PGS.TS. THÁI VĨNH THẮNG – Đại học Luật Hà Nội
Quyền tiếp cận thông
tin chính là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện các quyền con
người và quyền công dân. Trong thời đại hội nhập quốc tế và toàn cầu
hoá, quyền tiếp cận thông tin đã và đang trở nên một quyền cơ bản và là
một trong những quyền quan trọng nhất của con người và công dân. Việc
ban hành Luật Tiếp cận thông tin đối với Việt Nam hiện nay là cần thiết
và cấp bách.
1. Nội dung cơ bản của quyền tiếp cận thông tin
Quyền tiếp cận thông tin (right to access to
information) là quyền của mọi công dân được tiếp cận các thông tin được
ban hành và lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức công quyền, đặc biệt là các
cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan công quyền nắm giữ thông tin
không vì bản thân họ mà với tư cách là người bảo vệ lợi ích của công
chúng. Thông tin được coi là tài sản quốc gia và cũng như mọi tài sản
khác, không thể để cho một cá nhân hay tổ chức nào độc quyền chiếm đoạt
nếu đó không phải là các thông tin liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật
kinh doanh, bí mật cá nhân. Quyền tiếp cận thông tin được coi là một
trong những quyền cơ bản của con người và công dân. Điều 19 Tuyên ngôn
thế giới về nhân quyền đã khẳng định: “Mọi người có quyền tự do ngôn
luận và bày tỏ ý kiến, quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm không
có sự can thiệp và tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng và
thông tin bằng bất kỳ phương tiện nào mà không có biên giới”. Điều 19
Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966 đã quy định:
“Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không ai được can
thiệp vào. Mọi người có quyền tự do ngôn luận, quyền này bao gồm cả
quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không
phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng hoặc bản viết, in,
hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng
khác tuỳ theo sự lựa chọn của họ”. Nhận thức được tầm quan trọng của
Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị, Việt Nam đã tham gia
Công ước này năm 1982.
Ở Việt Nam, quyền tiếp cận thông tin đã được thể
hiện trong Hiến pháp 1992 và trong một số văn bản pháp luật khác, đặc
biệt là trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005. Điều 11 Luật Phòng,
chống tham nhũng năm 2005 quy định:
- Chính sách pháp luật và việc tổ chức thực hiện
chính sách pháp luật phải được công khai, phải minh bạch, đảm bảo công
bằng dân chủ;
- Cơ quan tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động
của mình, trừ nội dung thuộc bí mật Nhà nước và những nội dung khác theo
quy định của Chính phủ.
Hình thức công khai theo quy định của Luật này bao
gồm công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; niêm yết tại trụ
sở của cơ quan, tổ chức, đơn vị; thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; phát hành ấn phẩm; thông báo trên
các phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin điện tử;
cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Ngoài
những trường hợp pháp luật có quy định về hình thức công khai, người
đứng đầu cơ quan tổ chức đơn vị có trách nhiệm lựa chọn một hoặc một số
hình thức công khai quy định tại khoản 1 điều này.
Các lĩnh vực cần phải công khai theo quy định của
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 bao gồm: Công khai minh bạch trong
mua sắm công và xây dựng cơ bản (Điều 13). Trong lĩnh vực này phải công
khai kế hoạch đấu thầu, mời sơ tuyển và kết quả sơ tuyển mời thầu; danh
mục các nhà thầu tham gia đấu thầu hạn chế; kết quả lựa chọn nhà thầu;
thông tin về cá nhân tổ chức thuộc chủ dự án bên nhà thầu, mời thầu…;
Công khai minh bạch trong quản lý dự án đầu tư xây dựng (Điều 14). Dự án
quy hoạch đầu tư xây dựng phải được tổ chức lấy ý kiến của nhân dân địa
phương nơi quy hoạch. Dự án đầu tư xây dựng từ ngân sách địa phương
phải được Hội đồng nhân dân xem xét quyết định. Dự án đầu tư xây dựng
sau khi được quyết định phê duyệt phải được công khai để nhân dân giám
sát; Công khai và minh bạch về ngân sách nhà nước (Điều 15). Các cấp
ngân sách, đơn vị dự toán ngân sách phải công khai chi tiết số liệu dự
toán và quyết toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định,
phê chuẩn kể cả ngân sách bổ sung. Đơn vị dự toán ngân sách có nguồn thu
và các khoản chi từ các khoản đóng góp của tổ chức, cá nhân theo quy
định của pháp luật phải công khai mục đích huy động, kết quả huy động và
hiệu quả việc sử dụng các nguồn huy động; Tổ chức được ngân sách nhà
nước hỗ trợ phải công khai các nội dung liên quan đến số liệu dự toán
quyết toán; các khoản đóng góp của tổ chức cá nhân (nếu có); cơ sở xác
định mức hỗ trợ và số tiền ngân sách nhà nước hỗ trợ; Dự án đầu tư xây
dựng cơ bản có sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước phải công khai các nội
dung về việc phân bổ vốn đầu tư trong dự án ngân sách được giao hàng năm
trong các dự án, dự toán ngân sách của dự án đầu tư theo kế hoạch đầu
tư được duyệt, mức vốn đầu tư của dự toán được giao trong dự toán ngân
sách hàng năm; quyết toán vốn đầu tư của dự toán hàng năm; Công khai
minh bạch việc huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân (Điều
16); Công khai minh bạch việc quản lý sử dụng các khoản viện trợ, hỗ
trợ; Công khai minh bạch trong việc quản lý doanh nghiệp của Nhà nước
(Điều 18). Doanh nghiệp của Nhà nước có trách nhiệm công khai vốn và tài
sản của Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, vốn vay ưu đãi, báo cáo tài
chính và kết quả kiểm toán, việc trích lập và sử dụng quỹ của doanh
nghiệp, việc tuyển dụng lao động, bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản
lý của doanh nghiệp và nội dung khác theo quy định của pháp luật; Công
khai minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp của Nhà nước (Điều 19);
Báo cáo kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước phải được
công khai (Điều 20); Công khai minh bạch trong quản lý và sử dụng đất
(Điều 21); Công khai minh bạch trong quản lý và sử dụng nhà ở (Điều 22).
Thẩm quyền, trình tự, thủ tục và việc cấp giấy phép xây dựng nhà ở và
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở phải được công khai, việc hoá giá nhà
ở thuộc sở hữu nhà nước, đối tượng được hoá giá nhà ở và các khoản tiền
phải nộp khi hoá giá nhà ở phải được công khai. Việc bán nhà ở cho
người tái định cư, người có thu nhập thấp và những đối tượng ưu tiên
khác phải được công khai; Công khai minh bạch trong lĩnh vực giáo dục
(Điều 23); Công khai minh bạch trong lĩnh vực y tế (Điều 24); Công khai
minh bạch trong lĩnh vực khoa học công nghệ (Điều 25). Việc xét tuyển
chọn giao trực tiếp, tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ và
việc đánh giá, nghiệm thu nhiệm vụ khoa học công nghệ phải được tiến
hành công khai, cơ quan quản lý khoa học công nghệ, đơn vị nghiên cứu
khoa học công nghệ phải công khai việc quản lý sử dụng ngân sách nhà
nước, tài sản của Nhà nước, các khoản hỗ trợ, viện trợ, đầu tư, các
khoản thu từ các hoạt động khoa học công nghệ; Công khai minh bạch trong
lĩnh vực thể dục thể thao (Điều 26); Công khai minh bạch trong hoạt
động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm toán Nhà nước (Điều
27); Công khai minh bạch trong các hoạt động giải quyết các công việc
của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền (Điều 28); Công
khai minh bạch trong lĩnh vực tư pháp (Điều 29). Việc thụ lý, điều tra,
truy tố, kiểm sát, xét xử, thi hành án phải được công khai theo quy định
của pháp luật về tố tụng và các quy định khác về pháp luật có liên
quan; Công khai minh bạch trong công tác tổ chức cán bộ (Điều 30). Việc
tuyển dụng cán bộ công chức, viên chức và người lao động khác vào cơ
quan, tổ chức, đơn vị phải được công khai về số lượng tiêu chuẩn, hình
thức và kết quả tuyển dụng. Việc quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, chuyển
ngạch, luân chuyển, điều động, khen thưởng, cho thôi việc, cho thôi giữ
chức vụ, miễn nhiệm, bãi nhiệm, kỷ luật, hưu trí đối với cán bộ công
chức, viên chức và người lao động khác phải được công khai trong cơ quan
tổ chức đơn vị nơi người đó làm việc.
Luật
Phòng, chống tham nhũng, tại Điều 31, đã quy định về quyền yêu cầu cung
cấp thông tin của cơ quan tổ chức, theo đó cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị xã hội, cơ quan báo chí trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm cung cấp
thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo quy định
của pháp luật. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ
quan, tổ chức, đơn vị được yêu cầu phải cung cấp thông tin, trừ trường
hợp nội dung thông tin đã được công khai trên các phương tiện thông tin
đại chúng, được phát hành ấn phẩm và các niêm yết công khai; trường hợp
không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho
cơ quan, tổ chức yêu cầu biết và nêu rõ lý do. Tại Điều 32 của Luật đã
quy định về quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân theo đó cán bộ,
công chức, viên chức và người lao động khác có quyền yêu cầu người đứng
đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị nơi mình làm việc cung cấp thông tin về
hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó (Khoản 1 Điều 32). Công dân có
quyền yêu cầu chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mình cư
trú cung cấp về hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn đó
(Khoản 2 Điều 32). Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu,
người được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội
dung thông tin đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai; trường hợp không
cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho người
yêu cầu biết và nêu rõ lý do (Khoản 3 Điều 32).
Ngoài các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin
theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, các văn bản pháp luật sau
đây cũng đã quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của các cơ quan nhà
nước và quyền tiếp cận thông tin của công dân: Luật Báo chí năm 1989,
Luật Xuất bản năm 2004, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004, Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2008, Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2005, Luật Thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2005, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn năm 2007, Pháp lệnh về vệ sinh an toàn thực phẩm
năm 2003. Đặc biệt trong Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn năm 2007 đã quy định những nội dung phải công khai để nhân dân
biết, nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý
kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân
giám sát, trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường,
thị trấn, của cán bộ thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố, khu
phố, khối phố, của cơ quan tổ chức cá nhân có liên quan. Trong Điều 5
của Pháp lệnh trên đã quy định11 vấn đề cần phải công khai và Điều 6 quy
định về các hình thức công khai thông tin. Đồng thời, tại Điều 10 Pháp
lệnh trên cũng đã quy định về những nội dung nhân dân tham gia ý kiến và
Điều 20 quy định 3 hình thức để nhân dân tham gia ý kiến.
Những quy định trên đây về việc tiếp cận thông tin
của công dân và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước về cung cấp thông tin
trong một số lĩnh vực và phạm vi địa bàn áp dụng cũng đã khá rõ. Tuy
nhiên, việc thực hiện các quy định này còn rất hạn chế vì trong tất cả
các văn bản pháp luật nói trên hầu như có rất ít chế tài quy định về vấn
đề xử phạt việc không cung cấp thông tin. Bên cạnh đó, những quy định
trên lại nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau, thiếu tính
hệ thống nên vẫn chưa đảm bảo cho công dân được thực hiện một cách đầy
đủ quyền tiếp cận thông tin. Đặc biệt là, Việt Nam vẫn chưa ban hành
được một đạo luật riêng về quyền tiếp cận thông tin.
Theo Toby Mendel, một chuyên gia trong lĩnh vực tiếp
cận thông tin, trong công trình nghiên cứu “Tầm quan trọng của Quyền
tiếp cận thông tin: Xu hướng, Địa vị và Đặc điểm” (1), thì năm 1990 chỉ
mới có 13 nước trên thế giới có Luật Tiếp cận thông tin. Đến năm 2009,
đã có trên 80 quốc gia ban hành Luật Tiếp cận thông tin và khoảng 30
quốc gia khác đang trong quá trình xây dựng Luật Tiếp cận thông tin,
trong đó có Việt Nam. Tổ chức phi chính phủ quốc tế về nhân quyền có tên
là “ARTICLE 19” đã coi thông tin là “khí oxy của nền dân chủ”. Thông
tin là nguồn sống cơ bản của nền dân chủ vì về bản chất, dân chủ là khả
năng của cá nhân tham gia một cách hiệu quả vào quá trình ra quyết định
có ảnh hưởng đến cá nhân đó (2).
2. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin trong việc bảo đảm thực hiện các quyền chính trị và dân sự của công dân
Quyền chính trị của công dân bao gồm các quyền: tham
gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội, tham gia quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước, tham gia xây dựng Hiến pháp và pháp
luật, thực hiện quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà
nước, tham gia thực hiện giám sát bộ máy nhà nước, thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập
hội, biểu tình theo quy định của pháp luật, tự do thể hiện ý chí của
mình khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý. Muốn thực hiện các quyền trên
đây trước hết công dân phải có đầy đủ các thông tin. Nếu không có thông
tin hoặc thông tin không đầy đủ, công dân không thể thực hiện các quyền
Hiến định đó của mình; chẳng hạn để thực hiện quyền bầu cử, nếu các cơ
quan có thẩm quyền không cung cấp đầy đủ các thông tin về ứng cử viên
trong danh sách bầu cử, người dân không biết lựa chọn người nào, vì vậy,
mặc dù có quyền lựa chọn nhưng người dân không thể thực hiện được quyền
này.
Các đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn các thành
viên của Chính phủ trong các phiên họp của Quốc hội, nhưng nếu các đại
biểu Quốc hội không được cung cấp thông tin đầy đủ, hoặc không có bộ máy
giúp việc có năng lực, hoặc không có các cơ quan chuyên môn của Quốc
hội như Thanh tra Quốc hội (Ombudsman) hay Kiểm toán Quốc hội
(Parliamentary Audit), các đại biểu Quốc hội không thể có thông tin để
đối chiếu với những số liệu mà các Bộ trưởng đã đưa ra khi trả lời chất
vấn, thì quyền chất vấn cũng chỉ là hình thức. Ngay quyền bỏ phiếu để
thông qua kế hoạch dài hạn và ngắn hạn, nếu không có thông tin đầy đủ
thì các đại biểu Quốc hội cũng không dám chắc việc “bấm nút” của mình
đúng hay sai. Có thể khẳng định, nếu không có thông tin đầy đủ do các cơ
quan công quyền cung cấp thì các đại biểu Quốc hội cũng khó có thể hoàn
thành được các quyền mà pháp luật đã trao cho người đại biểu của cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng
các hình thức trực tiếp hay gián tiếp đều dựa trên sự hiểu biết của công
dân. Sự hiểu biết này chủ yếu được hình thành trên cơ sở các thông tin
mà công dân nắm được; chẳng hạn, nếu không có thông tin công khai về tài
sản của Nghị sĩ và các quan chức khác của Nhà nước trước và sau các
nhiệm kỳ bầu cử, thì các cử tri cũng không thể biết được liệu những
người được nhân dân lựa chọn hoặc được các cơ quan nhà nước cấp trên bổ
nhiệm vào những chức vụ nhất định, có tham nhũng hay không.
Do không có các thông tin đầy đủ, việc thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân sẽ rất khó khăn. Chẳng hạn, họ
không biết gửi đơn khiếu kiện đến cơ quan nào, thủ tục giải quyết khiếu
kiện sẽ ra sao, ai là người chịu trách nhiệm chính về loại vụ việc này.
Do không có thông tin đầy đủ, người dân có thể buộc phải chịu đựng tình
trạng vi phạm pháp luật của các cơ quan công quyền, vi phạm các quyền và
lợi ích hợp pháp của họ mà không dám đấu tranh vì các cơ quan công
quyền – đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước – đã bưng bít các
thông tin.
Mọi công dân đều có đầy đủ các quyền dân sự của mình.
Một trong các quyền dân sự của công dân là quyền được yêu cầu bồi
thường khi họ là nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp.
Công dân chỉ có thể đấu tranh để thực hiện quyền này khi họ được cung
cấp thông tin về điều kiện và mức độ bồi thường, cơ quan bồi thường. Nếu
không có các thông tin đó, người dân sẽ rất khó khăn khi bảo vệ các
quyền của mình.
Quyền tài sản là quyền dân sự đặc biệt quan trọng của
công dân. Khi vì lợi ích công, các bất động sản của công dân có thể bị
Nhà nước trưng dụng với sự đền bù thoả đáng. Tuy nhiên, công dân chỉ có
thể bảo vệ được quyền đền bù thoả đáng này khi họ được Nhà nước cung cấp
đầy đủ và chính xác về giá cả đền bù và các thủ tục cần thiết trong
việc đền bù do giải phóng mặt bằng.
Như vậy, nếu không có thông tin đầy đủ thì các quyền dân sự của người dân khó có thể được đảm bảo thực hiện.
3. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin trong việc đảm bảo thực hiện các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội của công dân
Quyền tự do kinh doanh là một quyền cơ bản của công
dân. Tuy nhiên, muốn thực hiện quyền này, công dân phải có đầy đủ thông
tin trong lĩnh vực kinh tế. Chẳng hạn, công dân cần phải có đầy đủ các
thông tin về nhu cầu tiêu dùng của xã hội, về thị trường tiêu thụ hàng
hoá, trên cơ sở đó người dân đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh
mới có hiệu quả. Khi có đầy đủ thông tin, công dân có thể xác định đúng
sản xuất mặt hàng gì, yêu cầu chất lượng như thế nào và tiêu thụ ở đâu.
Tình trạng nhiều nơi nông dân trồng mía, nuôi bò sữa, trồng các loại
hoa quả, chăn nuôi các loại gia cầm, gia súc, nhưng không bán được sản
phẩm của mình do nhu cầu tiêu thụ ít nhưng sản xuất lại nhiều, mặt hàng
cần thì không có, mặt hàng có thì không cần, chính là do sự thiếu thông
tin theo quy luật cung cầu trong nền kinh tế thị trường. Hoặc ví dụ
khác, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền không cung cấp cho người dân
biết những thông tin về nguy cơ phá sản hay tình trạng đã phá sản của
một số doanh nghiệp của Nhà nước cũng như tư nhân, thì người dân có thể
sẽ mất trắng hàng trăm triệu, thậm chí hàng chục tỷ đồng nếu làm ăn với
các doanh nghiệp đã hoặc đang trên đà phá sản mà họ không biết.
Đối với quyền học tập của công dân cũng vậy. Các cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền phải có nghĩa vụ cung cấp cho
người dân những thông tin cần thiết về các nghề nghiệp mà xã hội đang
cần, mặt khác cũng cần cung cấp các thông tin về những ngành nghề mà
nhiều người đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng hoặc trung cấp chuyên nghiệp
nhưng không có việc làm. Nếu không có thông tin đầy đủ về các chỉ số
trên đây thì sẽ dẫn đến tình trạng đào tạo tràn lan, đào tạo theo nhu
cầu cảm tính, cán bộ vừa thừa vừa thiếu. Con số chỉ có 40% sinh viên các
trường đại học sau khi tốt nghiệp có việc làm hiện nay ở Việt Nam đã
nói lên tình trạng này, chưa nói đến những sai lầm về đào tạo cán bộ
trong thời kỳ theo cơ chế hành chính quan liêu bao cấp.
Do thiếu thông tin khoa học, đặc biệt là những thông
tin khoa học cập nhật, các lĩnh vực khoa học đặc biệt là khoa học xã hội
của Việt Nam đã lạc hậu so với nhiều nước tiên tiến trên thế giới. Cũng
do thiếu thông tin về hình thức và phương pháp đào tạo ở nước ngoài nên
trong một thời gian dài, chỉ có hình thức đào tạo công lập với phương
pháp đào tạo mang tính chất cổ truyền.
Quyền tiếp cận thông tin có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc thực hiện các chính sách tạo công ăn việc làm cho công
dân, đặc biệt là các chính sách xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Do
không có thông tin đầy đủ và chính xác về việc làm và chế độ tiền lương ở
nước ngoài, mà một số công nhân xuất khẩu lao động với những chi phí
tốn kém để ra nước ngoài lao động ở nước ngoài nhưng họ đã thất vọng vì
công việc nặng nhọc mà đồng lương thấp, hoặc không có việc làm, buộc
phải trở về nước với những khoản nợ nặng nề do chi phí cho các dịch vụ
môi giới tìm kiếm việc làm ở nước ngoài.
Sự thiếu thông tin cần thiết và đầy đủ cũng tước đi
khả năng của công dân có thể hưởng thụ những tinh hoa văn hoá của nhân
loại, như thông tin về những thành tựu mới trong văn học nghệ thuật, âm
nhạc, trong phát minh sáng chế, trong các thành tựu y học về giải phẫu,
về khả năng chữa các căn bệnh hiểm nghèo, các thành tựu trong lĩnh vực
vật liệu xây dựng, công nghệ sinh học tạo ra các giống cây mới, vật nuôi
mới có năng suất và giá trị kinh tế cao…
Một trong các quyền thuộc về lĩnh vực các quyền kinh
tế, văn hoá, xã hội là quyền được sống trong môi trường trong sạch. Tuy
nhiên, nếu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không cung cấp thường
xuyên các số liệu về mức độ ô nhiễm không khí, sự trong sạch của các
nguồn nước, thì người dân có thể không biết họ đang sống trong một môi
trường bị ô nhiễm về mức độ tiếng ồn, về mức độ bụi trong không khí, về
các nguồn nước uống có chứa các chất độc hại… Các thực phẩm mà người dân
sử dụng hàng ngày nếu không có thông tin đầy đủ thì người dân cũng có
thể phải sử dụng các thực phẩm độc hại…
Như vậy, theo chúng tôi, quyền tiếp cận thông tin
không chỉ là “oxy của nền dân chủ”, mà suy cho cùng, nó là quyền để thực
hiện mọi quyền. Vì không có thông tin thì người dân không thể biết,
không thể bàn, không thể làm, không thể kiểm tra về bất cứ vấn đề gì.
Nói một cách khác tất cả các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá,
xã hội của công dân đều chỉ có thể đảm bảo thực hiện trên cơ sở đảm bảo
quyền tiếp cận thông tin.
Chú thích:
(1) Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “Xây dựng Luật tiếp cận thông tin tại Việt Nam” ngày 06-07/05/2009 tại Hà Nội, tr. 30.
(2) Tài liệu đã dẫn, tr. 32.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment