối tượng nhất định khác được tiếp
cận vào hệ thống thông tin này vì mục đích tuyển dụng lao động. Ví dụ
như tại bang New-York, một số ngành nhất định khi tiến hành tuyển dụng
lao động có thể tiếp cận hệ thống này để kiểm tra nhân thân của người
xin việc làm như: dịch vụ công cộng (thuộc Nhà nước); chăm sóc trẻ em và
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tại nhà; có tổ chức tài chính và các bảo
tàng; làm việc tại trường học và lái xe chuyên chở học sinh tới trường.
Tuy nhiên, để thực hiện quyền này, khi tiến hành tuyển dụng thì các nhà
tuyển dụng phải thông báo rõ ràng những trường hợp người phạm tội nào
thì không được tuyển dụng cho người lao động được biết.
Hiện nay, FBI đã hoàn thiện hệ thống truy cập điện tử vào hệ thống tàng thư căn cước có tên gọi Intergarated Automated Fingerprint Identification System
(IAFIS) khá hiện đại giúp quá trình tìm kiếm và truy xuất thông tin về
lý lịch tư pháp được thực hiện một cách nhanh chóng. Chi phí cho việc
lấy thông tin lý lịch tư pháp khoảng 24 đô la Mỹ cho một bản kiểm tra lý
lịch tư pháp.
b/ Tiếp cận với cơ sở dữ liệu tội phạm của các
bang, cơ sở dữ liệu của ngành tư pháp và các cơ sở dữ liệu của cơ quan
lưu trữ, của các tổ chức tư nhân: Như trên đã phân tích, các tổ chức
tư nhân, các nhà tuyển dụng tư nhân ở Hoa Kỳ không được phép sử dụng hệ
thống tàng thư căn cước của FBI để kiểm tra nhân thân của các cá nhân
nhằm đảm bảo thực hiện quy định về cấm phân biệt đối xử. Tuy nhiên, các
tổ chức này vẫn có thể kiểm tra lý lịch tư pháp thông qua các kênh khác.
Đạo luật về thông báo độ tin cậy (Fair Credit Reporting Act – FCRA[2])
được Quốc Hội Liên bang Mỹ ban hành năm 1998, sửa đổi ngày 7/1/2002 cho
phép thành lập các tổ chức tư nhân làm dịch vụ thông báo thông tin về độ
tin cậy của cá nhân (Creadit Reporting Agencies). Các tổ chức này được
phép làm dịch vụ cho khách hàng (chủ yếu là các nhà tuyển dụng lao động,
các ngân hàng…) để cung cấp thông tin liên quan đến những người lao
động và khách hàng. Trong trường hợp không tiếp cận được hệ thống tàng
thư căn cước của FBI, các tổ chức này sẽ tổ chức tìm kiếm thông tin từ
các nguồn khác nhau như: cơ sở dữ liệu tội phạm của của bang (là công
khai), cơ sở dữ liệu về án lệ của toà án…. và thậm chí tự xây dựng một
cơ sở dữ liệu cho riêng mình để thực hiện mục đích này. Ngoài ra, để đảm
bảo quyền của những lao động, đạo luật FCRA cũng quy định các tổ chức
cung cấp thông tin chỉ được cung cấp các thông tin tối đa trong thời hạn
7 năm tính từ thời điểm hiện tại. Một số bang còn có quy định thắt chặt
hơn ví dụ như chỉ cho phép cung cấp thông tin đối với những án tích
hình sự, không được cung cấp các thông tin liên quan đến các án tính phi
hình sự (ở Hoa Kỳ Toà án phán xử cả các bản án hình sự lẫn những vi
phạm mà ở Việt Nam coi đó là vi phạm hành chính, chưa đến mức xử lý hình
sự như: gây rối trật tự công cộng, vi phạm luật giao thông…).
Hiện nay, dựa vào các quy định của đạo
luật về tự do thông tin của Liên bang (The Freedom of information Act 5
U.S.C. § 552), Các tổ chức dịch vụ này ngày càng gây sức ép yêu cầu Quốc
Hội phải mở rộng quyền truy cập vào hệ thống tàng thư căn cước của FBI
nhưng hiện tại Quốc Hội vẫn chưa cho phép. Ngược lại, các tổ chức bảo vệ
người lao động thì gửi rất nhiều yêu cầu cho Quốc Hội đề nghị hạn chế
thẩm quyền của các Tổ chức thông tin về độ tin cậy của cá nhân vì theo
họ các tổ chức này đã lạm dụng thẩm quyền, có nhiều báo cáo thiếu độ
chuẩn xác và vi phạm pháp luật gửi cho các đơn vị tuyển dụng lao động
dẫn đến sự đối xử bất bình đẳng trong lĩnh vực tuyển dụng lao động.
2. Vương quốc liên hiệp Anh
Vương quốc Liên hiệp Anh (United Kingdom of Great Britain- sau đây gọi tắt là nước Anh)
bao gồm 3 quốc gia trên đảo Anh[3], các đảo tự trị chung quanh, các
lãnh thổ tự trị. Khác với Hoa Kỳ, vấn đề quản lý và cấp lý lịch tư pháp
hình sự (criminal record) là một vấn đề được quan tâm và Luật cảnh sát
năm 1997 (Police Act 1997[4]) của nước Anh đã dành hẳn Phần V để quy
định vấn đề này. Phần V của đạo luật về cảnh sát gồm có 15 mục (từ Mục
112 đến Mục 127) quy định khá chi tiết về các vấn đề liên quan đến quản
lý và cấp lý lịch tư pháp từ đối tượng được cấp, cơ quan quản lý hồ sơ
đến các loại Phiếu lý lịch tư pháp khác nhau cấp cho đương sự.
2.1. Cơ quan quản lý, cơ sở dữ liệu.
Bộ Ngoại giao (The Secretary of State) là
cơ quan được giao quản lý và cấp lý lịch tư pháp tại Anh. Giúp việc cho
Bộ Ngoại giao có hai cơ quan trung ương quản lý:
– Văn phòng về lý lịch tư pháp hình sự
của Scoland. Văn phòng này được thành lập năm 1960 với nhiệm vụ quản lý
và cung cấp các thông tin về lý lịch tư pháp cho cảnh sát Scoland và
cộng đồng nhằm trợ giúp cho hoạt động ngăn ngừa và phát hiện tội phạm,
nâng cao an toàn công cộng. Văn phòng này sẽ cấp lý lịch tư pháp cho
công dân của Scoland. Văn phòng của Scoland hiện quản lý hệ thống tàng
thư căn cước của Scoland và làm đầu mối cho Hệ thống liên kết thông tin
tội phạm của Scoland (The Integration of Scottish Criminal Justice
Information Systems- ISCJIS).
– Cục lý lịch tư pháp hình sự (The
Crimial Record Bureau – CRB) được thành lập trên cơ sở của Luật cảnh sát
1997. Cục cung cấp thông tin liên quan đến lý lịch tư pháp hình sự của
các cá nhân cư trú tại Vương quốc Liên hiệp Anh trừ Scoland. Phiếu lý
lịch tư pháp do Cục cấp do cũng thừa uỷ quyền của Bộ Ngoại giao.
2.2. Phạm vi thông tin lưu trữ.
Cơ sở dữ liệu chứa đựng các thông tin về
lý lịch tư pháp là hệ thống máy tính của cảnh sát Quốc gia (The Police
National Computer – PNC). Hệ thống này chỉ lưu trữ các thông tin về
những tội hình sự mà không lưu trữ các thông tin phi hình sự (chẳng hạn
các vi phạm về luật giao thông không được ghi nhận trong hệ thống này).
Về nguyên tắc, các tội danh được lưu trữ trong hệ
thống Máy tính cảnh sát quốc gia trong thời hạn 10 năm nếu người phạm
tội không phạm tội mới trong thời gian đó. Đối với biện pháp phạt cảnh
cáo, thời hạn này là 5 năm. Theo quy định của Luật dữ liệu quốc gia và
hướng dẫn của Hiệp hội cảnh sát trưởng (ACPO), hết thời hạn trên các án
tính sẽ được xoá khỏi hệ thống Máy tính cảnh sát quốc gia (PNC) trừ
trường hợp:
– Có nhiều hơn hoặc bằng ba tội của cùng
một đối tượng. Trong trường hợp này thì dữ liệu sẽ được lưu trữ trong
vòng 20 năm.
– Chịu án phạt tù (kể cả án treo) từ 6
tháng trở lên. Trong trường hợp này dữ liệu sẽ được lưu trữ suốt đời của
người đó.
– Liên quan đến các tội danh quấy rối
tình dục; buôn bán, tàng trữ ma tuý; tội phạm sử dụng thuốc độc bảng A.
Trường hợp này dữ liệu cũng được lưu trữ suốt đời của người phạm tội.
– Bị phát hiện là không có năng lực chịu
trách nhiệm hình sự (bị điên, tâm thần) và phải chịu hình phạt chữa bệnh
bắt buộc theo quy định của Luật về sức khoẻ tâm thần (Mental Health
Act), dữ liệu cũng được lưu giữ suốt đời.
– Phạm các tội liên quan đến trẻ em và
những đối tượng dễ bị tổn thương khác mà lỗi là cố ý, thì dữ liệu cũng
được lưu giữ suốt đời.
2.3. Vấn đề tiếp cận đối với các cơ sở dữ liệu lưu trữ thông tin về lý lịch tư pháp.
Theo Phần V Luật về cảnh sát 1997 thì về
nguyên tắc, các cá nhân được tiếp cận và đề nghị Cục Lý lịch tư pháp
hoặc Văn phòng về lý lịch tư pháp Scoland cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Các
tổ chức cũng có thể tiếp cận và đề nghị cấp các Phiếu lý lịch tư pháp
nếu được đương sự cho phép.
Có 3 loại Phiếu lý lịch tư pháp với 3 cấp độ khác nhau:
- Loại Phiếu số 1: Phiếu về các tội hình sự đã bị kết
án (Criminal conviction certificate) trong đó ghi nhận các tội hình sự
của đương sự đã bị kết án. Phiếu này không ghi các tội đã được xoá án
tích theo quy định của Luật về Tái hoà nhập cộng đồng của tội phạm năm
1974 (Rehabilitation of Offenders Act 1974). Loại phiếu này được cấp cho
bất cứ cá nhân nào nộp đơn vào được gọi là Phiếu cơ bản (Basic
Disclosures).
- Loại Phiếu số 2: Phiếu lý lịch tư pháp hình sự
(Criminal Record Certificate) ghi nhận bất cứ tội hình sự nào của đương
sự, kể cả các tội đã được xoá án tính cũng như hình phạt cảnh cáo. Loại
phiếu này cũng được cấp cho bất cứ công dân nào nộp đơn và khác so với
việc xin cấp loại phiếu số 1 là người này phải nộp kèm theo bản tuyên bố
của tổ chức, người đã yêu cầu đương sự trình Phiếu thứ 2 rằng sử dụng
Phiếu này vào mục đích phục vụ cho việc loại trừ người không đủ điều
kiện (chẳng hạn như phạm một số tội quy định không cho phép tiếp tục
hành một số nghề nhất định). Loại phiếu này được gọi với tên gọi là
Phiếu nền (Standard Disclosures).
- Loại Phiếu thứ 3: Phiếu lý lịch tư pháp nâng cao
(Enhanced criminal record certificates – còn được gọi tắt là Enhanced
Disclosures – Phiếu nâng cao) là loại Phiếu ghi nhận các thông tin gồm:
tất cả các thông tin về án tính và hình phạt cảnh cáo; bất cứ thông tin
khác có liên quan đến mục đích của việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp này,
kể cả ý kiến của Cơ quan lý lịch tư pháp về tính phù hợp giữa nhân thân
của người được cấp lý lịch tư pháp và vị trí anh ta đang xin làm (trong
trường hợp tuyển dụng lao động). Có khá nhiều điều kiện đặt ra đối với
người nộp đơn yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp nâng cao này. Theo quy
định của Mục 115 của Luật về cảnh sát 1997, người nộp đơn đề nghị cấp
Phiếu lý lịch tư pháp nâng cao phải nộp kèm đơn văn bản của người đã yêu
cầu họ trình phiếu lý lịch tư pháp nhằm phục vụ việc loại trừ trong
các trường hợp sau:
a/ Xin việc vào vị trí liên qua đến chăm sóc, giáo
dục, quản lý người vị thành niên. Trong một số trường hợp đặc biệt theo
quy định của Văn phòng Nhà nước, một số vị trí liên quan đến chăm sóc
người trên 18 tuổi (ở trường hợp này thường là những người tàn tật,
người già) cũng phải kiểm tra lý lịch tư pháp nâng cao để đảm bảo tránh
hạn chế những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra;
b/ Cấp các chứng chỉ, giấy phép kinh doanh theo luật về đánh bạc 1968 (Gaming Act 1968);
c/ Đăng ký hoặc chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xổ
số hoặc các trò vui chơi có thưởng khác theo quy định của Luật về Xổ số
và vui chơi có thưởng 1976 (Lotteries and Amusement Act 1976);
d/ Cấp giấy chứng nhận theo quy định tại Mục 5 và Mục
6 của Luật xổ số quốc gia năm 1993 liên quan đến việc điều hành và
quảng bá xổ số;
đ/ Đăng ký hành nghề chăm sóc trẻ em tại nhà;
e/ Mở nhà trẻ theo Luật về Trẻ em 1989.
Đơn của người yêu cầu cấp lý lịch tư phải
có có cả chữ ký của người, tổ chức đã yêu cầu họ. Phiếu lý lịch tư pháp
nâng cao sau đó sẽ được cấp một bản cho cả người đã yêu cầu người nộp
đơn yêu cầu cấp lý lịch tư pháp.
Về lệ phí, về nguyên tắc người nộp đơn
phải nộp lệ phí. Có nhiều mức phí khác nhau nhưng trung bình là khoảng
12 bảng Anh cho một Phiếu lý lịch tư pháp. Tuy nhiên, hiện nay ở Anh
theo quy định của Bộ Ngoại giao đối với những trường hợp xin cấp lý lịch
tư pháp để chứng minh đủ điều kiện làm tình nguyện viên cho các công
việc liên quan đến chăm sóc trẻ em và người già, người tàn tật thì được
miễn phí.
Nội dung đơn yêu cầu cấp lý lịch tư pháp thường gồm các mục như:
- Thông tin của người nộp đơn gồm: tên; giới tính;
ngày sinh; nơi sinh; địa chỉ hiện tại; ngày đến cư trú tại địa chỉ hiện
tại; địa chỉ cũ trong vào 10 năm trở lại đây (bao gồm cả thời gian cư
trú); số điện thoại (nếu có); số bảo hiểm xã hội; số hộ chiếu; số bằng
lái xe (nếu có); loại Phiếu đề nghị (cơ sở, nền hay nâng cao); lý do xin
cấp; tuyên thệ lời khai đúng sự thật; chữ ký; ngày nộp đơn.
- Thông tin của người đã đề nghị người nộp đơn (chỉ
áp dụng trong trường hợp xin Phiếu nền và Phiếu nâng cao): loại tổ chức;
tên gọi; vị trí mà tổ chức đang cân nhắc tuyển dụng; chỉ rõ quy định
của pháp luật trao quyền cho họ yêu cầu đương sự nộp phiếu lý lịch tư
pháp; chữ ký.
3. Cộng hoà Pháp
3.1. Lịch sử hình thành và phát triển của cơ quan quản lý lý lịch tư pháp.
Ngay thời kỳ cổ đại ở Châu Âu, việc xem xét đương sự đã lần nào bị
tuyên án hình sự chưa đã được đặt ra. Ngược dòng lịch sử để nhìn lại
những hình thức khác nhau ghi nhớ các án hình sự thì phải nói rằng trong
thời kỳ lịch sử xa xưa, Pháp đã áp dụng những biện pháp rất nặng đối
với các tội phạm chẳng hạn như hình thức nung thanh sắt đỏ rồi đóng dấu
lên cơ thể kẻ phạm tội. Việc đóng dấu này vừa là một hình thức ghi nhớ
vừa là một hình thức tra tấn đối với kẻ phạm tội. Điều đó có nghĩa là
bằng cách này hay cách khác, người ta có thể ghi lại dấu ấn để khi kẻ
phạm tội đi lại trong thành phố với những dấu ấn đó, người ta có thể
nhận ra đó là kẻ tội phạm. Điều này rất có ích vì thời đó, người ta ít
đi du lịch và như vậy, tất cả mọi người có thể nhận ra kẻ cắp của thành
phố nơi mình ở.
Trong thời đại giao lưu quốc tế mở rộng,
cách thức này không còn hiệu quả nữa và được thay thế bởi một cách thức
mới. Cách thức ghi lý lịch tư pháp ban đầu được tổ chức theo đơn vị là
các Toà án, mỗi Toà án có một sổ bộ để ghi lại các án tích mà Toà án đã
tuyêntrong năm; các bản án được ghi lại theo trình tự và có đề tên người
bị kết án. Tất nhiên, với các ghi chép có mục lục, việc tra cứu dễ dàng
hơn vì dựa vào mục lục, người ta có thể sớm tìm kiếm được trong những
năm ấy, một người đã bị kết án nhiều lần hay chưa. Nhưng cách ghi lý
lịch tư pháp theo Toà án cũng không ổn trong trường hợp đương sự thay
đổi nơi cư trú thường xuyên chứ không sống tĩnh tại ở một thành phố hay
một địa phương. Cái mà người ta mong muốn là có được lý lịch tư pháp
tổng hợp và đầy đủ về một cá nhân mình muốn có. Để làm được việc này,
mỗi Toà án, song song với việc ghi lý lịch tư pháp tức là những án tích
tại Toà, phải gửi một bản sao đến trung ương để tổng hợp. Như vậy, ở cấp
trung ương,người ta có thể tra cứu các án tích liên quan đến một cá
nhân căn cứ vào mục lục của sổ bộ ghi nhớ các án tích của các Toà án địa
phương đã được tổng hợp lại. Ở thời kỳ đó, có đến hàng trăm Toà hình sự
mà làm theo cách ghi nhớ từ năm này sang năm khác thì rất khó tổng hợp
một khối lượng thông tin án tích lớn. Để tránh tình trạng chồng chất các
án tính, một thẩm phán người Pháp đã có sáng kiến thành lập lý lịch tư
pháp. Ý tưởng thứ nhất đến bây giờ cũng không thay đổi lắm, sổ bộ ghi
chép lý lịch tư pháp được thay bằng các phiếu động. Các phiếu ghi hàng
năm được xếp theo thứ tự bảng chữ cái alphanbe theo từng cá nhân thì
thuận tiện cho việc tra cứu lý lịch tư pháp của từng người. Ý tưởng thứ
hai là việc phân bổ theo địa hạt đối với lý lịch tư pháp, bởi vì ở thời
kỳ đó, không thể quản lý hàng triệu phiếu viết tay tại một cơ quan trung
tâm được.Vì không thể làm tập trung tại một nơi nên phải làm phân tán,
có nghĩa là phân bổ lý lịch tư pháp theo địa hạt, cụ thể là theo nơi
sinh của đương sự. Ở Pháp, các giấy tờ về hộ tịch do Thị trưởng lập ra,
một bản được lưu lại, một bản được gửi cho các Toà án. Như vậy, ở thời
kỳ đầu, việc phân bổ theo địa phương, theo nơi sinh của đương sự quy
định rằng lý lịch tư pháp được quản tại Toà án nơi sinh của đương sự,
bên cạnh bộ quản lý các giấy tờ về hộ tịch. Việc chọn Toà án nơi sinh
của đương sự bảo đảm sự ổn định lâu dài và cho phép trong trường hợp cần
thiết, có thể tập trung được thông tin một cách dễ dàng. Dù đương sự
thay đổi nơi cư trú, nhưng các án tích, các quyết định của Toà án sẽ
được tập trung về Toà án nơi người đó sinh ra. Như vậy, để tra cứu các
tiền án của đương sự, chỉ cần yêu cầu Toà án ở địa phương nơi người đó
sinh ra cung cấp thông tin. Đó là nguồn gốc của lý lịch tư pháp theo
phát minh của một thẩm phán người Pháp cách đây 150 năm.
Ngày nay, nhu cầu sử dụng lý lịch tư pháp
ngày càng phổ biến ở Pháp. Không chỉ có Toà án mới có yêu cầu sử dụng
lý lịch tư pháp mà còn có cả các cơ quan quản lý Nhà nước và những người
chủ lao động. Đặc biệt, các cơ quan quản lý Nhà nước sử dụng lý lịch tư
pháp để quản lý một số nghề cần giám sát. Tuy nhiên, các tổ chức ghi
chép, quản lý lý lịch tư pháp theo lối thủ công không đáp ứng được nhu
cầu lâu dài. Hạn chế đầu tiên của cách ghi lý lịch tư pháp bằng các
phiếu rời là các phiếu rất dễ bị thất thoát hoặc bị xáo trộn. Việc quản
lý lý lịch tư pháp theo nơi sinh của đương sự sẽ có bất lợi trong trường
hợp đương sự là một người Pháp nhưng không sinh ở Pháp. Để tránh những
kiếm khuyết đó, Pháp đã thành lập Cơ quan lý lịch tư pháp để quản lý lý
lịch tư pháp.
Cơ quan lý lịch tư pháp quốc gia Pháp
trực thuộc Bộ Tư pháp. Hiện có khoảng 350 viên chức làm việc trong Cơ
quan lý lịch tư pháp, trong đó hai phần ba trong số nhân viên làm việc
trong lĩnh vực xử lý, lưu trữ lý lịch tư pháp. bên cạnh phòng các vấn đề
pháp lý, còn có hai bộ phận khác, một bộ phận có trách nhiệm nhận các
hồ sơ, giấy tờ gửi đến, chuẩn bị các hồ sơ, giấy tờ gửi đi, đây đích
thực là một “xưởng” quản lý đầu vào, đầu ra của Cơ quan lý lịch tư pháp.
Mỗi ngày, Cơ quan lý lịch tư pháp quốc gia nhận được trên 5.000 thông
tin mới cần lưu vào lý lịch tư pháp và cấp ra khoảng 20.000 thông tin.
Với số lượng thông tin nhập vào và cấp ra lớn như vậy, có thể tưởng
tượng khối lượng giấy rất lớn cần phải sử dụng. Phòng thứ tư của Cơ quan
lý lịch tư pháp là phòng tin học, nhưng làm việc ở đây không phải là
các kỹ sư máy tính mà là các luật gia, các cán bộ pháp lý am hiểu lĩnh
vực tin học và họ làm việc với các chuyên gia máy tính để cùng xử lý các
vấn đề tin học của cơ quan.
2.1.2. Nội dung những thông tin ghi nhận trong cơ sở dữ liệu.
Bản chất từ xa xưa của lý lịch tư pháp cho đến nay
vẫn không thay đổi nhiều với khoảng trên 90% các thông tin được lưu trữ
là các thông tin về bản án hình sự. Đối với tội vi cảnh, chúng tôi chỉ
ghi những tội vi cảnh mức nặng nhất vào lý lịch tư pháp, tức là những
tội theo đó Toà án có thể tuyên bố treo hoặc truất một quyền nào đó của
đương sự, ví dụ như: truất quyền lái xe, cấm tiếp tục hành nghề thương
mại trong tương lai…
3.2. Cấp phiếu lý lịch tư pháp.
Ở Pháp có 3 loại phiếu lý lịch tư pháp
cấp cho 3 đối tượng khác nhau: Phiếu số 1cấp cho các cơ quan tư pháp;
Phiếu số 2 cấp cho các cơ quan hành chính; Phiếu số 3 cho các cá nhân.
a/ Phiếu số 1: Phiếu số 1 chủ yếu
cấp cho các cơ quan điều tra nhằm mục đích điều tra, truy tố tội phạm.
Phần trên của phiếu này ghi nguồn gốc của tài liệu nghĩa là Cơ quan lý
lịch tư pháp ở Pháp và loại tài liệu: Phiếu số 1. Phía bên trái ghi ngày
tháng tài liệu được cấp, sau đó ghi họ tên ngày tháng năm sinh, nơi
sinh của người mà tài liệu có liên quan. Phía bên phải, đối diện với
phần ghi căn cước là phần ghi địa chỉ của người nhận, đối với Phiếu số
1, người nhận luôn là một cơ quan tư pháp và thường là Viện Công tố. Sau
đó là các dữ liệu về cơ quan tư pháp này. Tiếp theo trang đầu tiên là
các phiếu kèm theo ghi lại lý lịch tư pháp của đương sự. Thông tin trên
các trang này được ghi lại theo thứ tự thời gian, không phải là thời
điểm đưa thông tin đó vào lý lịch tư pháp mà là thời gian thực tế trong
đời sống tư pháp của đương sự.
b/ Phiếu số 2: Phiếu số 2 chủ yếu
được cấp cho các cơ quan hành chính nhà nước. Mục đích cấp phiếu số 2 là
giúp cho các cơ quan hành chính kiểm tra xem đương sự có thể trở thành
viên chức, có thể hành một số nghề nhất định theo quy định của pháp luật
hay không.
Phiếu số 2 không lưu ý đến tính tổng thể
của các thông tin như trong Phiếu số 1. Những xử phạt vi phạm hành
chính, những án tích nhẹ nhất thì không được ghi trên Phiếu số 2. Kể cả
những bản án được tuyên đối với trẻ vị thành niên cũng không được ghi
trên phiếu này, bởi vì trong hệ thống pháp luật Pháp, Toà án không thể
tuyên cấm hành nghề đối với trẻ vị thành niên.
c/ Phiếu số 3: Phiếu số 3 được cấp
cho cá nhân. Mỗi công dân Pháp có quyền được thông tin một cách đầy đủ
về lý lịch tư pháp của mình. Họ có thể đến Viện Công tố tại Toà án nơi
mình cư trú xin tra cứu tổng thể lý lịch tư pháp của bản thân. Trong
trường hợp này, có thể tra cứu phiếu số 1 tại Toà án nhưng phiếu này
không được cấp cho đương sự. Đó là một biện pháp gián tiếp bảo vệ quyền
lợi của đương sự đối với những người lẽ ra không có quyền tiếp cận phiếu
1 nhưng do bảo quản không tốt của đương sự mà có thể đến tay họ. Để xin
phiếu số 1, đương sự có thể trực tiếp đến Cơ quan lý lịch tư pháp quốc
gia hoặc gửi đơn qua đường bưu điện.
II. Một số kinh nghiệm áp dụng vào việc xây dựng Luật về lý lịch tư pháp của nước ta.
1. Về quản lý và cấp lý lịch tư pháp.
Bước đầu tìm hiểu hệ thống pháp luật liên
quan đến vấn đề lý lịch tư pháp, điều đầu tiên dễ nhận thấy là các nước
có những cách tiếp cận khác nhau.
Về cơ sở dữ liệu, Hoa Kỳ không xây dựng
một hệ thống cơ sở dữ liệu riêng phục vụ cho việc cung cấp lý lịch tư
pháp như ở Anh mà sử dụng các thông tin từ Hệ thống tàng thư căn cước
tội phạm do Cơ quan cảnh sát cảnh sát liên bang lưu trữ. Cơ quan quản lý
lịch tư pháp ở Anh cũng được tổ chức quy mô hơn với hai văn phòng về lý
lịch tư pháp ở cấp Trung ương (Văn phòng lý lịch tư pháp hình sự của
Scoland và Cục về lý lịch tư pháp).
Về phạm vi lưu trữ của cơ sở dữ liệu, có
vẻ như Cục Điều tra liên bang Mỹ lại làm tốt hơn công việc này với việc
lưu trữ một khối lượng dữ liệu khổng lồ bao gồm cả các lệnh bắt, lệnh
tạm giam, lệnh truy nã… Ngoài ra, hệ thống các cơ sở dữ liệu khác như Cơ
sở dữ liệu về tội phạm của các bang, các Cơ sở dữ liệu về án lệ của Toà
án… phát triển hơn tại Anh.
Về cách tiếp cận các hệ cơ sở dữ liệu và
cấp Phiếu lý lịch tư pháp, giữa hai nước cũng có nhiều điểm khác. Nếu
như ở Anh chỉ có một cơ quan duy nhất có thẩm quyền cấp Phiếu lý lịch tư
pháp là Bộ Ngoại giao thì ở Mỹ ngoài Cục điều tra liên bang thì còn có
các phiếu lý lịch tư pháp do các Tổ chức tư nhân cung cấp theo Luật về
thông tin độ tin cậy. Mẫu phiếu lý lịch tư pháp tại Anh cũng được chia
thành nhiều loại với nhiều mức độ thông tin khác nhau.
Tuy nhiên, cũng có thể thấy liên quan đến
vấn đề này cả hai hệ thống pháp luật này đều chú trọng đến một số vấn
đề sau đây:
- Thứ nhất, đều quan niệm đây là một vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng đến quyền công dân, do đó cần được quản lý chặt chẽ.
- Thứ hai, đều chú trọng đến quyền của các
bên có liên quan. Chẳng hạn, trong lĩnh vực tuyển dụng lao động làm công
việc chăm sóc trẻ em, thì mối quan hệ giữa quyền của trẻ em, quyền của
tổ chức tuyển dụng và quyền của người lao động cần phải được tính đến.
Dưới góc độ quyền trẻ em và quyền của tổ chức tuyển dụng, họ phải được
biết những thông tin có liên quan đến nhân thân người xin việc, có quyền
từ chối những người đã có tiền án về những tội liên quan đến trẻ em
nhằm tránh rủi ro. Về phía người lao động, họ có quyền không phải công
khai về các hành vi vi phạm pháp luật nhưng đã được xoá án hoặc không
liên quan đến công việc họ đang xin việc (chẳng hạn như vi phạm luật
giao thông bị tước bằng lái xe, ăn cắp vặt tại siêu thị…).
2. Cân nhắc một số quy định có thể áp dụng vào pháp luật Việt Nam về lý lịch tư pháp.
Do những đặc điểm hết sức khác nhau về
địa lý, hoàn cảnh xã hội cũng như chính bản thân hệ thống pháp luật,
chúng ta không thể áp dụng một cách máy móc các quy định về lý lịch tư
pháp của Hoa Kỳ hay của nước Anh vào hệ thống pháp luật Việt Nam mà phải
tìm ra những quy định phù hợp trên cơ sở sự phát triển của các quan hệ
trong chính xã hội chúng ta. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và tham khảo
kinh nghiệm nước ngoài cũng hết sức cần thiết.
Bước đầu nghiên cứu vấn đề quản lý và cấp
lý lịch tư pháp của một số nước theo hệ thống pháp luật Ănglô-Xắc xông,
so sánh với dự thảo Luật lý lịch tư pháp hiện vừa được Quốc hội cho ý
kiến, chúng tôi thấy có một số quy định có thể cân nhắc để áp dụng vào
hoàn cảnh của Việt Nam, cụ thể là:
a/Về cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp: hầu hết
các nước đều xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về vấn đề này và sử dụng
tin học hoá (dữ liệu điện tử) vào việc lưu trữ. Trong dự thảo Pháp lệnh
đã quy định về hệ cơ sở dữ liệu này, tuy nhiên vẫn chưa có quy định về
việc tin học hoá như thế nào.
b/Về thời hạn lưu trữ thông tin:
nước Anh có quy định khá chi tiết về vấn đề này. Theo chúng tôi đây là
một quy định hay, vừa đảm bảo khả năng lưu trữ và cập nhật thông tin của
cơ sở dữ liệu vừa đảm bảo quyền của những người phạm tội nhưng đã được
xoá án tích.
c/Về việc tiếp cận và cấp Phiếu lý lịch tư pháp:
– Cân nhắc việc phân chia các loại Phiếu
cấp cho người nộp đơn với các mức độ thông tin khác nhau như quy định
tại luật của Anh.
– Cân nhắc quy định về các trường hợp
được quyền yêu cầu đương sự phải xuất trình phiếu lý lịch tư pháp để
kiểm tra. Hiện nay, pháp luật nước ta tại một số lĩnh vực pháp luật cũng
đã quy định việc này (chẳng hạn như: kết hôn với người nước ngoài, xin
cấp giấy phép lao động…). Tuy nhiên, cần thiết phải tập trung các quy
định này trong Pháp lệnh về lý lịch tư pháp. Quy định này cũng cần bao
hàm của nội dung nếu được quyền kiểm tra lý lịch tư pháp thì phải thông
báo rõ các loại tội danh nào mà nếu bị ghi nhận trong lý lịch tư pháp
thì đương sự sẽ không đủ điều kiện cho vị trí đó để đảm bảo tính minh
bạch. Quy định như vậy sẽ đảm bảo được quyền lợi của các bên có liên
quan, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của trẻ em, những người dễ bị tổn
thương trong xã hội tránh phải những rủi ro đáng tiếc do đạo đức của
những người làm công việc chăm sóc, giáo dục họ đem lại./.
Chú thích;
[1] Thông tin từ Báo cáo về lý lịch tư pháp hình sự của Tổ chức tuyển dụng lao động ESR đăng tại địa chỉ http://www. esrheck.com/articles/areticle4.php
[3] 3 nước gồm có: Anh, Scoland, xứ Wale.
[4] Police Act 1997- http://www.opsi.gov.uk/acts/acts1997/97050.htm
SOURCE; CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment