Thực hiện Nghị quyết số 27/2008/NQ-QH12 về Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 và bổ sung Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XII, được sự phân công của Chính phủ,
Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng Dự thảo Luật tiếp cận thông tin (sau đây gọi là Dự thảo Luật). Bộ Tư pháp xin trình Chính phủ những nội dung chính liên quan đến Dự thảo Luật như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH VĂN BẢN
Ở nước ta, quyền được thông tin đã được xác định
trong Hiến pháp năm 1992. Cụ thể, Điều 69 của Hiến pháp quy định công
dân có quyền được thông tin theo quy định của pháp luật: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.
Trong thời gian qua, quyền tiếp cận thông tin cũng được sự quan tâm
thích đáng của Đảng và đã được thể hiện trong nhiều chủ trương, chính
sách của Đảng. Cụ thể, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba, Ban chấp hành
Trung ương Đảng (Khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đề ra nhiệm vụ nghiên cứu ban
hành Luật bảo đảm quyền được thông tin của công dân và coi đây là một
trong các biện pháp phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước.
Về phương diện quốc tế, quyền tiếp cận thông tin
là một trong những quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự –
chính trị, được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
năm 1948[1],
trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Các
quyền này tiếp tục được khẳng định trong Công ước của Liên Hợp quốc về
chống tham nhũng, Tuyên bố Rio về Môi trường và phát triển và Công ước
UNECE về tiếp cận thông tin môi trường. Một loạt các quốc gia trên thế
giới cũng đã ban hành các luật liên quan đến quyền tiếp cận thông tin
của công chúng.[2]
Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp, thực hiện chủ
trương của Đảng, đồng thời nội luật hoá một số quy định trong các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhiều văn bản quy định về quyền
được tiếp cận thông tin và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong
việc cung cấp thông tin do cơ quan nhà nước đang nắm giữ (các thông tin
về môi trường, thông tin về quy hoạch, về xây dựng, về đất đai, về các
dự án, về vệ sinh, an toàn thực phẩm, về chi tiêu ngân sách…) đã được
ban hành. Đó là Luật phòng, chống tham nhũng, Luật xây dựng, Luật đầu
tư, Luật đất đai, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân,
Luật ngân sách, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn… và
các văn bản quy định chi tiết thi hành các luật trên. Việc quy định
trách nhiệm công khai, minh bạch và cung cấp thông tin của cơ quan nhà
nước trong các văn bản pháp luật được ban hành sau ngày càng rõ ràng, cụ
thể hơn so với các văn bản được ban hành trước.
Như vậy, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã rất chú
trọng đến quyền được tiếp cận thông tin của người dân, đến trách nhiệm
của cơ quan nhà nước phải công khai thông tin do mình nắm giữ. Thông qua
các quy định pháp luật, chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” đã từng bước đi vào cuộc sống.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành cho thấy việc thể chế và chi tiết hoá quyền được
thông tin được ghi nhận trong văn kiện của Đảng, trong Hiến pháp thành
các quy định của luật và các văn bản pháp quy còn chậm và chưa hệ thống;
chưa bao quát đầy đủ các lĩnh vực của cuộc sống; chưa có một cơ chế
pháp lý cụ thể, đơn giản để bảo đảm thực hiện quyền này một cách có hiệu
quả, nên việc thực hiện quyền được thông tin của công dân còn hạn chế.
Hầu hết các văn bản hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc xác định trách
nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước cũng như quyền tự do
thông tin mang tính nguyên tắc, tính khái quát hơn là tính thực tiễn.
Các quy định về tiếp cận thông tin chủ yếu giao quyền tự quyết định việc
cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý thông tin thuộc lĩnh vực mà cơ
quan đó phụ trách và kết quả là mỗi cơ quan, mỗi lĩnh vực lại có những
quy định khác nhau về cách thức, quy trình cung cấp thông tin. Do thiếu
một số quy định chung về các loại thông tin phải công bố công khai rộng
rãi; các loại thông tin phải đăng trên trang thông tin điện tử; các loại
thông tin cung cấp theo yêu cầu; quy trình yêu cầu cung cấp thông tin;
lý do từ chối cung cấp thông tin; kiểm tra, giám sát việc thi hành các
quy định về tiếp cận thông tin… nên quy trình cung cấp thông tin trong
các văn bản chuyên ngành hoặc chưa được quy định; hoặc được quy định còn
phức tạp, thiếu rõ ràng, mâu thuẫn, chồng chéo và không thuận tiện cho
việc tiếp cận thông tin của người dân. Trách nhiệm cung cấp thông tin
cũng chưa được quy định một cách cụ thể, ví dụ như loại thông tin nào
bắt buộc phải công bố công khai rộng rãi, thông tin nào được cung cấp
khi có yêu cầu, thông tin nào không có trách nhiệm cung cấp, dẫn đến
tình trạng một số cán bộ, công chức còn có thói quen giữ bí mật thông
tin do mình nắm giữ để hoặc là đảm bảo “an toàn” cho chính bản thân hoặc
dùng thông tin để trục lợi hoặc rơi vào tình trạng không biết mình có
trách nhiệm cung cấp thông tin hay không.
Ngoài ra, việc liệt kê các thông tin mà các cơ quan,
tổ chức phải công khai trong các luật chuyên ngành là cần thiết, nhưng
các quy định này chưa điều chỉnh được một cách vĩ mô và không thể bao
quát hết các lĩnh vực hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành cũng đã có quy định
về chức danh người phát ngôn của các cơ quan nhà nước (theo Quy chế phát
ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ban hành kèm theo Quyết định số
77/2007/QĐ-TTg ngày 28/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ), song nhiệm vụ
của người phát ngôn chỉ mới là cung cấp thông tin cho báo chí chứ
không bao gồm việc tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu cung cấp thông
tin của công chúng. Thêm vào đó, về cơ bản, hoạt động của người phát
ngôn là không thường xuyên, chỉ mang tính định kỳ và theo một số vụ
việc. Chính vì thế, cơ chế người phát ngôn chưa thực sự là một giải pháp
hữu hiệu để tăng cường, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân.
Do các quy định pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập
như đã nêu, nên trên thực tế, việc tiếp cận thông tin do các cơ quan
nhà nước nắm giữ vẫn khó khăn, dẫn tới việc công khai, minh bạch trong
hoạt động của cơ quan nhà nước chưa được thực hiện một cách triệt để,
biểu hiện rõ nhất là trong lĩnh vực đất đai, đền bù giải toả, dự án ưu
đãi, các khoản tín dụng, cứu trợ thiên tai…Việc thiếu các quy định ràng
buộc trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc công khai thông tin
là nguy cơ phát sinh tình trạng lợi dụng đặc quyền, đặc lợi của những
người có điều kiện, vị trí công tác dễ dàng tiếp cận thông tin để trục
lợi, gây nên sự bất bình đẳng, thiếu công bằng trong xã hội, đặc biệt là
trong lĩnh vực kinh doanh, đầu tư. Việc thiếu minh bạch, công khai
trong hoạt động quản lý nhà nước và thiếu cơ chế tiếp cận thông tin chưa
tạo cơ chế hữu hiệu để người dân tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình; đã phần nào làm hạn chế sự tham gia của tổ chức, công dân vào hoạt
động quản lý nhà nước với tính chất là người giám sát, phản biện. Trong
việc thi hành pháp luật, do thiếu minh bạch trong hoạt động quản lý đã
làm hạn chế về mặt nhận thức, tư duy của những người thi hành pháp luật,
bao gồm cả các công chức thực thi pháp luật, dẫn đến tình trạng áp dụng
pháp luật không thống nhất; còn thiếu bình đẳng trong việc áp dụng pháp
luật. Việc thiếu công khai, minh bạch cũng là nguy cơ dẫn đến tình
trạng tham nhũng, tuỳ tiện của cán bộ, công chức.
Khắc phục tình trạng nêu trên, Luật tiếp cận thông
tin cần xác lập cơ chế pháp lý hữu hiệu, đầy đủ, rõ ràng, bảo đảm người
dân thực hiện quyền hiến định. Theo đó, nội dung Luật tập trung để giải
quyết các vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xây dựng một luật khung về quyền
tiếp cận thông tin trên cơ sở pháp điển hoá một cách chung nhất các cơ
quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, các loại thông tin phải công
khai rộng rãi, các thông tin phải được đang tải trên trang thông tin
điện tử, các thông tin được tiếp cận khi có yêu cầu.
Thứ hai, quy định trình tự, thủ tục chung về
tiếp cận thông tin, cơ sở từ chối cung cấp thông tin để tạo cơ sở pháp
lý cho cá nhân, tổ chức thực hiện quyền tiếp cận thông tin của mình.
Thứ ba, quy định trách nhiệm giám sát, kiểm tra việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin.
Việc ban hành Luật tiếp cận thông tin còn là thông
điệp gửi đến bạn bè quốc tế với thiện ý của Nhà nước Việt Nam trong quá
trình hội nhập quốc tế; Việt Nam đã và đang nỗ lực đẩy mạnh cải cách
pháp luật, cải cách hoạt động của bộ máy nhà nước, mở rộng dân chủ, công
khai hoá mọi hoạt động của nhà nước, đồng thời bảo đảm một trong những
quyền cơ bản của con người là quyền tiếp cận thông tin.
Vì những lý do nêu trên, cần thiết phải sớm ban hành
Luật tiếp cận thông tin. Đó cũng là lý do Chính phủ đã đề xuất Quốc hội
chính thức đưa Dự án Luật vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm
2009 thay vì chương trình dự bị và ban hành trong năm 2011 như dự kiến
ban đầu.
II. CÁC NGUYÊN TẮC VÀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG DỰ THẢO LUẬT
Việc xây dựng Dự thảo Luật được tiến hành dựa trên các quan điểm chỉ đạo sau đây:
1. Tiếp tục thể chế hoá các quan điểm, chủ trương
trong các nghị quyết của Đảng về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của cá
nhân, cơ quan, tổ chức; bảo đảm tính công khai, minh bạch trong việc
tiếp cận thông tin;
2. Bảo đảm sự phù hợp của Dự thảo Luật với Hiến pháp
và tính thống nhất của Dự thảo Luật trong hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật;
3. Bảo đảm tính kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến minh bạch, công khai thông tin trong các lĩnh vực;
4. Tăng cường tính minh bạch trong hoạt động và trách
nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan hành
chính nhà nước;
5. Bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế –
xã hội của Việt Nam; phù hợp với điều kiện về cơ sở hạ tầng của Việt
Nam, nguồn nhân lực, tổ chức bộ máy và các nguồn lực khác; bảo đảm tính
khả thi của Luật.
6. Bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt
Nam, bảo đảm tính tương thích và phù hợp với thông lệ, pháp luật quốc
tế; phù hợp với các nguyên tắc về quyền tự do thông tin của Liên Hiệp
Quốc;
III. QUÁ TRÌNH SOẠN THẢO VĂN BẢN
Xác định được ý nghĩa và tầm quan trọng của Dự thảo
Luật, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan ở trung ương, địa
phương tiến hành khảo sát tình hình tiếp cận thông tin tại một số cơ
quan trung ương, địa phương (bao gồm cả cấp tỉnh, huyện, xã); rà soát
các quy định của luật, pháp lệnh và văn bản dưới luật có liên quan đến
tiếp cận thông tin trong các lĩnh vực khác nhau; khảo sát tình hình thực
hiện các văn bản pháp luật hiện hành về tiếp cận thông tin.
Ngày 22 tháng 12 năm 2008, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã
thành lập Ban soạn thảo với sự tham gia của đại diện Bộ Tư pháp, Bộ Nội
vụ, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ, Bộ Thông tin – Truyền thông, Uỷ
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số chuyên gia, nhà khoa
học.
Trong quá trình soạn thảo, Bộ Tư pháp đã tổ chức
nghiên cứu pháp luật trong nước, nghiên cứu thực tiễn và pháp luật nước
ngoài về tiếp cận thông tin; tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo với các
chuyên gia trong nước và nước ngoài, tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan,
tổ chức với nhiều quy mô, hình thức ở các giai đoạn soạn thảo khác nhau
về những nội dung liên quan đến Dự thảo Luật.
Ban soạn thảo đã nghiêm túc nghiên cứu kinh nghiệm
pháp luật và áp dụng pháp luật của các nước phát triển cũng như các nước
đang phát triển, đặc biệt là các nước châu Á như: Trung Quốc, Thái Lan,
Inđônêxia, Ấn độ, Hàn Quốc, Nhật Bản… (Báo cáo Tự do thông tin thế giới
năm 2006, Báo cáo nghiên cứu về Luật tiếp cận thông tin của các nước
Bắc Âu năm 2009 của Hội Luật gia Việt Nam, Sách "Các văn kiện quốc tế và
luật của một số nước về tiếp cận thông tin"- Nhà Xuất bản công an nhân
dân năm 2007).
IV. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT
Dự thảo Luật gồm 5 chương 41 điều. Sau đây, Bộ Tư pháp xin báo cáo những nội dung cơ bản của Dự thảo Luật:
1. Chương I – Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 12)
Chương này quy định về mục đích ban hành Luật (Điều
1), phạm vi điều chỉnh của Luật (Điều 2), giải thích từ ngữ (Điều 3), cơ
quan có trách nhiệm cung cấp thông tin (Điều 4), thông tin được tiếp
cận (Điều 5), thông tin không được tiếp cận và chưa được tiếp cận (Điều
6); xác định nội hàm quyền tiếp cận thông tin (Điều 7), quy định các
nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin (Điều 8), phương thức tiếp
cận thông tin (Điều 9), quy định nghĩa vụ của cá nhân, cơ quan, tổ chức
tiếp cận thông tin (Điều 10), quy định các hành vi bị nghiêm cấm (Điều
11), xác định mối quan hệ giữa Luật tiếp cận thông tin và các luật khác
có liên quan (Điều 12).
Về quyền tiếp cận thông tin, Điều 7 Dự thảo Luật
khẳng định mọi công dân, tổ chức được thành lập hợp pháp theo pháp luật
Việt Nam đều có quyền tiếp cận thông tin. Đối với người nước
ngoài sinh sống ở Việt Nam, các tổ chức nước ngoài được hoạt động hợp
pháp tại Việt Nam cũng có quyền được tiếp cận đối với các thông tin liên
quan đến họ hoặc lĩnh vực hoạt động của họ.
Dự thảo Luật cũng xác định nội hàm của tiếp cận thông
tin là xem, nghe, đọc, ghi chép, trích dẫn, sao chép, chụp hồ sơ, tài
liệu; được trả lời trực tiếp, được nhận bản sao chép, bản chụp hồ sơ,
tài liệu, trừ hồ sơ, tài liệu có chứa thông tin thuộc bí mật nhà nước,
bí mật đời tư, bí mật kinh doanh (khoản 3 Điều 3). Để thực hiện quyền
này, Điều 9 Dự thảo Luật quy định hai phương thức tiếp cận thông tin, đó
là: tiếp cận thông tin được công bố công khai rộng rãi và tiếp cận
thông tin theo yêu cầu.
Với mục đích bảo đảm hiệu quả thực hiện quyền tiếp
cận thông tin của người dân cũng như bảo đảm tính công khai, minh bạch
của các cơ quan nhà nước, Điều 8 Dự thảo Luật quy định các nguyên tắc
bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, gồm: – bảo đảm công khai, minh bạch và
kịp thời trong việc cung cấp thông tin; – bảo dảm quyền tiếp cận thông
tin chính đáng của cá nhân, tổ chức; – bảo đảm tính chính xác, đầy đủ
của thông tin; – bảo đảm sự bình đẳng; – bảo đảm lợi ích cộng đồng; –
bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh. Các nguyên tắc
này được quán triệt và thể hiện xuyên suốt toàn bộ các quy định của Dự
thảo Luật.
Nhằm khắc phục tình trạng hiện nay, mặc dù các văn
bản quy phạm pháp luật có quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong việc công khai thông tin nhưng lại chưa có quy định, chưa quy định
rõ hoặc quy định chưa phù hợp về trình tự, thủ tục tiếp cận thông tin,
dẫn đến thực tế thông tin được công khai nhưng người dân vẫn khó tiếp
cận, Dự thảo Luật xác định rõ mối quan hệ giữa Luật tiếp cận thông tin
và các luật khác có liên quan, theo đó Luật này áp dụng chung cho việc
tiếp cận thông tin; trong trường hợp luật khác có quy định khác
rộng hơn về phạm vi thông tin được tiếp cận, thuận lợi hơn về trình tự,
thủ tục tiếp cận thông tin thì áp dụng quy định của luật đó (Điều 12).
Dự thảo Luật cũng xác định rõ các thông tin được tiếp
cận và thông tin không được tiếp cận hoặc chưa được tiếp cận. Theo đó,
thông tin được tiếp cận là thông tin được công bố công khai rộng rãi và thông
tin tiếp cận theo yêu cầu (Điều 5). Thông tin không được tiếp cận gồm
các thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh;
thông tin chưa được tiếp cận gồm thông tin trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử; thông tin đang trong quá trình thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán, giám sát; thông tin có trong hồ sơ, tài liệu đang trong quá
trình soạn thảo (Điều 6).
2. Chương II – Thông tin được công bố công khai rộng rãi (từ Điều 13 đến Điều 16)
Chương này quy định về các thông tin phải được công
bố công khai rộng rãi (Điều 13), hình thức công bố công khai rộng rãi
thông tin (Điều 14), quy định những thông tin phải được công bố công
khai trên trang thông tin điện tử (Điều 15), quy định việc công bố công
khai rộng rãi thông tin vì lợi ích cộng đồng (Điều 16).
Một trong những điểm nổi bật của Dự thảo Luật so với
các quy định hiện hành về công bố công khai thông tin là đề cao trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc chủ động công bố công khai các
thông tin do mình nắm giữ. Theo đó, Dự thảo Luật khuyến khích các cơ
quan, tổ chức nắm giữ thông tin công bố công khai các thông tin do mình
nắm giữ, trừ các thông tin không được tiếp cận và chưa được tiếp cận quy
định tại Điều 6 của Dự thảo Luật. Dự thảo Luật còn quy định rõ các loại
thông tin phải được công bố công khai (khoản 2 Điều 13) và các loại
thông tin phải được công bố công khai trên trang thông tin điện tử của
cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin (khoản 1 Điều 15) và ràng buộc trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc lập, cập nhật và công bố công
khai danh mục thông tin do mình nắm giữ (khoản 3 Điều 13). Về cơ bản,
các thông tin phải được công bố công khai được xây dựng trên cơ sở rà
soát, tập hợp các quy định pháp luật hiện hành về công khai, minh bạch
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước như Luật ngân sách nhà nước,
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Luật Kiểm toán Nhà
nước, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, đặc biệt là
Luật phòng, chống tham nhũng và các luật khác.
Bên cạnh đó, nhằm bảo đảm lợi ích cộng đồng thông qua
việc tạo điều kiện cho mọi người đều được tiếp cận thông tin, Dự thảo
Luật quy định việc công bố công khai rộng rãi thông tin vì lợi ích cộng
đồng (Điều 16). Theo đó, đối với các thông tin không thuộc trường hợp
phải công bố công khai rộng rãi theo quy định tại Dự thảo Luật, trong
trường hợp việc công bố công khai rộng rãi thông tin là cần thiết nhằm
bảo vệ an toàn tính mạng, sức khoẻ của con người, bảo vệ môi trường, bảo
vệ lợi ích cộng đồng thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức nắm giữ thông
tin có trách nhiệm công bố công khai thông tin trên trang thông tin điện
tử của cơ quan, tổ chức hoặc thông qua các hình thức khác quy định tại
khoản 1 Điều 14 của Dự thảo Luật (đăng tải trên ấn phẩm chính thức của
cơ quan, tổ chức; niêm yết tại trụ sở cơ quan, tổ chức; công khai trên
phương tiện thông tin đại chúng…); kịp thời cung cấp thông tin cho cơ
quan báo chí, phát thanh, truyền hình để công bố công khai rộng rãi
thông tin.
3. Chương III – Thông tin tiếp cận theo yêu cầu (từ Điều 17 đến Điều 31)
Như đã nêu ở trên, mặc dù đã có một số văn bản quy
định về công bố thông tin trong một số lĩnh vực nhưng một trong những
khiếm khuyết đáng kể của hệ thống pháp luật hiện nay là thiếu quy định
cụ thể về quy trình tiếp cận thông tin cũng như các hình thức cung cấp
thông tin khi mỗi cá nhân có nhu cầu tiếp cận, tìm hiểu thông tin, dẫn
đến sự e ngại của người dân khi muốn tiếp cận thông tin và sự lúng túng
của cán bộ, công chức về cách thức giải quyết công việc. Do vậy, Dự thảo
Luật tập trung vào quy định rõ thông tin được tiếp cận theo yêu cầu
(Điều 17), các hình thức cung cấp thông tin theo yêu cầu (Điều 18).
Tương ứng với các hình thức cung cấp thông tin theo yêu cầu, Dự thảo
Luật quy định cụ thể yêu cầu tiếp cận thông tin có thể được thực hiện
bằng lời nói hoặc bằng văn bản (Điều 19). Dự thảo Luật còn quy định rõ
trình tự giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 21), quy định về
quyết định việc chấp nhận hoặc từ chối yêu cầu cung cấp thông tin, theo
đó khi nhận được yêu cầu hợp lệ, cơ quan được yêu cầu có trách nhiệm
thông báo cho người yêu cầu về quyết định chấp nhận, quyết định từ chối
yêu cầu cung cấp thông tin hoặc cần gia hạn thời gian để xem xét việc
giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin, trong trường hợp từ chối yêu cầu
cung cấp thông tin phải ra quyết định bằng văn bản và nêu rõ lý do của
việc từ chối (Điều 22); quy định cụ thể về thực hiện việc tiếp cận thông
tin (Điều 23).
Bên cạnh đó, Dự thảo Luật quy định cụ thể về việc
cung cấp thông tin trực tiếp bằng lời nói (Điều 24), về cho phép người
yêu cầu đọc, xem, nghe, ghi chép, trích dẫn nội dung tài liệu, hồ sơ
(Điều 25), về cung cấp thông tin qua mạng điện tử (Điều 26), cung cấp
bản sao, bản chụp tài liệu, hồ sơ (Điều 27), về gia hạn việc giải quyết
yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 30) và chi phí cung cấp thông tin (Điều
31).
Dự thảo Luật cũng quy định rõ cơ sở pháp lý để cơ
quan từ chối cung cấp thông tin (Điều 28), đặt ra nguyên tắc cơ quan
được yêu cầu chỉ từ chối cung cấp thông tin trong các trường hợp nêu
trên nếu việc phân tích, đánh giá cho thấy việc từ chối là cần thiết
nhằm bảo vệ an toàn tính mạng, sức khoẻ của con người, bảo vệ môi
trường, bảo vệ lợi ích cộng đồng và việc cung cấp thông tin sẽ phương
hại đến lợi ích công (khoản 2 Điều 28) và giao trách nhiệm cho người
đứng đầu cơ quan hoặc người được người uỷ quyền quyết định và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về quyết định từ chối.
Về nguyên tắc, Nhà nước bảo đảm quyền tiếp cận thông
tin, nhưng quyền này cũng là một quyền có giới hạn. Trong hầu hết các
luật tiếp cận thông tin của các quốc gia đều có những quy định về hạn
chế tiếp cận các thông tin, tài liệu mật liên quan đến an ninh quốc gia,
bí mật kinh doanh, thông tin cá nhân… và coi những thông tin này thuộc
trường hợp ngoại lệ – không thuộc diện thông tin phải công bố, phải cung
cấp theo yêu cầu trừ những trường hợp cụ thể muốn tiếp cận phải có
những điều kiện nhất định và điều kiện đó cũng phải được pháp luật quy
định cụ thể. Ví dụ: về nguyên tắc, cơ quan công quyền không cung cấp
thông tin cá nhân của một người, nhưng nếu người đó đồng ý cho cung cấp
thì có thể cung cấp mà không vi phạm. Hoặc, đối với thông tin mà việc
công khai có thể gây tổn hại cho việc điều hành nền kinh tế, chính sách
tài chính, tiền tệ của Nhà nước; tổn hại đến lợi ích thương mại hoặc tài
chính hợp pháp của cơ quan nhà nước nhưng nếu việc công khai thông tin
đó là cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích cộng đồng hoặc việc công khai thông
tin sẽ có lợi cho cộng đồng hơn so với việc không công khai thông tin
thì cơ quan nắm giữ thông tin có trách nhiệm phải cân bằng lợi ích, cân
nhắc các tổn hại có thể gây ra nếu không cung cấp thông tin, ưu tiên bảo
đảm lợi ích chung của cộng đồng.
Ngoài ra, Dự thảo Luật dành một điều quy định về việc cung cấp thông tin trong trường hợp đặc biệt (Điều 29).
4. Chương IV – Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin (từ Điều 32 đến Điều 38)
Dự thảo Luật quy định về trách nhiệm của cơ quan nắm
giữ thông tin (Điều 32) trong việc chỉ định, bố trí bộ phận cán bộ, công
chức làm đầu mối tiếp nhận yêu cầu và cung cấp thông tin; bố trí hợp lý
cán bộ, công chức bảo đảm việc tiếp cận thông tin; thiết lập và vận
hành trang thông tin điện tử; sử dụng hiệu quả các phương tiện thông tin
đại chúng của cơ quan, tổ chức; tăng cường cung cấp thông tin thông qua
hoạt động của người phát ngôn của cơ quan; củng cố và tăng cường vai
trò của bộ phận tiếp dân của cơ quan, bảo đảm trụ sở tiếp công
dân đủ điều kiện để cá nhân, tổ chức thực hiện tốt nhất quyền tiếp cận
thông tin; lập, cập nhật và công khai rộng rãi danh mục thông tin do
mình nắm giữ sao cho việc tìm kiếm thông tin dễ dàng; bảo đảm các điều
kiện cơ sở vật chất khác nhằm mục đích tạo thuận lợi cao nhất cho việc
tiếp cận thông tin.
Trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, việc bố
trí đầu mối tiếp nhận yêu cầu, cung cấp và ra quyết định cung cấp thông
tin có ý nghĩa quan trọng. Thông lệ các nước đều có cán bộ, công chức
phụ trách riêng về tiếp cận thông tin; mỗi cơ quan có thể có một số cán
bộ hoặc tối thiểu phải bố trí một cán bộ. Dự thảo Luật không quy định cụ
thể về cán bộ phụ trách về tiếp cận thông tin mà chỉ quy định trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin phải bố trí cán bộ đảm bảo
việc tiếp cận thông tin (khoản 1 Điều 32). Quy định này nhằm bảo đảm sự
linh hoạt cho các cơ quan, đồng thời nhằm tận dụng nguồn nhân lực từ các
Trung tâm Thông tin, Trung tâm Tin học tại các Bộ, ngành, từ các phòng
thông tin, bộ phận văn phòng và phòng tiếp dân của các cơ quan, tổ chức
để không tăng thêm biên chế. Trong điều kiện thực hiện chính sách tinh
giản biên chế còn gặp nhiều khó khăn như hiện nay, người đứng đầu cơ
quan, tổ chức cần tận dụng nguồn lực sẵn có, đối với việc thực thi Luật,
không nhất thiết cơ quan chỉ bố trí 1 cán bộ mà có thể nhiều hơn mà
không phải tăng biên chế cũng như tăng chi phí, ngân sách cho Nhà nước.
Dự thảo Luật cũng quy định trách nhiệm thiết lập và
vận hành trang thông tin điện tử (Điều 33); bảo đảm nguồn lực thực hiện
quyền tiếp cận thông tin (Điều 34); cơ chế khiếu nại, khiếu kiện (Điều
35); xử lý vi phạm (Điều 36); giám sát việc thực hiện quyền tiếp cận
thông tin (Điều 37); trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin (Điều 38).
5. Chương V – Điều khoản thi hành (từ Điều 39 đến Điều 41)
Điều 39 quy định trách nhiệm của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của Luật và các biện pháp thi hành Luật, trách
nhiệm của các cơ quan nắm giữ thông tin quy định cụ thể về trình tự, thủ
tục cung cấp thông tin do mình nắm giữ; Điều 40 quy định về điều khoản
chuyển tiếp; Điều 41 xác định thời điểm có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng
07 năm 2012.
Dự kiến Luật tiếp cận thông tin sẽ có hiệu lực sau 2
năm được thông qua để bảo đảm tính khả thi của Luật, bảo đảm thời gian
cho việc chuẩn bị văn bản hướng dẫn, sửa đổi các văn bản pháp luật trái
với tinh thần và quy định của Luật, bảo đảm thời gian cho các cơ quan
chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc thi hành Luật, nhất là xây
dựng các cơ sở vật chất, thiết lập các trang thông tin điện tử và tăng
cường năng lực đội ngũ cán bộ, công chức nhằm thực thi tốt các quy định
của Luật. Đây cũng là kinh nghiệm của một số nước đều dành một thời gian
tương đối dài như Anh là 5 năm, Slovenia là 3 năm… để chuẩn bị các điều
kiện cần thiết cho việc thực thi luật có hiệu quả.
V. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN XIN Ý KIẾN
1. Về chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin (Điều 4 Dự thảo Luật)
Trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật, còn có các ý
kiến khác nhau xung quanh việc xác định chủ thể có trách nhiệm cung cấp
thông tin.
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, chủ thể có trách
nhiệm cung cấp thông tin là tất cả các cơ quan nhà nước – cơ quan công
quyền (bao gồm cả cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính, cơ quan tư
pháp) và các tổ chức có sử dụng tài sản, ngân sách nhà nước (bao gồm các
tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ
chức do Thủ tướng Chính phủ thành lập, tổ chức sự nghiệp dịch vụ công,
doanh nghiệp nhà nước, quỹ được thành lập theo quy định của pháp luật),
trừ tổ chức chính trị, bởi các lý do như: tất cả các cơ quan, tổ chức
này đều sử dụng tài sản, ngân sách nhà nước, ít hay nhiều đều nắm giữ
một số thông tin công, đều thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng cán bộ,
công chức, người lao động… và việc công khai những thông tin liên quan
đến các hoạt động này là cần thiết.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, chủ thể có trách
nhiệm cung cấp thông tin chỉ nên giới hạn trong phạm vi các cơ quan hành
chính nhà nước. Cơ sở cho sự lựa chọn loại ý kiến này xuất phát từ vị
trí, chức năng, tính chất của các cơ quan nói trên. Theo đó, để thực
hiện chức năng quản lý, điều hành, các cơ quan hành chính nhà nước đương
nhiên là chủ thể nắm giữ nhiều thông tin nhất và các thông tin do cơ
quan hành chính nhà nước nắm giữ trực tiếp liên quan đến người dân nhất.
Thêm vào đó, trong thời gian vừa qua đây cũng là khu vực mà tình hình
công khai thông tin còn nhiều tồn tại, bức xúc.
- Loại ý kiến thứ ba cho rằng, chủ thể có trách nhiệm
cung cấp thông tin là tất cả các cơ quan nhà nước (bao gồm cả cơ quan
quyền lực, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp).
Sau khi nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm các nước và căn cứ vào tình hình thực tiễn ở Việt Nam, Bộ Tư pháp thấy rằng:
Trách nhiệm cung cấp thông tin và quyền tiếp cận
thông tin phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa các cơ quan trong bộ máy
nhà nước và nhân dân. Vì vậy, tất cả các cơ quan nhà nước từ Quốc hội
đến Chính phủ, chính quyền địa phương, Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án
nhân dân… với tư cách là những cơ quan thực hiện quyền lực công đều nắm
giữ những thông tin mà nhân dân cần được biết để một mặt tự bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, mặt khác, tham gia giám sát hoạt động của
các cơ quan này. Hơn nữa, thông qua việc tiếp cận thông tin, người dân
có cơ hội tham gia hiệu quả hơn vào hoạt động của các cơ quan trong bộ
máy nhà nước; đồng thời tăng cường tính công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước.
Trong số các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp
thông tin, có thể thấy chủ thể liên quan nhất là các cơ quan hành chính
nhà nước. Các văn kiện của Đảng cũng như các văn bản quy phạm pháp luật
ban hành trong thời gian qua luôn nhấn mạnh đến trách nhiệm của các cơ
quan hành chính nhà nước trong việc công bố công khai, cung cấp một số
thông tin do mình nắm giữ. Các chủ thể khác như Quốc hội, Viện Kiểm sát
nhân dân, Toà án nhân dân cũng là những chủ thể nắm giữ các thông tin mà
người dân quan tâm. Cụ thể là các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết của
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đều được đăng tải công khai, kịp
thời qua các phương tiện thông tin đại chúng để người dân tham gia đóng
góp ý kiến; những vấn đề quan trọng của đất nước được thảo luận công
khai; các phiên chất vấn tại Quốc hội được truyền hình trực tiếp. Bên
cạnh đó, thông qua các buổi tiếp xúc cử tri, các hoạt động của Quốc hội,
Hội đồng nhân dân, tất cả những vấn đề mà cử tri quan tâm được đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trực tiếp thông báo, trao đổi với
cử tri.
Đối với Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, cùng
với quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, chủ trương
từng bước công khai các bản án, phán quyết của toà án đã xây dựng nền
tảng cho việc công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan tư
pháp. Bên cạnh đó, các chương trình hoạt động, kế hoạch xét xử của tòa
án; các thông tin liên quan đến thi tuyển, bổ nhiệm nhân sự, cách thức
chi tiêu tài chính của hệ thống Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
cũng cần được công khai rộng rãi.
Việc công khai thông tin của các tổ chức chính trị –
xã hội, tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội cũng đã
được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành như Luật ngân sách
nhà nước, Luật cán bộ, công chức, Luật quản lý và sử dụng tài sản công…,
do vậy việc tiếp cận thông tin của các tổ chức này đã được đảm bảo ở
mức độ nhất định. Ngoài ra, hoạt động của các tổ chức này còn được quy
định bởi các điều lệ của từng tổ chức.
Để bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động
của các tổ chức sự nghiệp dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước cũng như
bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của cá nhân, tổ chức, Dự thảo Luật xây
dựng theo hướng trên cơ sở các nguyên tắc quy định trong Luật, Chính phủ
quy định cụ thể về việc tiếp cận thông tin do các tổ chức sự nghiệp
dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước nắm giữ.
Từ những lý do trên, Bộ Tư pháp đã lựa chọn loại ý
kiến thứ ba và quy định những chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin
tại Điều 4 của Dự thảo Luật.
2. Về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức phải thiết lập, vận hành trang thông tin điện tử (Điều 33 Dự thảo Luật)
Để tạo thuận lợi cho việc tiếp cận thông tin, đa số
các ý kiến đều nhất trí việc thiết lập trang thông tin điện tử, vì cho
rằng đây là phương tiện công khai thông tin một cách kịp thời và ít tốn
kém nhất. Tuy nhiên, các ý kiến còn khác nhau về việc có nhất thiết phải
quy định trách nhiệm của tất cả các chủ thể có trách nhiệm cung cấp
thông tin phải thiết lập trang thông tin điện tử hay không.
Một số ý kiến cho rằng cần thiết phải quy định trách
nhiệm bắt buộc đối với tất cả các cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ cung cấp
thông tin trong việc thiết lập trang thông tin điện tử riêng để đăng tải
các thông tin cần thiết, quan trọng và phổ biến. Có như vậy mới tạo
điều kiện để người dân được chủ động trong việc tiếp cận thông tin, dễ
dàng tiếp cận với thông tin mà không phải mất nhiều thời gian, công sức
cho việc tìm kiếm hay phải yêu cầu các cơ quan, tổ chức cung cấp. Việc
thiết lập trang thông tin điện tử và quy định trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức phải đăng tải các thông tin cần thiết trên trang thông tin điện
tử cũng sẽ tạo thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức trong việc cập nhật,
đăng tải thông tin, mà không phải tốn thời gian cung cấp thông tin theo
yêu cầu.
Các ý kiến khác lại cho rằng không cần thiết phải quy
định trách nhiệm bắt buộc đối với tất cả các cơ quan, tổ chức có nghĩa
vụ cung cấp thông tin phải thiết lập trang thông tin điện tử
riêng. Bởi lẽ, hiện nay, do yêu cầu của quá trình cải cách hành chính và
chiến lược xây dựng Chính phủ điện tử, về cơ bản, Chính phủ, các bộ,
ngành ở trung ương, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, đã thiết
lập trang thông tin điện tử của mình để đăng tải các thông tin liên
quan đến tổ chức và hoạt động quản lý, điều hành của mình. Quốc hội, Toà
án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã có trang
thông tin điện tử, thậm chí, một số Uỷ ban nhân dân phường ở Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh đã thiết lập trang thông tin điện tử riêng. Tuy
nhiên, xét về tổng thể thì hiện nay ở cấp huyện mới chỉ có rất ít nơi
thiết lập trang thông tin điện tử. Riêng đối với cấp xã, thì ngoài một
số phường, xã ở một vài thành phố lớn có trang thông tin điện tử, số còn
lại chưa thiết lập trang thông tin điện tử vì nhiều lý do. Nếu quy định
ngay trách nhiệm phải thiết lập trang thông tin điện tử ở tất cả cấp xã
thì trước mắt Nhà nước phải đầu tư một khoản kinh phí rất lớn cho việc
thiết lập, vận hành, duy trì trang thông tin điện tử. Bên cạnh đó, năng
lực vận hành, duy trì trang thông tin điện tử ở cấp xã cũng còn rất hạn
chế.
Bộ Tư pháp thấy rằng, bảo đảm quyền tiếp cận thông
tin không chỉ dừng ở việc các cơ quan cung cấp thông tin mà còn đặt ra
yêu cầu phải đăng tải và phổ biến rộng rãi những tài liệu bắt buộc phải
công bố và có thể được công bố mà các cơ quan này đang nắm giữ. Việc
tiếp cận thông tin của người dân có hiệu quả hay không tuỳ thuộc vào
việc các cơ quan nắm giữ thông tin có chủ động và tích cực đăng tải để
công bố công khai rộng rãi các loại thông tin do mình nắm giữ. Trang
thông tin điện tử là một phương tiện quan trọng để đăng tải thông tin
liên quan đến hoạt động của các cơ quan. Tuy nhiên, việc thiết lập và
duy trì trang thông tin điện tử ở Việt Nam hiện nay phải có lộ trình
nhất định. Do vậy, Dự thảo Luật được xây dựng theo hướng: các cơ quan
quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 4 của Dự thảo Luật, Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thiết lập và vận hành trang thông tin
điện tử.
Trang thông tin được thiết lập chung cho Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện; Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân cấp xã.
Trường hợp chưa có trang thông tin điện tử, các cơ
quan quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 4 của Dự thảo Luật, Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn của Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phường phải thiết lập và đưa vào vận
hành trước khi Luật này có hiệu lực.
Chậm nhất là trước ngày 01 tháng 7 năm 2016, trang
thông tin điện tử của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn
phải được thiết lập và đưa vào vận hành.
3. Về cơ chế giám sát, theo dõi, đánh giá việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin (Điều 37, Điều 38 Dự thảo Luật)
Để quyền tiếp cận thông tin của người dân được thực
thi trong thực tiễn, đồng thời hạn chế việc các cơ quan, tổ chức nắm giữ
thông tin lạm dụng quyền hạn của mình từ chối cung cấp thông tin hoặc
cung cấp thông tin không kịp thời cho người dân thì cần thiết phải có cơ
chế theo dõi, đánh giá và giám sát việc thực thi quyền tiếp cận thông
tin. Thực tiễn thi hành Luật tiếp cận thông tin tại nhiều quốc gia cho
thấy, các cơ quan quản lý thông tin – đặc biệt là các cơ quan hành chính
nhà nước, nơi nắm giữ phần lớn các thông tin mà người dân muốn được
tiếp cận – thường có xu hướng không muốn cung cấp thông tin hoặc trì
hoãn việc cung cấp thông tin. Thực tế này dẫn đến tình trạng những quy
định của luật dễ trở thành những tuyên bố mang tính hình thức, không có
giá trị thực thi, từ đó làm giảm sút lòng tin của người dân đối với
chính sách của Nhà nước. Vì vậy, để tránh tình trạng này, hầu hết các
quốc gia đã ban hành Luật tiếp cận thông tin đều quy định cơ chế kiểm
tra, giám sát việc thi hành đạo luật này.
Một trong những cơ chế giám sát có tính chất truyền
thống mà hầu hết các quốc gia đều thực hiện, đó là cơ chế giám sát trong
nội bộ hệ thống hành chính thông qua việc giải quyết khiếu nại hành
chính. Công dân có quyền khiếu nại đối với một quyết định từ chối cung
cấp thông tin lên cơ quan cấp trên của cơ quan từ chối cung cấp thông
tin. Quy trình này được cho là ít tốn kém và nhanh chóng, nhưng thực
tiễn ở phần lớn các quốc gia cho thấy, đây là một quy trình kém hiệu
quả, vì các cơ quan giải quyết khiếu nại hành chính thường có xu hướng
ủng hộ các quyết định từ chối cung cấp thông tin của cơ quan cấp dưới.[3]
Sau khi quy trình giải quyết khiếu nại hành chính kết
thúc, pháp luật các nước đều quy định công dân có thể tiếp tục khiếu
nại đến một cơ quan khác không nằm trong hệ thống cơ quan hành chính.
Khoảng trên 20 quốc gia cho phép công dân khiếu nại đến một cơ quan giám
sát do Quốc hội thành lập (gọi là Ombudsman). Cơ quan này có thẩm quyền
xem xét lại các quyết định do cơ quan hành chính đã ban hành bao gồm cả
quyết định từ chối cung cấp thông tin và quyết định giải quyết khiếu
nại trước đó. Cơ quan Ombudsman của Quốc hội không có quyền ban hành các
quyết định mang tính cưỡng chế, nhưng ở hầu hết các quốc gia, những
khuyến nghị của cơ quan này có tầm ảnh hưởng lớn và thường được các cơ
quan hành chính tuân thủ. Ở một số quốc gia, cơ quan Ombudsman có quyền
lực rất lớn, có thể thực hiện các hoạt động điều tra khi xem xét các vụ
khiếu nại.
Tuy nhiên, xu hướng chung của các quốc gia thời gian
gần đây là thành lập một Uỷ ban thông tin độc lập để chuyên trách thực
hiện chức năng giám sát việc thực thi quyền tiếp cận thông tin. Uỷ ban
này có thể là một cơ quan trực thuộc Quốc hội hoặc trực thuộc Văn phòng
Thủ tướng, thậm chí có thể là một thiết chế độc lập hoàn toàn. Ở một số
quốc gia như Slovenia, Serbia, Ireland và Vương quốc Anh, Uỷ ban thông
tin được coi như một cấp giải quyết khiếu nại cuối cùng, quyết định của
Uỷ ban này có tính chất cưỡng chế và các cơ quan hành chính phải tuân
theo.
Bộ Tư pháp thấy rằng, trong bối cảnh cụ thể của Việt
Nam hiện nay, phương án thành lập một cơ quan hoàn toàn độc lập chuyên
trách giám sát việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin như Ủy ban thông
tin của các nước nói trên là chưa khả thi.
Tuy nhiên, nếu không có uỷ ban độc lập thì vẫn phải
có một cơ quan của Quốc hội đảm nhận chức năng giám sát việc thực thi
quyền tiếp cận thông tin. Cơ quan này có thể là một trong số các Uỷ ban
của Quốc hội hiện nay hoặc nâng cấp Ban Dân nguyện của Quốc hội lên
thành một Ủy ban của Quốc hội và giao cho cơ quan này chức năng giám sát
việc thực thi quyền tiếp cận thông tin. Trong điều kiện hiện nay,
phương án thứ hai là tương đối khả thi vì từ một vài năm nay, việc nâng
cấp Ban Dân nguyện lên thành một Ủy ban của Quốc hội đã nhiều lần được
đưa ra bàn thảo. Trong Báo cáo năm 2008 của Đảng đoàn Quốc hội trước Bộ
Chính trị về tình hình giám sát Luật Khiếu nại, tố cáo và giám sát về
tình hình thực hiện vấn đề nhân quyền, Đảng đoàn Quốc hội cũng đã đưa ra
kiến nghị về việc thành lập Ủy ban Dân nguyện.
Vì vậy, Dự thảo Luật tiếp cận thông tin quy định tại khoản 1 Điều 37: “Quốc hội giao cho một cơ quan của Quốc hội giám sát việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin”.
Theo phương án này, thì Chính phủ phải có cơ chế theo
dõi, đánh giá riêng để báo cáo chung trước Quốc hội và cần giao cho một
cơ quan của Chính phủ đảm trách nhiệm vụ này. Các cơ quan của Chính phủ
có thể được đưa vào danh sách cân nhắc lựa chọn là Thanh tra Chính phủ,
Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và Bộ Thông tin – Truyền thông. Mỗi cơ quan nêu
trên đều có những lợi thế riêng trong việc thi hành Luật nhưng do hạn
chế về thẩm quyền riêng, có chức năng riêng mà không có đầy đủ thẩm
quyền so với một cơ quan độc lập như của một số nước. Thanh tra Chính
phủ quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại; Bộ Tư
pháp có trách nhiệm theo dõi, đánh giá chung về công tác thi hành pháp
luật, chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong lĩnh vực pháp luật về bảo
đảm quyền công dân; Bộ Nội vụ quản lý công tác lưu trữ hồ sơ, tài liệu
và cán bộ, công chức, giúp Chính phủ theo dõi, thống nhất việc thực hiện
chủ trương cải cách hành chính; Bộ Thông tin – Truyền thông phụ trách
lĩnh vực báo chí, phát thanh và truyền hình, công nghệ thông tin, điện
tử…
Sau khi cân nhắc, Bộ Tư pháp thấy rằng, việc giao cho
bộ nào của Chính phủ giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước
về công tác bảo đảm quyền tiếp cận thông tin là vấn đề lớn, vì vậy, Bộ
Tư pháp thiết kế ba phương án trong Dự thảo Luật để Chính phủ quyết
định.
Trên đây là những nội dung chính liên quan đến Dự
thảo Luật tiếp cận thông tin, Bộ Tư pháp trình Chính phủ xem xét, quyết
định./.
Nơi nhận: - Các thành viên Chính phủ; - Văn phòng Chính phủ; - Lưu: VT, Vụ PLHS-HC (3b). |
BỘ TRƯỞNG Hà Hùng Cường |
[1] Khoản 2 Điều 19 của Tuyên ngôn thế
giới về quyền con người quy định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn
luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông
tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng
miệng, bằng bản viết, in hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất
kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ".
[2]Trên thế giới, tính đến năm 2009, đã
có 86 nước ban hành Luật về quyền tiếp cận thông tin, nước đầu tiên ban
hành Luật liên quan đến quyền tiếp cận thông tin là Thụy Điển (năm
1766), sau đó một số nước khác cũng có đạo luật riêng như Mỹ ban hành
luật Tự do thông tin (năm 1966), Canada (1983), Hungary (1992), Anh
(2000), Nam Phi (2000),… Ở châu Á, một số nước đã ban hành Luật này như
Thái Lan (12-1997), Hàn Quốc (1-1998), Nhật Bản (4-2001), Ấn Độ (2005),
Inđônêxia,… Một số quốc gia khác cũng đang trong quá trình chuẩn bị ban
hành luật này hoặc ban hành các nghị định riêng để điều chỉnh về vấn đề
này.
[3] Báo cáo tự do thông tin thế giới năm
2006 của Tổ chức Privacy International cho biết, tại Vương quốc Anh,
77% đơn khiếu nại theo trình tự khiếu nại nội bộ trong hệ thống hành
chính bị từ chối trong năm 2005.
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP
0 comments:
Post a Comment