CIVILLAWINFOR – Bài viết này được tác giả viết năm 2003 để đóng góp vào Dự thảo Luật phá sản sửa đổi và Luật phá sản sửa đổi đã được ban hành năm 2004. Civillawinfor đăng lại để có thêm thông tin cho quí vị nghiên cứu.
PHẠM HẢI ĐĂNG – Vụ Tài chính đối ngoại Bộ Tài chính
Có thể nói rằng về cơ
bản đến dự thảo 6 Luật Phá sản sửa đổi, Ban soạn thảo đã thực hiện được
một sự cải cách khá toàn diện Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, trong
đó có nhiều qui định rất mới và hết sức thiết thực cho việc vận dụng khi
xử lý các trường hợp phá sản trong tình hình quan hệ kinh tế hết sức
phong phú, phức tạp do môi trường kinh doanh của chúng ta đã thay đổi
rất sâu sắc trong 10 năm qua.
Tuy nhiên, cũng còn một số nội dung của Dự thảo cần được tranh luận để làm rõ và giải quyết triệt để hơn, cụ thể như sau:
1/ Về nguyên tắc của Luật: ở phần lời nói đầu Dự thảo
Luật đã thể hiện một số nguyên tắc xây dựng Luật Phá sản lần này. Tuy
nhiên, theo quan điểm của tôi, cần qui định rõ trong một điều khoản các
nguyên tắc chung để không những quá trình xây dựng Luật phải tuân theo
mà cả các văn bản hướng dẫn sau này như Nghị định, thông tư ( Do các ban
soạn thảo khác biện soạn) tuân thủ. Thí dụ: Nguyên tắc đối xử ngang
bằng giữa các chủ nợ ( giữa chủ nợ trong nước và chủ nợ nước ngoài, giữa
chủ nợ không có bảo đảm với nhau, giữa các chủ nợ có bảo đảm…v.v).
2/ Về đối tượng áp dụng và tên gọi của Luật Phá sản
sửa đổi: Tôi cho rằng, tên gọi do Ban soạn thảo đưa ra là Luật Phá sản
là một sự đổi mới thể hiện quan điểm giải quyết triệt để hơn và phạm vi
áp dung của Luật rộng hơn là hợp lý. Luật Phá sản mới sẽ không chỉ giải
quyết các trường hợp phá sản của pháp nhân hay doanh nghiệp mà còn mở
rông ra các đối tượng tham gia hoạt động kinh doanh khác không thành lập
pháp nhân hoặc chưa được coi là doanh nghiệp. Về nguyên tắc những đối
tượng tham gia vào hoạt động kinh doanh theo qui định của các luật hiện
hành như Luật Thương mại (thương nhân) Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác
xã…là hết sức rộng rãi và những đối tượng này đều có thể lầm vào "tình
trạng phá sản". Khi đã tham gia hoạt động kinh doanh mà lâm vào tình
trạng phá sản thì đối tượng kinh doanh đó rất có thể mắc nhiều khoản nợ
với nhiều chủ nợ. Nếu nhìn từ quan điểm bảo vệ các chủ nợ đòi nợ một
cách trật tự và công bằng thì đương nhiên phải áp dụng luật phá sản đối
với những đối tượng này cho dù là pháp nhân hay thể nhân, cho dù được
coi là doanh nghiệp hay thương nhân. Mặt khác, Luật phá sản ra đời là để
bảo đảm sự phân bố lại tài sản một cách có trật tự giữa các chủ thể
tham gia hoạt động "kinh doanh" vì vậy nên chăng cần có quan điểm là
Luật phá sản áp dụng như một thủ tục đòi nợ tập thể liên quan đến kinh
doanh, có nghĩa là, xét theo chủ thể, liên quan đến đối tượng tham gia
kinh doanh (mắc nợ). Xác định đối tượng đầy đủ hơn như vậy, theo quan
điểm của tôi sẽ thuận tiện hơn trong việc sử lý phá sản dây truyền (như
tại các nước Châu á trong khủng hoảng năm 1997. Những đối tượng, như
doanh nghiệp tư nhân, thành viên công ty hợp danh, hộ kinh doanh cá thể,
do trách nhiệm là vô hạn cũng cần thiết phải tuyên bố miễn trách nhiệm
cho họ sau khi đã thực hiện thủ tục thanh toán xong và Toà án Tuyên bố
phá sản. Lý do là: Quan điểm trách nhiệm vô hạn nên được hiểu về mặt tài
sản tại thời điểm giải quyết phá sản, là toàn bộ tài sản của nhứng đối
tượng này, không phân biệt tài sản đưa vào kinh doanh với tài sản không
đưa vào kinh doanh phải được đem ra xử lý ( cần xác định rõ là mọi tài
sản thuộc sở hữu của họ tại thời điểm giải quyết phá sản) chứ không nên
hiểu là vô hạn về mặt thời gian, nghĩa là theo suốt cuộc đời họ. Với
quan điểm như vậy, nhiều năm sau đối tượng đó còn có cơ hội quay lại gây
dựng sự nghiệp và tham gia môi trường kinh doanh. Đạo lý Luật Phá sản
còn bảo vệ cả con nợ là ở chỗ này.
4/ Về dấu hiệu doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản, quyền nộp đơn và mở thủ tục phá sản tại toà án: Điều 3 Dự thảo
qui định hai dấu hiệu, trong đó dấu hiệu kinh doanh thua lỗ cũng cần có
sự tranh luận. ở một số nước. Việc xác định một doanh nghiệp kinh doanh
thua lỗ hay không thua lỗ thường căn cứ vào Bảng cân đối tài sản của
doanh nghiệp, tuy nhiên nhiều trường hợp doanh nghiệp thực chất đã lâm
vào tình trạng mất khả năng thanh toán – tình trạng phá sản thực tế
nhưng trên bảng cân đối tài sản vẫn không thể hiện được điều đó. Trong
tình huống này người ta phải căn cứ vào dòng tiền (cashflow) và để xác
định là doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán hay không đối với các
khoản nợ đến hạn. Nhiều nước, trong đó có Trung Quốc đã chuyển sang lấy
tiêu chi cashflow để xác định một doanh nghiệp là lâm vào tình trạng phá
sản hay không. Đương nhiên báo cáo kiểm toán của công ty kiểm toán độc
lập có thể được xem là căn cứ (theo quan điểm cashflow thì cần xem báo
cáo lưu chuyển tiền tệ). Luật cũng có thể xem xét việc qui định kết hợp
cả hai yếu tố này (xuất hiện một trong hai yếu tố).
Ngoài ra, đề nghi Ban soạn thảo cân nhắc việc qui
đinh thủ tục công nhận giải quyết tự nguyện ngoài toà án. Luật phá sản
của nhiều nước trên thế giới có qui định tạo điều kiện cho việc xử lý nợ
ngoài toà án ( out of court hay work-out). Điều này rất có ý nghĩa đối
với những nước đã từng trải qua cơn khung hoảng kinh tế như năm 1997 ở
châu á vì đã giảm được nhiều áp lực lên hệ thống toà án khi mà vào thời
điểm đó đã trở nên quá tải. Dự thảo Luật Phá sản sửa đổi qui định "
Doanh nghiệp kinh doanh bị thua lỗ và đã quá thời hạn thanh toán mà
không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu, thì bị
coi là lâm vào tình trạng phá sản". Qui định này được hiểu là ngay lập
tức khi không thanh toán được nợ theo yêu cầu của chủ nợ thi doanh
nghiệp thua lỗ bị liệt vào tình trạng phá sản và đặt dưới thủ tục toà
án. Doanh nghiệp mắc nợ không có một khoảng đệm dù ngắn ngủi để thương
lượng và tìm giải pháp hoà hoãn với chủ khoản nợ đến hạn đó. Mọi thủ tục
thương lượng và hoà giải giữa họ là tuân theo thủ tục toà án – một thủ
tục nặng nề và tốn phí tiền bạc, thời gian hơn rất nhiều so với thủ tục
ngoài toà án (thương lượng). Trường hợp doanh nghiệp mắc nợ và các chủ
nợ có thể thoả thuận ngoài toà án về phương án thanh toán nợ và thanh lý
tự nguyện (thực chất là thủ tục thanh lý tự nguyện cũng cần được xem
xet và co qui định về công nhận của Toà án thay vì của cơ quan quản lý
hành chính như hiện nay nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý của thoả thuận xử
lý nợ đó. Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc vấn đề này.
5/ Về mức trách nhiệm trả nợ: Luật doanh nghiệp ra
đời cho phép nhà đầu tư đăng ký kinh doanh, trong đó có đăng ký mức vốn
điều lệ. Cơ quan đăng ký chỉ yêu cầu doanh nghiệp phải cam kết chịu
trách nhiệm về nội dung đăng ký. Trên thực tế, có rất nhiều doanh nghiệp
vốn đăng ký rất cao nhưng vốn góp thực tế hoặc tổng giá trị tài sản
thấp hơn mức vốn đăng ký rất nhiều. Vậy Luật phá sản nên chăng cần có
qui định mức vốn điều lệ là mức trách nhiệm trả nợ tối đa của chủ/các
chủ doanh nghiệp? Nếu tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp thấp hơn mức
không đủ (tại thời điểm giải quyết phá sản) để trả tất cả các khoản nợ
thì chủ doanh nghiệp phải dùng cả tài sản riêng để trả nợ nhưng tổng các
khoản nợ phải trả không quá mức vốn pháp định. Quan điểm này được xem
là khắt khe và khó thực hiện, tuy nhiên lại có tác dụng nâng cao kỷ luật
kinh doanh. Quan điểm này cũng có tác dung chống việc lợi dụng phá sản
để thoát khỏi các khoản nợ một cách bất hợp pháp.
6/ Vấn đề xử lý phá sản có yếu tố nước ngoài
(cross-border insolvency): Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, ngay
trong nội bộ nên kinh tế nước ta có một bộ phận doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài có mối liên hệ xuyên quốc gia về mặt tài sản. Các doanh
nghiệp Việt Nam cũng đầu tư ra nước ngoài không ít, do đó tồn tại tài
sản của doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam ở nước ngoài, quan hệ kinh
tế, thương mại quốc tế còn dẫn đến nhiều trường hợp đa dạng khác mà tài
sản doanh nghiệp phá sản khổng chỉ nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Luật phá
sản nhiều nước qui định hiệu lực của việc áp dụng các thủ tục giải quyết
phá sản theo luật phá sản của họ có hiệu lực đối với cả các tài sản của
doanh nghiệp mắc nợ ở trong và ngoài lãnh thổ nước mình. Đồng Thời Luật
phá sản của một số nước cũng qui định luôn việc công nhận và áp dụng
các phán quyết về phá sản của toà án nước ngoài.
Trên đây là một vài ý kiến tôi xin được phép bầy tỏ
với quí vị. Rất mong nhận được ý kiến tranh luận hay phản từ các quí vị
đại biểu tham dự buổi hội thảo này, và cũng mong rằng vài ý kiến nhr bé
trên đây có thể giúp ích cho Ban soạn thảo hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ
của mình.
SOURCE: BÁO DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP
0 comments:
Post a Comment