Đại hội đồng Liên hợp quốc,
Căn cứ Nghị quyết 56/168 ra ngày 19/12/2001
của Liên hợp quốc quyết định thành lập Uỷ ban đặc biệt để soạn thảo Công
ước quốc tế toàn diện và lồng ghép nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền và
nhân phẩm của người khuyết tật, để ngỏ cho tất cả các quốc gia thành
viên và các quan sát viên của Liên hợp quốc, dựa trên phương pháp tiếp
cận toàn diện từ các hoạt động trong các lĩnh vực phát triển xã hội,
nhân quyền và chống phân biệt đối xử đã được thực hiện và có tính đến
các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền và Ủy ban Phát triển xã hội,
Căn cứ các Nghị quyết có liên quan trước đây
của Liên hợp quốc và Nghị quyết gần đây nhất là Nghị quyết 60/232 ra
ngày 23/12/2005 và các Nghị quyết có liên quan của Ủy ban Phát triển xã
hội và Ủy ban Nhân quyền,
Hoan nghênh những đóng góp quý báu của các
tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các viện nghiên cứu
nhân quyền của các quốc gia cho các hoạt động của Uỷ ban đặc biệt,
1. Bày tỏ sự đánh giá cao của Liên hợp quốc
đối với những nỗ lực của Uỷ ban đặc biệt để hoàn thiện Dự thảo Công ước
quốc tế về người khuyết tật và Dự thảo Nghị định thư không bắt buộc của
Công ước;
2. Thông qua Công ước quốc tế về Quyền của
người khuyết tật và Nghị định thư không bắt buộc của Công ước đính kèm
với Nghị quyết này sẽ được để ngỏ cho các quốc gia thành viên của Liên
hợp quốc tham gia ký kết tại trụ sở chính của Liên hợp quốc tại New York
từ ngày 30/03/2007;
3. Kêu gọi các quốc gia thành viên của Liên
hợp quốc xem xét việc ký kết và phê chuẩn Công ước và Nghị định thư
không bắt buộc như là một trong những vấn đề ưu tiên, và bày tỏ hi vọng
Công ước và Nghị định thư sẽ sớm có hiệu lực vào thời gian sớm nhất;
4. Đề nghị Tổng thư ký Liên hợp quốc bổ
nhiệm nhân sự và cung cấp các trang thiết bị vật chất cần thiết cho việc
thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của Hội nghị các Quốc gia thành viên
của Công ước và Ủy ban được thành lập trong khuôn khổ Công ước và Nghị
định thư không bắt buộc sau khi Công ước có hiệu lực, cũng như việc
tuyên truyền về Công ước và Nghị định thư;
5. Đồng thời đề nghị Tổng thư ký Liên hợp
quốc từng bước tiến hành áp dụng các tiêu chuẩn và hướng dẫn về tiếp cận
để đảm bảo các trang thiết bị và dịch vụ tiếp cận được trong toàn hệ
thống Liên hợp quốc, có xem xét đến các điều khoản có liên quan trong
Công ước, đặc biệt là khi tiến hành cải tạo;
6. Đề nghị các cơ quan và tổ chức của Liên
hợp quốc, cũng như các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ
cùng nỗ lực thực hiện công tác truyền thông về Công ước và Nghị định
thư, và thúc đẩy sự hiểu biết về Công ước và Nghị định thư;
7. Đề nghị Tổng thư ký Liên hợp quốc trình
báo cáo trước Đại hội đồng Liên hợp quốc tại phiên họp lần thứ 62 về
tiến trình phê chuẩn Công ước và Nghị định thư và việc thực hiện Nghị
quyết này với tiêu đề ”Công ước về Quyền của người khuyết tật”.
PHỤ LỤC I
CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
LỜI NÓI ĐẦU
Các Quốc gia thành viên gia nhập Công ước này,
(a) Nhắc lại các nguyên tắc được tuyên bố
tại Hiến chương của Liên Hợp Quốc công nhận phẩm giá và giá trị vốn có,
quyền bình đẳng và bất di bất dịch của tất cả các thành viên trong gia
đình nhân loại như một nền tảng của tự do, công bằng và hoà bình trên
thế giới,
(b) Thừa nhận rằng Liên hợp quốc, trong Bản
tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền, và trong các Công ước quốc tế về Nhân
quyền, đã tuyên bố và thống nhất rằng mọi người đều được hưởng tất cả
các quyền và sự tự do được ghi trong các Công ước mà không có bất kỳ sự
biệt nào,
(c) Tái khẳng định rằng tính phổ
biến, khả năng không thể chia cắt, sự phụ thuộc lẫn nhau và sự tương
quan giữa quyền con người và các quyền tự do cơ bản, và nhu cầu của
người khuyết tật phải được đảm bảo thụ hưởng một cách đầy đủ và không có
bất kỳ sự phân biệt đối xử,
(d) Nhắc lại các Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hoá, Công ước quốc tế về xoá bỏ phân biệt
chủng tộc dưới mọi hình thức, Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và
chính trị, Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ, Công ước quốc tế chống lại sự tra tấn, sự đối xử, áp dụng hình
phạt một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc bị nhục hình, Công ước quốc tế
về Quyền trẻ em, Công ước quốc tế về bảo hộ quyền của người người lao
động nhập cư và gia đình họ,
(e) Thừa nhận rằng khuyết tật là một khái
niệm mới và rằng khuyết tật là kết quả của sự tương tác giữa những người
có khiếm khuyết và những rào cản về thái độ và môi trường mà ở đó hạn
chế sự tham gia một cách đầy đủ, và có hiệu quả vào các hoạt động trên
cơ sở bình đẳng với các thành viên khác trong xã hội,
(f) Thừa nhận rằng tầm quan trọng của các
nguyên tắc và chính sách được đề cập trong Chương trình Hành động Thế
giới về Người khuyết tật và Quy tắc chuẩn về Bình đẳng hoá Cơ hội cho
Người khuyết tật trong việc tác động quá trình thúc đẩy, xây dựng và
đánh giá các chính sách, kế hoạch, chương trình và hành động ở cấp quốc
gia, cấp khu vực và cấp quốc tế nhằm bình đẳng hoá hơn nữa cơ hội cho
người khuyết tật,
(g) Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lồng ghép vấn đề khuyết tật như là một phần không thể tách rời của các chiến lược phát triển bền vững,
(h) Thừa nhận rằng sự phân biệt đối
xử đối với bất kỳ một người nào căn cứ trên sự khuyết tật của họ đều là
sự xâm hại đến nhân phẩm và chân giá trị vốn có của con người,
(i) Thừa nhận sự đa dạng của các dạng tật khác nhau của người khuyết tật,
(j) Nhận thấy sự cần thiết phải thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền của tất cả người khuyết tật, kể cả những người cần có sự hỗ trợ chuyên sâu hơn,
(k) Lo ngại rằng, mặc dù đã có rẩt nhiều văn
kiện pháp lý và những biện pháp đã được thực hiện, nhưng người khuyết
tật vẫn tiếp tục phải đối mặt với những rào cản khi tham gia một cách
bình đẳng như những thành viên khác trong xã hội và sự vi phạm nhân
quyền của người khuyết tật diễn ra ở khắp nơi trên thế giới,
(l) Nhận thấy tầm quan trọng của hợp tác
quốc tế trong việc cải thiện điều kiện sống cho người khuyết tật ở mỗi
quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển,
(m) Ghi nhận những đóng
góp hiện tại và tiềm năng có giá trị mà người khuyết tật đã cống hiến
cho sự thịnh vượng và đa dạng của cộng đồng họ, và rằng nhận thức của
người khuyết tật được nâng cao về việc mình thuộc về xã hội và những
tiến bộ quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và con
người và quá trình xóa đói nghèo là kết quả của việc thúc đẩy cơ hội
được hưởng thụ đầy đủ quyền con người, các quyền tự do cơ bản, và sự
tham gia của người khuyết tật,
(n) Thừa nhận tầm quan trọng của
việc để người khuyết tật độc lập và tự quyết các vấn đề cá nhân của họ
kể cả sự tự do lựa chọn cho riêng mình,
(o) Xem xét rằng người khuyết tật cần phải
có cơ hội được chủ động tham gia trong quá trình ra quyết định về chính
sách, về các chương trình, kể cả các chương trình có liên quan trực tiếp
đến họ.
(p) Lo ngại về những điều kiện khó khăn mà
người khuyết tật đang gặp phải bao gồm những hình thức phân biệt đối xử
về chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, giới tính, chính kiến chính
trị và các quan niệm khác, địa vị quốc gia, nguồn gốc dân tộc, nguồn gốc
xã hội, tài sản, dòng dõi, tuổi tác, hay các điều kiện khác,
(q) Thừa nhận rằng phụ nữ và trẻ em gái
khuyết tật thường phải chịu những rủi ro lớn hơn cả trong gia đình và
ngoài xã hội như bạo hành gia đình, bị thương tích hay bị lạm dụng, bị
đối xử thờ ơ, bị ngược đãi hay bị bóc lột,
(r) Thừa nhận rằng trẻ em khuyết tật cần được tận hưởng đầy đủ quyền con người, quyền tự do cơ bản công bằng như những trẻ em bình thường khác, và nhắc lại trách nhiệm mà các quốc gia thành viên tham gia Công ước quốc tế về Quyền Trẻ em phải thực hiện,
(s) Nhấn mạnh yêu cầu lồng ghép giới vào tất
cả các nỗ lực nhằm đẩy mạnh sự thụ hưởng đầy đủ quyền con người và tự
do cơ bản của người khuyết tật,
(t) Nhấn mạnh một thực tế là phần lớn người khuyết tật sống trong điều kiện nghèo đói, và do vậy nhận thấy nhu cầu cấp thiết phải giải quyết những tác động tiêu cực của nghèo đói đối với người khuyết tật,
(u) Ghi nhớ rằng các điều kiện hoà bình và
an ninh dựa trên sự tôn trọng đầy đủ các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến
chương Liên Hợp Quốc và sự tuân thủ các văn kiện về nhân quyền thích
hợp là không thể thiếu nhằm bảo vệ người khuyết tật một cách đầy đủ, đặc
biệt là trong các cuộc xung đột vũ trang và trong điều kiện có sự chiếm
đóng của nước ngoài,
(v) Nhận thấy tầm quan trọng của việc tiếp
cận đối với người khuyết tật trong môi trường vật chất, kinh tế, văn
hoá, xã hội, tiếp cận với giáo dục, y tế, thông tin và truyền thông,
nhằm hỗ trợ người khuyết tật được hưởng quyền con người và các quyền tự
do cơ bản một cách đầy đủ,
(w) Nhận thấy rằng mỗi cá nhân, có trách
nhiệm đối với các cá nhân khác và với cộng đồng của chính họ, đều phải
có trách nhiệm nỗ lực thúc đẩy và tuân thủ các quyền được công nhận
trong Luật quốc tế về nhân quyền.
(x) Thừa nhận rằng gia đình là đơn vị tự
nhiên và cơ bản của xã hội và cần được nhà nước và xã hội bảo hộ, người
khuyết tật và các thành viên gia đình của họ cũng phải được bảo vệ và có
được sự trợ giúp cần thiết để đảm bảo gia đình của họ có những đóng góp
cho sự hưởng thụ đầy đủ và công bằng về quyền của người khuyết tật,
(y) Công nhận rằng một Công ước quốc tế toàn
diện và đầy đủ nhằm thúc đẩy và bảo hộ Quyền và Nhân phẩm của người
khuyết tật sẽ góp phần đáng kể trong công tác giải quyết những bất lợi
sâu sắc về mặt xã hội mà người khuyết tật phải gánh chịu và thúc đẩy sự
tham gia của họ trong mọi lĩnh vực văn hoá, xã hội, chính trị, kinh tế,
dân sự với những cơ hội bình đẳng, ở cả các nước phát triển và đang phát
triển,
Đã thống nhất những điều sau đây:
ĐIỀU 1 – MỤC ĐÍCH
Mục đích của Công ước này là thúc đẩy, bảo hộ và đảm
bảo người khuyết tật được hưởng thụ một cách đầy đủ và bình đẳng quyền
con người và các quyền tự do cơ bản và nâng cao sự tôn trọng nhân phẩm
vốn có của người khuyết tật.
Người khuyết tật bao gồm những người có những khiếm
khuyết lâu dài về thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc giác quan mà khi
tương tác với các rào cản khác nhau có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và
hiệu quả của họ trong xã hội trên một nền tảng công bằng như những
người khác trong xã hội.
ĐIỀU 2 – CÁC ĐỊNH NGHĨA
Để phù hợp với Công ước này:
“Truyền thông” bao gồm ngôn ngữ, trình bày dưới
dạng văn bản, chữ nổi Braille, thông tin dưới dạng xúc giác, in ấn cỡ
lớn, truyền thông đa phương tiện tiếp cận, cũng như các hình thức văn
bản, nói, ngôn ngữ đơn giản, hình thức người đọc giúp, và các hình thức
thay thế khác, phương tiện và kiểu mẫu truyền thông bao gồm công nghệ
thông tin và truyền thông tiếp cận;
“Ngôn ngữ” bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ ký hiệu và các dạng giao tiếp phi ngôn ngữ khác;
“Phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật” có nghĩa
là bất cứ sự phân biệt, sự loại trừ, sự hạn chế nào vì lý do khuyết tật
mà có chủ ý hoặc có tác động làm phương hại hoặc vô hiệu hoá sự nhận
thức, sự hưởng thụ, và việc thực hiện quyền con người và các quyền tự do
cơ bản trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và dân sự
hay bất kỳ lĩnh vực nào khác trên cơ sở công bằng với các thành viên
khác trong xã hội. Điều này bao gồm tất cả các hình thức phân biệt đối
xử, kể cả việc từ chối đưa ra những điều chỉnh hợp lý;
“Điếu chỉnh hợp lý” có nghĩa là sự điều chỉnh
và sửa đổi cần thiết và phù hợp mà không tạo ra một gánh nặng quá sức
hay bất cân đối, ở những nơi cần thiết trong những trường hợp cụ thể, để
đảm bảo người khuyết tật có thể thụ hưởng hay thực hiện quyền con người
và các quyền tự do cơ bản trên cơ sở bình đẳng như những người bình
thường khác;
“Thiết kế hoà nhập” có nghĩa là việc thiết kế
các sản phẩm, môi trường xung quanh, các chương trình và dịch vụ mà tất
cả mọi người đều có thể sử dụng được ở mức độ tối đa mà không cần phải
tính đến việc nâng cấp sửa chữa hay những thiết kế đặc biệt cho nhu cầu
tiếp cận. "Thiết kế hoà nhập" bao gồm cả các thiết bị trợ giúp cho những
nhóm người khuyết tật cụ thể khi có nhu cầu.
ĐIỀU 3 – CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG
Nguyên tắc của Công ước này bao gồm:
(a) Tôn trọng phẩm giá vốn có, quyền tự quyết cá nhân
bao gồm tự do lựa chọn cho riêng mình, và khả năng độc lập của các cá
nhân;
(b) Không phân biệt đối xử;
(c) Tham gia đầy đủ và hiệu quả và hoà nhập xã hội;
(d) Tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận người khuyết tật như một phần của nhân loại và sự đa dạng của con người,
(e) Bình đẳng trong cơ hội;
(f) Khả năng tiếp cận;
(g) Bình đẳng giữa nam và nữ;
(h) Tôn trọng khả năng phát triển của trẻ em khuyết
tật và tôn trọng quyền của trẻ em khuyết tật trong việc bảo tồn bản sắc
của các em.
ĐIỀU 4 – CÁC TRÁCH NHIỆM CHUNG
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
đảm bảo và thúc đẩy việc thực hiện đầy đủ các quyền con người và quyền
tự do cơ bản của người khuyết tật mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử
nào vì lý do khuyết tật. Để đạt được điều này, các Quốc gia thành viên
của Công ước này cam kết:
(a) Thực hiện tất cả các biện pháp hành chính, lập
pháp và các biện pháp khác để thực hiện các quyền được công nhận trong
Công ước này;
(b) Sử dụng các biện pháp phù hợp kể cả lập pháp để
sửa đổi hoặc hủy bỏ các đạo luật, quy định, phong tục tập quán và thông
lệ chứa đựng các nội dung mang tính phân biệt đối xử đối với người
khuyết tật;
(c) Đưa việc bảo hộ và nâng cao quyền của người khuyết tật vào tất cả các chính sách và chương trình;
(d) Không thực hiện hay áp dụng những hành động hay
biện pháp không phù hợp với Công ước này và đảm bảo các thể chế hay tổ
chức quyền lực công hành động theo Công ước này;
(e) Áp dụng tất cả các biện pháp phù hợp để xoá bỏ sự
phân biệt đối xử của các cá nhân, tổ chức hay doanh nghiệp đối với
người khuyết tật;
(f) Thực hiện hay thúc đẩy việc nghiên cứu và phát
triển các phương tiện, dịch vụ, hàng hoá, trang thiết bị được thiết kế
phổ cập theo quy định tại Điều 2 của Công ước này yêu cầu các phương án
nâng cấp hay sửa chữa tối thiểu có thể với chi phí ít tốn kém nhất để
đáp ứng những nhu cầu cụ thể của người khuyết tật, thúc đẩy sự sẵn có và
tính năng sử dụng của các phương tiện, dịch vụ, hàng hoá, trang thiết
bị này, và thúc đẩy thiết kế phổ cập trong việc xây dựng các hướng dẫn
hay tiêu chuẩn tiếp cận;
(g) Thực hiện hay thúc đẩy việc nghiên cứu và phát
triển của công nghệ mới, bao gồm công nghệ thông tin và truyền thông,
các thiết bị trợ giúp vận động, các thiết bị và công nghệ trợ giúp phù
hợp với người khuyết tật, thúc đẩy sự sẵn có và tính năng sử dụng của
các phương tiện này, và đưa ra những ưu tiên cho công nghệ ở mức chi phí
hợp lý; (h) Cung cấp các thông tin có thể tiếp cận được cho người
khuyết tật về các thiết bị hỗ trợ vận động, và công nghệ và thiết bị trợ
giúp bao gồm cả công nghệ mới, cũng như các dạng hỗ trợ, các dịch vụ và
trang thiết bị hỗ trợ khác;
(i) Thúc đẩy tập huấn cho các cán bộ và nhân việc làm
việc với người khuyết tật về các quyền được thừa nhận trong Công ước
này nhằm cung cấp tốt hơn sự hỗ trợ và các dịch vụ được đảm bảo bởi các
quyền đã nêu trong Công ước.
2. Đối với các quyền về văn hoá, xã hội, kinh tế, mỗi
Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thực hiện các biện để tận
dụng các nguồn lực sẵn có khi cần thiết và để đạt được việc thực hiện
các quyền được công nhận trong Công ước một cách có hiệu quả trong khuôn
khổ hợp tác quốc tế và không có định kiến với những nguyên tắc được đề
cập trong Công ước này mà được áp dụng ngay lập tức theo luật pháp quốc
tế.
3. Khi xây dựng và thực thi luật pháp và chính sách
để thực hiện các điều khoản của Công ước này và trong các quá trình đưa
ra quyết định khác có liên quan đến các vấn đề về người khuyết tật, các
Quốc gia thành viên của Công ước cần phải tham vấn một cách sát sao và
chủ động làm việc với người khuyết tật, kể cả trẻ em khuyết tật và các
tổ chức đại diện của người khuyết tật.
4. Không có nội dung nào trong Công ước này có ảnh
hưởng đến các điều khoản công nhận quyền của người khuyết tật và các
điều khoản được quy định trong pháp luật của một Quốc gia thành viên của
Công ước này hoặc luật pháp quốc tế mà Quốc gia đó gia nhập. Không có
sự giới hạn hay vi phạm nào đối với các quyền con người và các quyền tự
do cơ bản đã được công nhận hoặc hiện có ở một Quốc gia thành viên tham
gia Công ước này căn cứ trên cơ sở luật pháp, các công ước, các quy định
hoặc phong tục tập quán với lý do Công ước này không công nhận các
quyền con người và các quyền tự do cơ bản hoặc công nhận chúng trong
phạm vi hẹp hơn.
5. Các điều khoản của Công ước này sẽ mở rộng ra khắp cả các nước mà không có bất kỳ sự hạn chế hay ngoại trừ nào.
ĐIỀU 5 – BÌNH ĐẲNG VÀ KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận
tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và trong khuôn khổ pháp
luật và được pháp luật bảo hộ và được hưởng những lợi ích của pháp luật
một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
nghiêm cấm tất cả các hành vi phân biệt đối xử đối vì lý do khuyết tật
và đảm bảo người khuyết tật được bảo hộ tích cực bằng luật pháp khỏi sự
phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do nào.
3. Để thúc đẩy sự công công bằng và xoá bỏ sự phân
biệt đối xử, các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thực hiện
tất cả các biện pháp phù hợp để đảm bảo có sự điều chỉnh hợp lý.
4. Các biện pháp cụ thể cần thiết để xúc tiến hoặc
đạt được sự công bằng trên thực tế của người khuyết tật sẽ không bị coi
là sự phân biệt đối xử theo các thuật ngữ của Công ước này.
ĐIỀU 6 – PHỤ NỮ KHUYẾT TẬT
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận
rằng phụ nữ và trẻ em gái khuyết tật phải chịu sự phân biệt đối xử gấp
nhiều lần, và do vậy cần phải có những biện pháp để đảm bảo phụ nữ và
trẻ em gái khuyết tật được hưởng đầy đủ và công bằng quyền con người và
các quyền tự do cơ bản.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
thực hiện những biện pháp phù hợp để đảm bảo cho sự phát triển, tiến bộ
và nâng cao vị thế của phụ nữ, với mục đích đảm bảo cho họ được thực
hiện và thụ hưởng một cách đầy đủ quyền con người và các quyền tự do cơ
bản được quy định trong Công ước này.
ĐIỀU 7 – TRẺ EM KHUYẾT TẬT
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
thực hiện những biện pháp cần thiết để đảm bảo trẻ em khuyết tật được
thụ hưởng đầy đủ quyền con người và các quyền tự do cơ bản như những trẻ
em khác.
2. Trong tất cả các hoạt động có liên quan đến trẻ em
khuyết tật, thì những lợi ích tối ưu nhất của một trẻ khuyết tật phải
được quan tâm hàng đầu.
3. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
đảm bảo trẻ em khuyết tật có quyền tự do bày tỏ ý kiến của mình về tất
cả các vấn đề có liên quan đến các em, quan điểm của các em sẽ được xem
xét một cách thích đáng phù hợp với lứa tuổi và sự chín chắn của các em,
giống như những trẻ em khác, và sẽ có được những hỗ trợ phù hợp với lứa
tuổi và tình trạng khuyết tật để có thể thực hiện được quyền đó.
ĐIỀU 8 – NÂNG CAO NHẬN THỨC
1. Các quốc gia triển khai áp dụng các biện pháp phù hợp, hiệu quả và ngay lập tức nhằm:
(a) Nâng cao nhận thức về người khuyết tật cho toàn
xã hội, bao gồm cả gia đình của người khuyết tật, và thúc đẩy sự tôn
trọng về quyền và nhân phẩm của người khuyết tật
(b) Chống lại các quan niệm cố hữu, những định kiến,
và những thông lệ không tốt bao gồm cả những vấn đề như vậy có liên
quan đến giới tính, tuổi tác và tất cả các lĩnh vực khác của cuộc sống
mà có liên quan đến người khuyết tật;
(c) Nâng cao nhận thức về năng lực và những đóng góp của người khuyết tật.
2. Các biện pháp thực hiện bao gồm:
(a) Khởi sướng và duy trì các chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức hiệu quả cho đông đảo người dân nhằm:
(i) Khuyến khích sự hiểu biết về quyền của người khuyết tật;
(ii) Thúc đẩy những quan điểm tích cực và nhận thức xã hội rộng hơn về người khuyết tật;
(iii) Thúc đẩy việc ghi nhận các kỹ năng, phẩm chất
và năng lực của người khuyết tật và những đóng góp của họ cho nơi làm
việc và thị trường lao động;
(b) Khuyến khích thái độ tôn trọng quyền của người
khuyết tật ở tất cả các cấp trong hệ thống giáo dục, bao gồm cả trẻ em ở
mọi lứa tuổi;
(c) Khuyến khích các cơ quan báo chí nêu gương người khuyết tật với thái độ thống nhất với mục đích của Công ước này;
(d) Thúc đẩy các chương trình tập huấn nâng cao nhận thức về người khuyết tật và quyền của người khuyết tật.
ĐIỀU 9 – KHẢ NĂNG TIẾP CẬN
1. Nhằm hỗ trợ người khuyết tật sống độc lập và tham
gia đầy đủ trên mọi lĩnh vực của đời sống, các Quốc gia thành viên của
Công ước này cam kết thực hiện các biện pháp phù hợp để đảm bảo người
khuyết tật có thể tiếp cận với môi trường vật chất, giao thông, thông
tin và truyền thông bao gồm các hệ thống và công nghệ công nghệ thông
tin và truyền thông và các trang thiết bị và dịch vụ khác được mở ra hay
cung cấp cho công chúng cả vùng nông thôn và đô thị một cách bình
đẳng. Những biện pháp này bao gồm cả việc xác định và loại bỏ tất cả
những trở ngại, rào cản tới môi trường tiếp cận được cam kết áp dụng
cho, chưa kể đến các biện pháp khác:
(a) Các toà nhà, đường xá, giao thông và các trang
thiết bị trong và ngoài các công trình bao gồm trường học, nhà ở, các cơ
sở y tế và nơi làm việc;
(b) Thông tin, truyền thông và các dịch vụ khác bao gồm các dịch vụ điện tử và các dịch vụ khẩn cấp
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết áp dụng các biện pháp phù hợp để:
(a) Xây dựng, ban hành và giám sát việc thực hiện các
tiêu chuẩn và hướng dẫn về khả năng tiếp cận của các trang thiết bị và
dịch vụ được mở ra hoặc cung cấp cho công chúng;
(b) Đảm bảo các đơn vị tư nhân cung cấp trang thiết
bị và dịch vụ mở cửa với hoặc cung cấp cho công chúng phải tính đến tất
cả các yếu tố tiếp cận cho người khuyết tật;
(c) Tổ chức tập huấn cho các bên liên quan về các vấn đề tiếp cận mà người khuyết tật gặp phải;
(d) Trang bị các biển báo cho các toà nhà và công
trình khác được mở cửa cho cho công chúng bằng chữ nổi Braille và phải
dễ đọc, dễ hiểu;
(e) Cung cấp các phương tiện và các hình thức hỗ trợ
cá nhân như các hướng dẫn viên, người đọc giúp, phiên dịch viên ngôn ngữ
ký hiệu chuyên nghiệp, đưa vấn đề tiếp cận vào các toà nhà và các công
trình khác được mở cửa cho công chúng;
(f) Thúc đẩy các hình thức hỗ trợ khác cho người khuyết tật để họ có thể tiếp cận được thông tin;
(g) Đẩy mạnh khả năng tiếp cận cho người khuyết tật tới công nghệ thông tin và truyền thông mới bao gồm cả Internet;
(h) Thúc đẩy việc thiết kế, phát triển, sản xuất và
phân phối các hệ thống và công nghệ thông tin và truyền thông tiếp cận
ngay từ giai đoạn bắt đầu để các công nghệ và hệ thống này tiếp cận được
với mức chi phí tối thiểu.
ĐIỀU 10 – QUYỀN ĐƯỢC SỐNG
Các Quốc gia thành viên của Công ước này tái khẳng
định rằng mỗi con người đều có quyền vốn có của mình là được sống và cam
kết thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết đảm bảo người khuyết tật
được hưởng quyền được sống trên cơ sở bình đẳng như những người khác.
ĐIỀU 11 – TÌNH TRẠNG NGUY HIẺM RỦI RO VÀ TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP CẦN TRỢ GIÚP NHÂN ĐẠO
Các Quốc gia thành viên của Công ước này, trên cơ sở
các nghĩa vụ của các quốc gia này với luật pháp quốc tế bao gồm: luật
nhân đạo quốc tế và luật về nhân quyền quốc tế, cam kết áp dụng tất cả
các biện pháp cần thiết để đảm bảo sự an toàn và bảo hộ người khuyết tật
trong tình trạng nguy hiểm rủi ro bao gồm xung đột vũ trang, tình trạng
khẩn cấp cần trợ giúp nhân đạo và thiên tai.
ĐIỀU 12 – ĐƯỢC THỪA NHẬN BÌNH BẰNG TRƯỚC PHÁP LUẬT
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này tái khẳng
định rằng người khuyết tật có quyền được công nhận là thể nhân trước
pháp luật ở bất kỳ nơi nào.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận
người khuyết tật có được hưởng năng lực pháp lý trong tất cả các mặt
của cuộc sống trên cơ sở bình đẳng như những người khác.
3. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
thực hiện những biện pháp phù hợp để tạo sự tiếp cận cho người khuyết
tật đối với những hỗ trợ pháp lý mà họ cần khi thực hiện năng lực pháp
lý.
4. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
đảm bảo rằng tất cả các biện pháp có liên quan đến việc thực hiện năng
lực pháp lý quy định các cách thức bảo hộ phù hợp và có hiệu quả nhằm
ngăn ngừa sự lạm dụng theo đúng các quy định của luật nhân quyền quốc
tế. Các cách thức bảo hộ như vậy phải đảm bảo rằng các biện pháp liên
quan đến việc thực hiện năng lực pháp lý phải tôn trọng các quyền, ý chí
và sở thích của một cá nhân; phải không xung đột về quyền lợi và không
có ảnh hưởng một cách thái quá; phải tương xứng và thích ứng với các
điều kiện của cá nhân đó; phải áp dụng trong một khoảng thời gian ngắn
nhất có thể; và phải được một cơ quan độc lập, trung lập và có thẩm
quyền, hoặc cơ quan tư pháp đánh giá thường xuyên. Các cách thức bảo hộ
đó phải tương xứng đến một mức độ mà các biện pháp có liên quan đến việc
thực hiện năng lực pháp lý có thể tác động đến quyền và lợi ích của các
nhân đó.
5. Theo các khoản được ghi trong trong Điều 12 thì
các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thực hiện những biện
pháp phù hợp và hiệu quả để đảm bảo quyền bình đẳng của người khuyết tật
trong việc sở hữu hay thừa kế tài sản, kiểm soát vấn đề tài chính của
bản thân họ, và tiếp cận một cách bình đẳng với các khoản cho vay của
ngân hàng, các khoản thế chấp và các loại hình tín dụng khác, và để đảm
bảo người khuyết tật không bị tịch thu tài sản một cách vô cớ.
ĐIỀU 13 – TIẾP CẬN CÁC DỊCH VỤ TƯ PHÁP
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
đảm bảo khả năng tiếp cận có hiệu quả đối với các dịch vụ tư pháp cho
người khuyết tật bao gồm thông qua việc cung cấp các điều chỉnh về thủ
tục tố tụng và phù hợp với lứa tuổi, trên cơ sở bình đẳng như những
người khác, nhằm hỗ trợ người khuyết tật có vai trò hiệu quả hơn với tư
cách là người tham gia trực tiếp và gián tiếp bao gồm cả việc làm nhân
chứng trong tất cả các vụ kiện tính từ giai đoạn điều tra sơ bộ cho đến
các giai đoạn sau.
2. Nhằm giúp đảm bảo khả năng tiếp cận có hiệu quả
đối với các dịch vụ tư pháp cho người khuyết tật, các Quốc gia thành
viên của Công ước này cam kết thúc đẩy việc triển khai các khoá tập huấn
phù hợp cho những người làm việc trong lĩnh vực tư pháp bao gồm cảnh
sát và cán bộ quản giáo.
ĐIỀU 14 – TỰ DO VÀ AN NINH CÁ NHÂN
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết đảm bảo rằng người khuyết tật, trên cơ sở bình đẳng như những người khác:
(a) Thụ hưởng quyền tự do và an ninh cá nhân;
(b) Không bị tước quyền tự do một cách vô cớ hay bất
hợp pháp, và rằng bất kỳ một sự tước đoạt quyền tự do nào đều phải phù
hợp với Công ước này, và rằng việc có khuyết tật trong bất cứ trường hợp
nào không thể biện minh cho việc tước quyền tự do.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
đảm bảo rằng nếu người khuyết tật bị tước đoạt quyền tự do ở bất cứ tiến
trình nào, thì họ có quyền được bảo hộ theo luật nhân quyền quốc tế
trên cơ sở bình đẳng như những người khác, và phải được đối xử theo các
mục tiêu và nguyên tắc của Công ước này bao gồm những quy định về điều
chỉnh hợp lý.
ĐIỀU 15 – KHÔNG BỊ TRA TẤN, BỊ ĐỐI XỬ, BỊ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT MỘT CÁCH TÀN NHẪN, VÔ NHÂN ĐẠO HOẶC BỊ NHỤC HÌNH
1. Không một người nào không bị tra tấn, bị đối xử,
bị áp dụng hình phạt một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc bị nhục hình.
Đặc biệt, không một người nào phải làm vật thí nghiệm của các thử nghiệm
khoa học hay y học nếu không có sự cho phép của chính người đó.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
áp dụng các biện pháp lập pháp, hành chính, và tư pháp có hiệu quả và
các biện pháp khác để bảo vệ người khuyết tật khỏi bị tra tấn, bị đối
xử, bị áp dụng hình phạt một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc bị nhục
hình, trên cơ sở bình đẳng như những người khác.
ĐIỀU 16 – KHÔNG BỊ BÓC LỘT, KHÔNG BỊ BẠO HÀNH VÀ KHÔNG BỊ LẠM DỤNG
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
thực hiện những biện pháp về lập pháp, hành chính, xã hội, giáo dục phù
hợp và các biện pháp khác để bảo hộ người khuyết tật, cả ở trong gia
đình và ngoài xã hội, khỏi các hình thức bị bóc lột, bị bạo hành và bị
lạm dụng, kể cả những yếu tố có liên quan đến vấn đề giới.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
áp dụng các biện pháp phù hợp để ngăn chặn những hình thức bóc lột, bạo
hành và lạm dụng bằng cách đảm bảo, chưa kể đến các biện pháp khác, các
hình thức hỗ trợ và trợ giúp mang tính nhạy cảm về tuổi tác và nhạy cảm
về giới cho người khuyết tật, gia đình và những người chăm sóc của họ
bao gồm cả việc cung cấp thông tin và giáo dục về cách phòng tránh, nhận
biết và tố cáo các vụ việc bóc lột, bạo hành và lạm dụng. Các Quốc gia
thành viên của Công ước này cam kết đảm bảo rằng các công tác bảo hộ
phải mang tính nhạy cảm về giới, tuổi tác và khuyết tật
3. Để ngăn chặn sự xuất hiện của các hình thức bóc
lột, bạo hành và lạm dụng, các Quốc gia thành viên của Công ước này cam
kết đảm bảo rằng tất cả các phương tiện và chương trình được thiết kế
phục vụ người khuyết tật phải được một cơ quan độc lập giám sát một cách
hiệu quả.
4. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
thực hiện các biện pháp phù hợp để nâng cao khả năng phục hồi về mặt tâm
lý, nhận thức và thể chất, phục hồi chức năng và khả năng tái hoà nhập
xã hội của người khuyết tật, những người là nạn nhân của bất kỳ hình
thức bóc lột, bạo hành hay lạm dụngnào. Các biện pháp này phải bao gồm
cả việc cung cấp dịch vụ bảo hộ. Việc phục hồi chức năng và tái hoà nhập
nêu trên cần phải được thực hiện trong môi trường mà ở đó khuyến khích
chăm sóc sức khỏe, chăm lo đến hạnh phúc, khuyến khích lòng tự tôn, tôn
trọng phẩm giá và khả năng tự quyết của một cá nhân khuyết tật và có
tính đển nhu cầu cụ thể về giới và tuổi tác.
5. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
sử dụng các chính sách và pháp luật hiệu quả kể cả những chính sách và
luật pháp tập trung vào trẻ em và phụ nữ để đảm bảo rằng những trường
hợp bóc lột, lạm dụng và bạo hành đối với người khuyết tật được xác
minh, điều tra và truy tố nếu phù hợp.
ĐIỀU 17 – BẢO VỆ SỰ TOÀN VẸN CÁ NHÂN
Mỗi người khuyết tật đều có quyền được tôn trọng sự
toàn vẹn về mặt thể chất và trí lực của mình trên cơ sở bình đẳng như
những người khác.
ĐIỀU 18 – TỰ DO ĐI LẠI VÀ TỰ DO VỀ QUỐC TỊCH
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này công nhận
quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú và tự do lựa chọn quốc
tịch của người khuyết tật trên cơ sở bình đẳng như những người khác, kể
cả việc đảm bảo người khuyết tật:
(a) có quyền nhập và thay đổi quốc tịch và không bị tước quốc tịch một cách vô cớ hoặc với lý do là bị khuyết tật;
(b) không bị tước khả năng được cấp, được phép sở hữu
và sử dụng các văn bản giấy tờ chứng nhận quốc tịch hay giấy tờ chứng
minh nhân dân khác, hoặc khả năng sử dụng các văn bản giấy tờ có liên
quan như thủ tục xuất nhập cảnh cần thiết chỉ vì họ bị khuyết tật để hỗ
trợ việc thực hiện quyền tự do đi lại của người khuyết tật;
(c) được tự do rời khỏi một nước nước kể cả chính nước mình;
(d) không bị tước đoạt quyền quay trở lại chính nước mình một cách vô cớ hoặc với lý do là bị khuyết tật.
2. Trẻ em khuyết tật phải được đăng ký khai sinh ngay
sau khi được sinh ra, và có quyền được đặt tên từ khi sinh ra, có quyền
nhập quốc tịch và, , trong khả năng tối đa, có quyền được biết cha mẹ
mình là ai và được cha mẹ chăm sóc.
ĐIỀU 19 – SỐNG ĐỘC LẬP VÀ ĐƯỢC HOÀ NHẬP CỘNG ĐỒNG
Các Quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận
quyền bình đẳng của tất cả người khuyết tật được sống trong cộng đồng,
có sự lựa chọn bình đẳng như những người khác; và cam kết thực hiện
những biện pháp phù hợp và hiệu quả để hỗ trợ người khuyết tật được
hưởng quyền được sống trong cộng đồng cũng như được hòa nhập và tham gia
vào các hoạt động của cộng đồng một cách đầy đủ, bao gồm cả việc đảm
bảo rằng:
(a) người khuyết tật có cơ hội lựa chọn nơi cư trú
và lựa chọn người cùng chung sống trên cơ sở bình đẳng như những người
khác, và không phải sống theo sự sắp đặt đặc biệt nào.
(b) người khuyết tật được tiếp cận với các dịch vụ hỗ
trợ tại nhà, tại khu dân cư và tại cộng đồng kể cả sự trợ giúp cá nhân
cần thiết để có những hỗ trợ cần thiết cho cuộc sống và hoà nhập cộng
đồng, và để ngăn ngừa sự cô lập hoặc tách biệt với cộng đồng;
(c) Dịch vụ và trang thiết bị cộng đồng dành cho
người dân nói chung phải sẵn có trên cơ sở bình đẳng với người khuyết
tật và đáp ứng nhu cầu của người khuyết tật.
ĐIỀU 20 – DI CHUYỂN CÁ NHÂN
Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thực
hiện các biện pháp hiệu quả để đảm bảo sự di chuyển cá nhân ở mức độ
độc lập nhất có thể cho người khuyết tật, bao gồm:
(a) hỗ trợ khả năng di chuyển cá nhân của người khuyết tật theo cách và vào thời điểm mà họ lựa chọn, với chi phí hợp lý;
(b) hỗ trợ khả năng tiếp cận của người khuyết tật với
các phương tiện trợ giúp di chuyển có chất lượng, các trang thiết bị,
công nghệ trợ giúp, các phương tiện và các hình thức hỗ trợ cá nhân, và
bao gồm cả việc tạo ra sự dồi dào của các phương tiện ở chi phí hợp lý ;
(c) tổ chức tập huấn các kỹ năng di chuyển cho người khuyết tật và các chuyên gia làm việc hỗ trợ người khuyết tật.
(d) khuyến khích các đơn vị sản xuất dụng cụ và công
nghệ trợ giúp di chuyển quan tâm đến tất cả các khía cạnh và yếu tố di
chuyển cho người khuyết tật.
ĐIỀU 21 – TỰ DO BÀY TỎ Ý KIẾN, TỰ DO NGÔN LUẬN, VÀ TỰ DO TIẾP CẬN THÔNG TIN
Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thực
hiện tẩt cả các biện pháp phù hợp để đảm bảo rằng người khuyết tật có
thể thực hiện quyền tự do bày tỏ ý kiến và tự do ngôn luận kể cả quyền
tự do đưa tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin và quan điểm trên cơ
sở bình đẳng như những người khác, và bằng nhiều hình thức truyền thông
do họ lựa chọn, như đã được ghi trong Điều 2 của Công ước này, bao gồm:
(a) cung cấp thông tin hướng đến đại chúng cho người
khuyết tật dưới hình thức và công nghệ tiếp cận phù hợp với nhiều dạng
tật khác nhau vào đúng thời điểm mà không có chi phí phát sinh;
(b) thừa nhận và hỗ trợ việc sử dụng ngôn ngữ ký
hiệu, chữ nổi Braille, các hình thức truyền thông thay thế, và tất cả
các cách thức, các kiểu và các loại hình có thể sử dụng được của truyền
thông tiếp cận khác do người khuyết tật tự lựa chọn trong quá trình giao
tiếp chính thức;
(c) thúc giục các đơn vị tư nhân cung cấp dịch vụ cho
đại chúng, kể cả qua Internet, cung cấp thông tin và dịch vụ với hình
thức tiếp cận được và sử dụng được cho người khuyết tật;
(d) khuyến khích các phương tiện thông tin đại chúng,
kể cả nhà cung cấp thông tin qua Internet cung cấp các dịch vụ với hình
thức tiếp cận được cho người khuyết tật;
(e) Thừa nhận và thúc đẩy việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu.
ĐIỀU 22 – TÔN TRỌNG SỰ RIÊNG TƯ
1. Không một người khuyết tật nào, bất kể sinh sống ở
đâu hay đang sống nhờ vào sự giúp đỡ, phải chịu sự can thiệp vô cớ hay
bất hợp pháp đến đời tư, gia đình, nhà cửa hay thư tín, và các loại hình
trao đổi thông tin khác hoặc bị xúc phạm một cách bất hợp pháp đến danh
dự và hoặc uy tín cá nhân của người đó. Người khuyết tật có quyền được
pháp luật bảo hộ để chống lại những sự can thiệp hay xâm hại như vậy.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
bảo hộ sự riêng tư của các thông tin cá nhân, thông tin về tình trạng
sức khỏe, và về vấn đề phục hồi chức năng của người khuyết tật trên cơ
sở bình đẳng như những người khác.
ĐIỀU 23 – QUYỀN ĐƯỢC TÔN TRỌNG GIA ĐÌNH VÀ TỔ ẤM
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
thực hiện các biện pháp phù hợp và hiệu quả để xoá bỏ sự phân biệt đối
xử đối với người khuyết tật ở tất cả các vấn đề liên quan đến hôn nhân ,
gia đình, quyền làm cha làm mẹ, và các vấn đề có liên quan khác, trên
cơ sở bình đẳng như những người khác, nhằm đảm bảo:
(a) thừa nhận quyền của tất cả người khuyết tật ở độ
tuổi kết hôn được kết hôn và xây dựng gia đình trên cơ sở hoàn toàn đồng
ý và tự nguyện của hai bên nam nữ;
(b) thừa nhận quyền của người khuyết tật tự do và tự
chụi trách nhiệm trong việc quyết định về số con cái và khoảng cách sinh
giữa các con và có quyền tiếp cận đến những thông tin phù hợp với lứa
tuổi, tiếp cận với kiến thức về kế hoạch hoá gia đình và sức khoẻ sinh
sản; cung cấp các phương tiện cần thiết để hỗ trợ họ thực hiện những
quyền này;
(c) người khuyết tật, kể cả trẻ em có quyền duy trì khả năng sinh sản của họ, trên cơ sở bình đẳng như những người khác.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
đảm bảo quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật liên quan đến trách nhiệm
bảo hộ, trách nhiệm giám hộ, trách nhiệm ủy thác nuôi dưỡng, nhận con
nuôi, hoặc những thể chế tương tự như vậy ở những nơi những khái niệm
này được sử dụng trong luật pháp quốc gia; trong mọi trường hợp thì lợi
ích tối ưu nhất của trẻ em sẽ được ưu tiên hàng đầu. Các Quốc gia thành
viên của Công ước này cam kết đưa ra những hỗ trợ phù hợp cho người
khuyết tật trong việc thực hiện nghĩa vụ nuôi dạy con cái.
3. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
đảm bảo trẻ em khuyết tật có quyền bình đẳng đối với cuộc sống gia đình.
Nhằm thừa nhận những quyền này và ngăn ngừa sự giấu giếm, cấm đoán,
ruồng bỏ, và cách ly trẻ em khuyết tật, các Quốc gia thành viên của Công
ước này cam kết cung cấp thông tin, các dịch vụ và hỗ trợ đầy đủ và kịp
thời cho trẻ em khuyết tật và gia đình trẻ em khuyết tật.
4. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
đảm bảo một đứa trẻ không bị buộc phải cách ly khỏi bố mẹ em nếu trái
với ý muốn của cha mẹ em, trừ trường hợp các cơ quan có thẩm quyền chụi
sự giám sát của pháp luật quyết định trong khuôn khổ pháp luật và các
thủ tục được áp dụng rằng một sự cách ly như thế là cần thiết vì lợi ích
tốt nhất của đứa trẻ đó. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được
phép cách ly một đứa trẻ khỏi bố mẹ nó vì lý do khuyết tật của trẻ đó
hoặc của một trong hai hoặc cả hai bố mẹ.
5. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
nỗ lực để có giải pháp chăm sóc thay thế trẻ em khuyết tật trong một gia
đình lớn hơn hoặc nếu không thành công thì gửi các em vào sống trong
một gia đình nào đó trong cộng đồng, khi mà gia đình riêng của trẻ
khuyết tật không thể chăm sóc và nuôi dưỡng các em.
ĐIỀU 24 – GIÁO DỤC
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này thừa
nhận quyền được học tập và giáo dục của người khuyết tật. Nhằm thừa nhận
quyền này mà không có sự phân biệt đối xử và trên cơ sở bình đẳng về cơ
hội, các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết đảm bảo hệ thống
giáo dục hoà nhập ở tất cả các cấp và học tập suốt cuộc đời để hướng
tới:
(a) phát triển đầy đủ tiềm năng con người và ý nghĩa
của nhân phẩm, của sự tự tôn giá trị và tăng cường sự tôn trọng quyền
con người, quyền tự do cơ bản và sự đa dạng của con người;
(b) phát triển đầy đủ nhất nhân cách, tài năng và sự sáng tạo cũng như năng lực thể chất và trí tuệ của người khuyết tật;
(c) hỗ trợ người khuyết tật tham gia một cách hiệu quả vào một xã hội tự do.
2. Để thừa nhận quyền này, Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết đảm bảo:
(a) người khuyết tật không bị loại trừ khỏi hệ thống
giáo dục chung vì lý do bị khuyết tật, và rằng trẻ em khuyết tật không
bị loại trừ khỏi chương trình giáo dục tiểu học miễn phí và bắt buộc,
hoặc chương trình giáo dục trung học cơ sở vì lý do bị khuyết tật;
(b) người khuyết tật có thể tiếp cận với giáo dục hòa
nhập miễn phí và có chất lượng ở cấp tiểu học, giáo dục trung học cơ sở
trên cơ sở bình đẳng như những người khác trong cộng đồng mà họ sinh
sống;
(c) cung cấp các điều kiện học tập phù hợp với yêu cầu của từng cá nhân;
(d) người khuyết tật được nhận hỗ trợ cần thiết, trong hệ thống giáo dục chung, để có thể học tập hiệu quả;
(e) cung cấp các biện pháp hỗ trợ đặc thù có hiệu quả
trong những môi trường có thể tối đa hoá sự phát triển về mặt kiến thức
và xã hội, phù hợp với mục tiêu hoà nhập đầy đủ.
3. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
hỗ trợ người khuyết tật học tập các kỹ năng phát triển xã hội và cuộc
sống nhằm tạo điều kiện cho họ có thể tham gia một cách đầy đủ và bình
đẳng trong giáo dục như những thành viên khác trong cộng đồng. Để đạt
được điều này, các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thực
hiện các biện pháp phù hợp, bao gồm:
(a) tạo điều kiện cho việc học chữ nổi Braille, các
chữ viết thay thế, các phương thức và cách thức thay thế, và các hình
thức truyền thông và định hướng, các kỹ năng di chuyển, và tạo điều kiện
cho việc hỗ trợ và tư vấn đồng đẳng;
(b) tạo điều kiện cho việc học ngôn ngữ ký hiệu, và thúc đẩy việc thống nhất ngôn ngữ ký hiệu cho cộng đồng người điếc;
(c) đảm bảo rằng giáo dục của những người bị mù, bị
điếc, hoặc vừa bị điếc vừa bị mù, và đặc biệt là trẻ em được thực hiện
thông qua ngôn ngữ phù, cách thức và cách giao tiếp phù hợp cho từng cá
nhân, và trong môi trường mà ở đó có thể tối đa hóa sự phát triển về
kiến thức và phất triển xã hội.
4. Nhằm hỗ trợ đảm bảo việc hiện thực hóa quyền này,
Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thực hiện các biện pháp
để tuyển dụng giáo viên, kể cả những giáo viên là người khuyết tật biết
sử ngôn ngữ ký hiệu hoặc/và chữ nổi Braille, và đào tạo những cán bộ và
nhân việc làm việc ở tất cả các cấp học. Những lớp tập huấn như vậy
phải lồng ghép cả chương trình nâng cao nhận thức và việc sử dụng các
cách thức phương tiện và cách giao tiếp thay thế, các tài liệu và kỹ
thuật giảng dạy để hỗ trợ người khuyết tật.
5. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
đảm bảo rằng người khuyết tật có thể tiếp cận với giáo dục cao đẳng và
đại học, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục cho người lớn, việc học tập suốt
đời mà không có sự phân biệt đối xử và trên cơ sở bình đẳng như những
người khác. Để đạt được mục tiêu này, các Quốc gia thành viên của Công
ước này cam kết đảm bảo cung cấp những điều chỉnh phù hợp cho người
khuyết tật.
ĐIỀU 25 – Y TẾ
Các Quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận
người khuyết tật có quyền thụ hưởng tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe cao
nhất có thể mà không có sự phân biệt đối xử vì lý do bị khuyết tật. Các
Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thực hiện các biện pháp phù
hợp để đảm bảo người khuyết tật có thể tiêp cận được các dịch vụ y tế
mang tính nhạy cảm giới, bao gồm phục hồi chức năng có liên quan đến vấn
đề y tế. Cụ thể, Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết:
(a) Cung cấp cho người khuyết tật các dịch vụ và
chương trình chăm sóc y tế có chất lượng đảm bảo, đủ tiêu chuẩn và miễn
phí hoặc có thể chi trả được tương tự như các dịch vụ và chương trình
cung cấp cho các đối tượng khác bao gồm các chương trình chăm sóc sức
khoẻ sinh sản và các vấn đề sinh lý và các chương trình y tế công cộng
về vấn đề dân số;
(b) Cung cấp các dịch vụ y tế như trên khi người
khuyết tật có nhu cầu đặc biệt là vì lý do bị khuyết tật của họ kể cả
các biện pháp phù hợp về xác định sớm và can thiệp sớm và cung cấp các
dịch vụ được thiết kế để giảm thiểu và ngăn ngừa các dạng khuyết tật
khác kể cả cho trẻ em và người già;
(c) Cung cấp các dịch vụ y tế như vậy càng gần cộng đồng dân cư càng tốt, kể cả ở các vùng nông thôn;
(d) Yêu cầu các cán bộ y tế chăm sóc sức khỏe cho
người khuyết tật như chăm sóc sức khỏe cho những người khác, kể cả các
dịch vụ miễn phí, chưa kể đến các dịch vụ khác, đồng thời nâng cao nhận
thức về quyền, nhân phẩm, quyền tự quyết và nhu cầu của người khuyết tật
thông qua tập huấn, và ban hành các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp khi
hành nghề y trong cả lĩnh vực dịch vụ y tể công và dịch vụ y tể tư;
(e) Nghiêm cấm cấm phân biệt đối xử đối với người
khuyết tật khi cung cấp bảo hiểm y tế, và bảo hiểm nhân thọ được luật
pháp của Quóc gia thành viên cho phép, và các loại hình bảo hiểm này
phải được cung cấp một cách hợp lý và công bằng;
(f) Nghiêm cấm việc từ chối mang tính phân biệt đối
xử trong công tác chăm sóc sức khỏe, cung cấp các dịch vụ y tế, thực
phẩm và đồ uống vì lý do khuyết tật.
ĐIỀU 26 – PHỤC HỒI CHỨC NĂNG
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
thực hiện các biện pháp phù hợp và hiệu quả, kể cả hỗ trợ đồng đẳng, để
hỗ trợ người khuyết tật có thể đạt được và duy trì tối đa khả năng độc
lập, khả năng học nghề, khả năng xã hội, trí lực, thể lực và sự tham gia
và hoà nhập đầy đủ trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Để đạt được mục
tiêu này, Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết tổ chức, củng
cố và mở rộng các dịch vụ và chương trình phục hồi chức năng, đặc biệt
trong các lĩnh vực y tế, việc làm, giáo dục, và dịch vụ xã hội, theo
cách mà các dịch vụ và chương trình này:
(a) Bắt đầu từ giai đoạn sớm nhất và dựa trên đánh giá chặt chẽ về nhiều mặt về nhu cầu và thể lực cá nhân;
(b) Hỗ trợ sự tham gia và hoà nhập cộng đồng và mọi
mặt của xã hội, và sự hỗ trợ này phải tự nguyện, và sẵn cócho người
khuyết tật và sự hỗ trợ này càng gần cộng đồng càng tốt, kể cả vùng nông
thôn.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
thúc đẩy việc xây dựng các chương trình đào tạo ban đầu và đào tạo
thường xuyên cho các chuyên viên và cán bộ làm việc trong lĩnh vực phục
hồi chức năng.
3. Các Quốc gia thành viên của Công
ước này cam kết thúc đẩy khả năng sẵn có, kiến thức và việc sử dụng công
nghệ và thiết bị hỗ trợ được thiết kế cho người khuyết tật vì các công
nghệ và thiết bị hỗ trợ này có liên quan đến phục hồi chức năng.
ĐIỀU 27 – CÔNG VIỆC VÀ NGHỀ NGHIỆP
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận
quyền của người khuyết tật được làm việc, trên cơ sở bình đẳng như
những người khác, bao gồm quyền có cơ hội để kiếm sống bằng công việc do
chính họ tự do lựa chọn hay chấp nhận trong thị trường lao động và
trong môi trường làm việc cởi mở, hoà nhập và tiếp cận cho người khuyết
tật. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết bảo đảm và thúc
đẩy việc thực hiện trên thực tế quyền được làm việc, kể cả những người
bị khuyết tật trong quá trình làm việc bằng cách áp dụng từng biện pháp
phù hợp, thông qua pháp luật, chưa kể đến những biện pháp khác, nhằm:
(a) Nghiêm cấm phân biệt đối xử trên tất cả các mặt
có liên quan đến vấn đề việc làm bao gồm điều kiện tuyển dụng, công tác
tuyển dụng và việc làm, quá trình làm việc, có hội thăng tiến trong
nghề nghiệp và các điều kiện làm việc an toàn và lành mạnh;
(b) Bảo hộ quyền có điều kiện làm việc công bằng và
thuận lợi bao gồm cả cơ hội làm việc bình đẳng và được trả lương công
bằng cho những công việc có giá trị như nhau, được làm việc trong những
điều kiện an toàn và lành mạnh bao gồm cả việc được bảo vệ khỏi sự lạm
dụng, và được bồi thường cho những tổn thất về tinh thần của người
khuyết tật, trên cơ sở bình đẳng như những người khác.
(c) Đảm bảo người khuyết tật có thể thực hiện quyền lao động và công đoàn bình đẳng như những người khác,
(d) Tạo điều kiện để người khuyết tật tiếp cận một
cách có hiệu quả tới các chương trình hướng dẫn học nghề và kỹ thuật nói
chung, các dịch vụ sắp xếp việc làm và đào tạo nghề và đào tạo nghề
thường xuyên;
(e) Thúc đẩy cơ hội việc làm và cơ hội thăng tiến
trong nghề nghiệp cho người khuyết tật trên thị trường lao động, đồng
thời hỗ trợ tìm việc làm, tiếp cận việc làm, duy trì và quay trở lại làm
việc;
(f) Thúc đẩy cơ hội tự tạo việc làm, thành lập doanh nghiệp, phát triển hợp tác xã và khởi nghiệp kinh doanh của chính họ;
(g) Tuyển dụng người khuyết tật làm việc trong lĩnh vực công;
(h) Thúc đẩy vấn đề việc làm cho người khuyết tật
trong lĩnh vực tư nhân bằng những biện pháp và chính sách phù hợp như
các chương trình hành động cương quyết, các ưu đãi và các biện pháp
khác;
(i) Đảm bảo có các điều chỉnh hợp lý cho người khuyết tật tại nơi làm việc;
(j) Khuyến khích người khuyết tật tiếp thu các kinh nghiệm làm việc trên thị trường lao động mở;
(k) thúc đẩy các chương trình phục hồi chức năng nghề
nghiệp, duy trì việc làm và quay trở lại làm việc dành cho người khuyết
tật;
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
đảm bảo người khuyết tật không bị đối xử như nô lệ hoặc bị quy phục, và
phải được bảo hộ khỏi các hình thức lao động bắt buộc hay lao động
cưỡng bức, trên cơ sở bình đẳng như những người khác.
ĐIỀU 28 – MỨC SỐNG THÍCH ĐÁNG VÀ BẢO TRỢ XÃ HỘI
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận
quyền của người khuyết tật được hưởng mức sống thích đáng cho bản thân
và gia đình, bao gồm đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở, và được cải thiện điều
kiện sống thường xuyên; và cam kết thực hiện các biện pháp phù hợp để
bảo hộ và thúc đẩy việc thực hiện quyền này trên thực tế mà không có sự
phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận
quyền của người khuyết tật đối với bảo trợ xã hội và người khuyết tật
được hưởng quyền này mà không bị phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật;
và cam kết thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm và thúc đẩy sự
việc thực hiện quyền này trên thực tế. Các biện pháp đó bao gồm:
(a) đảm bảo người khuyết tật được tiếp cận bình đẳng
tới các dịch vụ nước sạch, và tiếp cận tới các dịch vụ, các trang thiết
bị và các trợ giúp khác theo nhu cầu liên quan đến khuyết tật một cách
phù hợp và ở mức chi phí hợp lý;
(b) đảm bảo người khuyết tật, đặc biệt là phụ nữ và
trẻ em khuyết tật, và người già bị khuyết tật được tiếp cận tới các
chương trình bảo trợ xã hội, và các chương trình xoá đói giảm nghèo;
(c) đảm bảo người khuyết tật nghèo và gia đình của họ
là hộ nghèo được tiếp cận với các trợ giúp về các chi phí có liên quan
đến khuyết tật từ Nhà nước bao gồm hỗ trợ tài chính, tập huấn, tư vấn,
và an dưỡng;
(d) đảm bảo người khuyết tật được tiếp cận các chương trình nhà ở công;
(e) đảm bảo người khuyết tật được tiếp cận bình đẳng các chương trình và trợ cấp hưu trí.
ĐIỀU 29 – SỰ THAM GIA TRONG LĨNH VỰC HÀNH CHÍNH – CHÍNH TRỊ
Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết đảm
bảo người khuyết tật có các quyền về chính trị và cơ hội được hưởng
những quyền chính trị này trên cơ sở bình đẳng như những người khác, và
cam kết:
(a) Đảm bảo người khuyết tật có thể tham gia đầy đủ
và có hiệu quả trong lĩnh vực hành chính – chính trị và xã hội một cách
trực tiếp hoặc thông qua các đại diện được họ tự do lựa chọn, bao gồm
các quyền và cơ hội cho người khuyết tật tham gia bầu cử và được bầu,
chưa kể đến những cái khác, trên cơ sở bình đẳng như những người khác,
bằng cách:
(i) Đảm bảo các thủ tục, các trang thiết bị và tài
liệu phục vụ công tác bầu cử phải phù hợp, tiếp cận được, dễ hiểu, và dễ
sử dụng;
(ii) Bảo hộ quyền được bầu cử của người khuyết tật
bằng cách bỏ phiểu kín trong các cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý công
khai mà không gặp phải sự đe doạ, quyền được ứng cử, quyền nắm giữ một
cách hiệu quả các vị trí được bầu, và quyền thi hành các nhiệm vụ được
giao một cách hiệu quả ở tất cả các cấp trong chính quyền; tạo điều kiện
cho việc sử dụng các công nghệ trợ giúp và công nghệ mới khi phù hợp;
(iii) Đảm bảo quyền tự do thể hiện ý chí cá nhân của
người khuyết tật với vai trò cử tri, và để đạt được mục tiêu này, khi
cần thiết, theo yêu cầu của người khuyết tật, thì cho phép người khuyết
tậ có sự trợ giúp để thực hiện bầu cử từ một người được người khuyết tật
đó lựa chọn để bỏ phiếu nhân danh họ.
(b) Chủ động thúc đẩy một môi trường mà ở đó người
khuyết tật có thể tham gia đầy đủ và hiệu quả vào quá trình điều hành
các công việc xã hội mà không gặp phải sự phân biệt đối xử và trên cơ sở
bình đẳng như những người khác, và khuyến khích người khuyết tật tham
gia vào các công việc xã hội, bao gồm:
(i) tham gia vào các hội và các tổ chức phi chính phủ
hoạt động trong lĩnh vực liên quan đến hành chính – chính trị của đất
nước, tham gia vào các hoạt động và quản lý của các đảng chính trị;
(ii) thành lập và tham gia các tổ chức của người
khuyết tật để đại diện cho chính người khuyết tật ở cấp quốc tế, quốc
gia, khu vực, và địa phương.
ĐIỀU 30 – SỰ THAM GIA TRONG LĨNH VỰC VĂN HOÁ, GIẢI TRÍ, THỂ THAO.
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận
quyền của người khuyết tật tham gia vào đời sống văn hoá, trên cơ sở
bình đẳng như những người khác và cam kết thực hiện các biện pháp phù
hợp để đảm bảo rằng người khuyết tật:
(a) được tiếp cận đối với tài liệu văn hoá ở dạng tiếp cận được;
(b) được tiếp cận đối với các chương trình truyền hình, phim, kịch và các hoạt động văn hoá khác, ở dạng tiếp cận được;
(c) được tiếp cận với những nơi có các dịch vụ hoặc
biểu diễn văn hoá, như nhà hát, bảo tàng, rạp chiếu phim, thư viện, các
dịch vụ du lịch, và càng nhiều càng tốt, được tiếp cận với những đài kỷ
niệm và địa điểm diễn ra sự kiện văn hoá quan trọng của quốc gia.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
thực hiện các biện pháp phù hợp để hỗ trợ người khuyết tật có cơ hội
phát triển và tận dụng tiềm năng, sáng tạo, nghệ thuật và tri thức của
họ, không chỉ phục vụ cho lợi ích của bản thân họ, mà còn làm giàu thêm
cho xã hội.
3. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
thực hiện các biện pháp phù hợp, theo luật pháp quốc tế, để đảm bảo rằng
pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không chứa đựng những rào cản
bất hợp lý hoặc mang tính phân biệt đối xử đối với khả năng tiếp cận của
người khuyết tật tới các tài liệu văn hoá.
4. Người khuyết tật có quyền được hỗ trợ và thừa nhận
những đặc thù về ngôn ngữ và văn hoá bao gồm ngôn ngữ ký hiệu và văn
hoá của người điếc, trên cơ sở bình đẳng như những người khác.
5. Nhằm hỗ trợ người khuyết tật tham gia vào các hoạt
động thể thao, giải trí, trên cơ sở bình đẳng như những người khác, các
Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thực hiện các biện pháp
phù hợp nhằm:
(a) Khuyến khích và thúc đẩy sự tham gia một cách đầy
đủ nhất của người khuyết tật trong các hoạt động thể thao hòa nhập ở
tất cả các cấp;
(b) Đảm bảo rằng người khuyết tật có cơ hội tổ chức,
phát triển và tham gia vào các hoạt động giải trí và thể thao cụ thể
dành cho người khuyết tật và để đạt được mục tiêu này khuyến khích việc
cung cấp các hướng dẫn, đào tạo và nguồn lực phù hợp, trên cơ sở bình
đẳng như những người khác;
(c) Đảm bảo rằng người khuyết tật tiếp cận được đối với các địa điểm du lịch, thể thao và giải trí;
(d) Đảm bảo rằng trẻ em khuyết tật được tiếp cận bình
đẳng như những trẻ em khác vào các hoạt động thể thao, vui chơi, giải
trí, kể cả các hoạt động thể thao, vui chơi và giải trí trong hệ thống
giáo dục;
(e) Đảm bảo rằng người khuyết tật tiếp cận được tới
các dịch vụ của các tổ chức, cá nhân tham gia vào việc tổ chức các hoạt
động vui chơi, giải trí, thể thao, du lịch.
ĐIỀU 31 – THỐNG KẾ VÀ THU THẬP SỐ LIỆU
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
thực hiện thu thập các thông tin phù hợp, bao gồm các số liệu nghiên cứu
và thống kế, để hỗ trợ cho việc xây dựng và thực hiện chính sách để đảm
bảo hiệu lực thi hành của Công ước này. Quá trình thu thập và lưu giữ
thông tin cần:
(a) tuân thủ các bảo hộ được pháp luật đặt ra bao gồm
cả luật về bảo hộ số liệu nhằm đảm bảo tính bảo mật và tôn trọng sự
riêng tư của người khuyết tật;
(b) tuân thủ các chuẩn được quốc tế chấp nhận để bảo
hộ quyền con người, các quyền tự do cơ bản, và nguyên tắc đạo đức trong
việc thu thập và sử dụng số liệu thống kê.
2. Các thông tin thu được theo quy định tại điều này
phải được phân loại và được sử dụng để hỗ trợ đánh giá việc thực hiện
các cam kết của các Quốc gia thành viên của Công ước này, khi phù hợp,
và để xác định cũng như giải quyết trở ngại mà người khuyết tật gặp phải
khi thực hiện quyền của họ.
3. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
có trách nhiệm chia sẻ các số liệu thống kê và đảm bảo người khuyết tật
và những người khác có thể tiếp cận được tới các số liệu thống kê này.
ĐIỀU 32 – HỢP TÁC QUỐC TẾ
1. Hợp tác với các tổ chức quốc tế và khu vực, các tổ
chức xã hội dân sự và đặc biệt là các tổ chức của người khuyết tật, các
Quốc gia thành viên của Công ước này nhận thấy tầm quan trọng của hợp
tác quốc tế và thúc đẩy sự hợp tác quốc tế, trong việc hỗ trợ các nỗ lực
của mỗi quốc gia hiện thực hóa các mục đích, mục tiêu của Công ước này,
và cam kết áp dụng các biện pháp phù hợp và hiệu quả để trong lĩnh vực
hợp tác quốc tế song phương và đa phương, khi phù hợp. Các biện pháp
này, chưa kể đến các biệp pháp khác, bao gồm:
(a) Đảm bảo việc hợp tác quốc tế, bao gồm các chương
trình phát triển quốc tế, mang tính hòa nhập và tiếp cận được đối với
người khuyết tật.
(b) Tạo điều kiện và hỗ trợ nâng cao năng lực, bao
gồm chia sẻ và trao đổi thông tin, kinh nghiệm, các chương trình đào tạo
và các trường hợp điển hình;
(c) Tạo điều kiện cho công tác hợp tác trong nghiên cứu, tiếp cận tới các kiến thức khoa học và kỹ thuật;
(d) Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và kinh tế, khi phù hợp,
bao gồm việc tạo điều kiện để tiếp cận và chia sẻ công nghệ hỗ trợ mang
tính tiếp cận, và thông qua chuyển giao công nghệ.
2. Các khoản quy định trong Điều 32 không có tác động
đến nghĩa vụ mà mỗi Quốc gia thành viên phải thực hiện trong khuôn khổ
Công ước này.
ĐIỀU 33 – THỰC HIỆN VÀ GIÁM SÁT Ở CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết,
tuỳ thuộc vào hệ thống tổ chức của quốc gia thành viên đó, cam kết phân
công một hoặc một số cán bộ chuyên trách trong chính phủ để giải quyết
các vấn đề liên quan đến việc thực hiện các điều khoản của Công ước này,
và cam kết xem xét một cách thích đáng việc thành lập hay chỉ định một
cơ chế điều phối trong chính phủ để hỗ trợ thực hiện các hoạt động liên
quan đến các lĩnh vực khác nhau, và ở các cấp khác nhau.
2. Các Quốc gia thành viên của Công ước này, , tuỳ
thuộc vào hệ thống quản lý hành chính và pháp lý của Quốc gia thành viên
đó, cam kết duy trì, đẩy mạnh, chỉ định hoặc thiết lập trong chính phủ
một khung hành động, bao gồm một hoặc nhiều cơ chế độc lập nếu cần thiết
để thúc đẩy, bảo hộ, và giám sát việc thực hiện Công ước này. Khi chỉ
định hay thành lập một cơ chế như vậy, thì các Quốc gia thành viên của
Công ước này cam kết tính đến đến các nguyên tắc có liên quan đến chức
năng và vị trí của các thiết chế nhà nước cho việc bảo hộ và nâng cao
quyền con người.
3. Các tổ chức xã hội dân sự, đặc biệt là người
khuyết tật và các tổ chức đại diện của người khuyết tật phải được tham
gia một cách đầy đủ vào quá trình giám sát.
ĐIỀU 34 – UỶ BAN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1. Uỷ ban về Quyền của người khuyết tật sẽ được thành
lập (Sau đây gọi tắt là “Uỷ ban”) để thực hiện các nhiệm vụ được nêu ra
dưới đây.
2. Uỷ ban cần bao gồm 12 chuyên gia, kể từ khi Công
ước này có hiệu lực. Sau khi có thêm 60 quốc gia phê chuẩn hay gia nhập
Công ước, thì số thành viên của Uỷ ban sẽ tăng thêm sáu thành viên nữa,
và sẽ đạt số lượng tối đa là 18 thành viên.
3. Các Ủy viên trong Uỷ ban sẽ phục vụ theo năng lực
riêng của họ, có phẩm chất đạo đức tốt, có kinh nghiệm và năng lực được
thừa nhận trên các lĩnh vực mà Công ước đề cập. Khi đề cử các ứng viên
là công dân của nước mình, các Quốc gia thành viên của Công ước này
phải cam kết xem xét một cách thích đáng đến các quy định được ghi trong
Điều 4.3 của Công ước này.
4. Các Ủy viên của Uỷ ban sẽ được các Quốc gia thành
viên của Công ước này bầu chọn có tính đến các yếu tố về địa lý, đại
diện của các xã hội khác nhau, và đại diện của các hệ thống pháp luật
chủ yếu, yếu tố cân bằng giới, và có sự tham gia của các chuyên gia là
người khuyết tật.
5. Các Ủy viên của Uỷ ban sẽ được bầu bằng cách bỏ
phiếu kíntheo danh sách đề cử của các Quốc gia thành viên lựa chọn từ
các ứng viên là công dân của nước họ tại các phiên họp của Hội nghị các
Quốc gia thành viên. Tại các phiên họp đó, phải có tối thiểu hai phần ba
tổng số các Quốc gia thành viên đến dự. Số người được bầu vào Uỷ ban sẽ
là những người đạt được số phiếu nhiều nhất và thu được tuyệt đại đa số
phiếu bầu của đại diện của các Quốc gia thành viên có mặt tham gia bỏ
phiếu.
6. Lần bầu cử lần đầu sẽ được tiến hành không chậm
quá 6 tháng kể từ sau ngày Công ước có hiệu lực. Ít nhất là bốn tháng
trước ngày bầu cử, Tổng thư ký Liên hợp quốc sẽ gửi thư tới các Quốc gia
thành viên đề nghị trong khoảng hai tháng đề cử ứng viên của mình vào
Ủy ban. Sau đó, Tổng thư ký Liên hợp quốc sẽ thành lập một danh sách
theo thứ tự bảng chữ cái của tất cả những ứng viên được đề cử và ghi rõ
Quốc gia thành viên nào đã đề cử họ và sẽ gửi danh sách đó tới Quốc gia
thành viên của Công ước này.
7. Các thành viên của Uỷ ban sẽ được bầu với nhiệm kỳ
bốn năm. Họ có thể được bầu lại một lần. Tuy nhiên, nhiệm kỳ của sáu
thành viên được lựa chọn ở lần bầu cử đầu tiên sẽ chấm dứt trong haiấhi
năm, ngay sau khi đợt bầu cử đầu tiên, tên của sáu thành viên này sẽ do
Chủ tạo của phiên họp được ghi trong khoản 5 Điều 34 lựa chọn bằng cách
rút thăm.
8. Việc lựa chọn sáu thành viên bổ sung cho Uỷ ban sẽ
được tổ chức trong các dịp bầu cử thường kỳ, phù hợp với các khoản của
Điều 34.
9. Nếu một Ủy viên của Uỷ ban bị chết hay từ chức,
hoặc tuyên bố ngừng thực hiện các nhiệm vụ của mình vì bất cứ lý do nào,
thì Quốc gia thành viên đã đề cử Ủy viên đó sẽ chỉ định một chuyên gia
khác có kiến thức chuyên môn tương tự và đáp ứng được các tiêu chuẩn ghi
trong các khoản liên quan của Điều 34 thay thế cho đến hết nhiệm kỳ.
10. Uỷ ban sẽ tự định ra điều lệ làm việc của riêng mình.
11. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ bổ nhiệm nhân sự và
cung cấp các trang thiết bị vật chất cần thiết để Uỷ ban hoạt động một
cách hiệu quả trong khuôn khổ Công ước này; và Tổng thư ký Liên Hợp Quốc
sẽ triệu tập cuộc họp đầu tiên của Ủy ban.
12. Khi có sự sự phê chuẩn của Đại hội đồng Liên hợp
quốc, các Ủy viên của Uỷ ban được thành lập trong khuôn khổ Công ước này
sẽ được nhận lương từ nguồn tài trợ của Liên Hợp Quốc theo thể thức và
điều kiện do Đại hội đồng Liên hợp quốc ấn định căn cứ vào trọng trách
trong Uỷ ban.
13. Các Ủy viên của Uỷ ban sẽ được phép sử dụng các
trang thiết bị vật chất, được hưởng các quyền ưu đãi và quyền miễn trừ
khi thực hiện nhiệm vụ cho Liên Hợp Quốc theo quy định của Công ước về
Quyền ưu đãi và Quyền miễn trừ của Liên Hợp Quốc.
ĐIỀU 35 – BÁO CÁO CỦA CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN
1. Mỗi Quốc gia thành viên cam kết đệ trình lên Uỷ
bản, thông qua Tổng thư ký Liên hợp quốc, một bản báo cáo tổng hợp về
các biện pháp được Quốc gia đó thông qua nhằm tăng tính hiệu lực cho các
nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ Công ước này và những tiến bộ đã đạt
được khi thực hiện các nghĩa vụ đó trong vòng hai năm sau khi Công ước
có hiệu lực tại Quốc gia thành viên có liên quan.
2. Sau đó, các Quốc gia thành viên của Công ước này
cam kết đệ trình báo cáo tới Uỷ ban ít nhất là bốn năm một lần và bất kỳ
thời điểm nào khi Uỷ ban yêu cầu.
3. Uỷ ban sẽ ấn định các hướng dẫn được áp dụng đối với nội dung của báo cáo.
4. Mỗi Quốc gia thành viên đã đệ trình một báo báo
tổng thể đầu tiên tới Uỷ ban rồi thì trong các báo cáo tiếp theo của
mình không cần nhắc lại những thông tin đã được đề cập đến trong báo cáo
trước đó. Khi chuẩn bị báo cáo, Quốc gia thành viên của Công ước này
phải cam kết thực hiện quá trình chuẩn bị báo cáo một cách cởi mở và
minh bạch và cam kết xem xét một cách thích đáng đến các quy định được
ghi trong Điều 4.3 của Công ước này. .
5. Nội dung của báo cáo phải chỉ ra các nhân tố và khó khăn có ảnh hưởng đến việc hoàn thành các nghĩa vụ mà Công ước đưa ra.
ĐIỀU 36 – XEM XÉT BÁO CÁO
1. Mỗi báo cáo sẽ được Uỷ ban xem xét, điều này sẽ
giúp Uỷ ban đưa ra các đề xuất và khuyến nghị chung về báo cáo và khi
xét thấy phù hợp Ủy ban sẽ chuyển các đề xuất và khuyến nghị chung đó
cho các Quốc gia thành viên. Các Quốc gia thành viên sẽ có phản hồi về
bất kỳ thông tin nào mà Quốc gia đó lựa chọn tới Uỷ ban. Uỷ ban có thể
yêu cầu các Quốc gia thành viên cung cấp các thông tin cụ thể hơn có
liên quan đến việc thực hiện Công ước này.
2. Nếu một Quốc gia thành viên của Công ước này đệ
trình báo cáo quá muộn so với thời hạn quy định, thì Uỷ ban sẽ thông báo
cho Quốc gia thành viên đó biết về yêu cầu cần phải kiểm tra việc thực
hiện Công ước tại Quốc gia đó, và dựa trên các thông tin đáng tin cậy mà
Uỷ ban thu được và nếu báo cáo không được nộp trong vòng 3 tháng kể từ
thông báo, Uỷ ban sẽ yêu cầu Quốc gia thành viên đó tham gia kiểm tra.
Nếu Quốc gia đó nộp báo cáo, thì các quy định trong khoản 1 của Điều 36
sẽ được áp dụng.
3. Tổng thư ký Liên Hợp quốc sẽ gửi các báo cáo tới tất cả các Quốc gia thành viên của Công ước này.
4. Các Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết
công bố báo cáo một cách rộng rãi trước công chúng của Quốc gia đó, và
cam kết tạo điều kiện để công chúng có thể tiếp cận đến những đề xuất,
gợi ý chung của Ủy ban có liên quan đến báo cáo.
5. Nếu xét thấy phù hợp, Uỷ ban sẽ gửi báo cáo do các
Quốc gia thành viên của Công ước này đệ trình tới các cơ quan chuyên
môn, các tổ chức và các chương trình của Liên Hợp Quốc và các cơ quan có
thẩm quyền khác để yêu cầu hỗ trợ hay tư vấn về kỹ thuật có trong báo
cáo bên cạnh những nhận xét và khuyến nghị nếu có của Ủy ban về những
yêu cầu này.
ĐIỀU 37 – HỢP TÁC GIỮA CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN VÀ UỶ BAN
1. Mỗi Quốc gia thành viên của Công ước này cam kết hợp tác với Uỷ ban và hỗ trợ các Ủy viên của Uỷ ban hoàn thành nhiệm vụ họ.
2. Trong mối quan hệ với các Quốc gia thành viên của
Công ước này, Uỷ ban sẽ xem xét một cách thích đáng các phương thức và
cách thức để nâng cao năng lực của các quốc gia trong việc thực hiện các
điều khoản của Công ước cho Quốc gia thành viên của Công ước này, kể cả
thông qua hợp tác quốc tế.
ĐIỀU 38 – MỐI QUAN HỆ CỦA UỶ BAN VỚI CÁC CƠ QUAN KHÁC
Để đẩy mạnh việc thực hiện có hiệu quả Công ước này và khuyến khích hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực mà Công ước đề cập đến:
(a) Các cơ quan chuyên môn và các cơ quan khác của
Liên Hợp Quốc được quyền đại diện trong quá trình xem xét thực hiện các
điều khoản của Công ước trong khuôn khổ nhiệm vụ của họ. Nếu xét thấy
phù hợp, Uỷ ban có thể yêu cầu các cơ quan chuyên môn và các cơ quan có
thẩm quyền khác tư vấn chuyên môn cho việc việc thực hiện Công ước theo
lĩnh vực trong phạm vi nhiệm vụ tương ứng của họ. Uỷ ban có thể yêu cầu
các cơ quan chuyên môn và các tổ chức khác của Liên Hợp Quốc nộp báo cáo
về việc thực hiện Công ước theo các lĩnh vực trong phạm vi hoạt động
của họ.
(b) Uỷ ban, khi muốn hủy bỏ nhiệm vụ nào của mình,
khi phù hợp, phải tham vấn với các cơ quan khác có liên quan chụi sự chi
phối của các Hiệp ước nhân quyền quốc tế, nhằm đảm bảo sự nhất quán
trong các hướng dẫn, các đề xuất và khuyến nghị chung tương ứng trong
việc chuẩn bị báo cáo, và nhằm tránh sự trùng lặp và chồng chéo khi thực
hiện chức năng của mình.
ĐIỀU 39 – BÁO CÁO CỦA UỶ BAN
Uỷ ban sẽ phải báo cáo hai năm một lần đến Đại Hội
đồng Liên hợp quốc và tới Uỷ ban Kinh tế Xã hội về các hoạt động của Uỷ
ban, và có thể có những đề xuất và khuyến nghị chung dựa trên việc đánh
giá các báo cáo và các thông tin nhận được từ các Quốc gia thành viên
của Công ước này. Các đề xuất và khuyến nghị chung đó phải được đề cập
trong báo cáo của Uỷ ban cũng với những nhận xét nếu có từ Quốc gia
thành viên của Công ước này.
ĐIỀU 40 – HỘI NGHỊ CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN
1. Các Quốc gia thành viên của Công ước này sẽ họp
thường kỳ tại Hội nghị các Quốc gia thành viên của Công ước để xem xét
những vấn đề có liên quan đến việc thực hiện Công ước.
2. Không quá sáu tháng kể từ ngày Công ước có hiệu
lực, Tổng thư ký Liên hợp quốc sẽ triệu tập Hội nghị các Quốc gia thành
viên của Công ước. Các cuộc họp tiếp theo sẽ được Tổng thư ký LHQ triệu
tập hai năm một lần, hoặc do các Hội nghị các Quốc gia thành viên của
Công ước ấn định.
ĐIỀU 41 – LƯU CHIỂU CÔNG ƯỚC
Tổng thư ký LHQ chịu trách nhiệm lưu chiểu Công ước này.
ĐIỀU 42 – KÝ KẾT CÔNG ƯỚC
Công ước này sẽ để ngỏ cho các quốc gia, các tổ chức
hợp tác khu vực tham gia ký kết việc gia nhập bắt đầu từ ngày 30 tháng 3
năm 2007 tại trụ sở chính của Liên hợp quốc tại New York.
ĐIỀU 43 – ĐẠT ĐƯỢC SỰ ĐỒNG THUẬN
Công ước này sẽ tùy thuộc vào các Quốc gia thành viên
đã tham gia ký kết Công ước phê chuẩn và tùy thuộc vào các tổ chức hợp
tác khu vực đã tham gia ký kết Công ước chính thức xác nhận việc gia
nhập. Công ước này sẽ để ngỏ cho bất kỳ một quốc gia hay tổ chức hợp tác
khu vực nào chưa tham gia ký kết Công ước.
ĐIỀU 44 – CÁC TỔ CHỨC HỢP TÁC KHU VỰC
1. “Tổ chức hợp tác khu vực” có nghĩa là một tổ chức
do các Quốc gia có chủ quyền ở một khu vực nào đó thành lập và các Quốc
gia thành viên trao quyền cho Tổ chức hợp tác khu vực đó trong phạm vi
các vấn đề được đề cập trong Công ước này. Những tổ chức hợp tác khu vực
như vậy sẽ tuyên bố, trong văn kiện khẳng định hoặc gia nhập chính thức
của mình, phạm vi thẩm quyền của mình đối với các vấn đề được để cập
trong Công ước này. Sau đó các tổ chức này sẽ thông báo việc lưu chiểu
bất kỳ phần sửa đổi đáng kể nào trong phạm vi quyền hạn của mình.
2. Khi nói đến “Các quốc gia thành viên” trong Công
ước này có nghĩa là bao gồm cả các tổ chức như vậy trong phạm vi giới
hạn thẩm quyền của họ.
3. Để phù hợp với khoản 1 Điều 45, và khoản 2 và 3
của Điều 47, bất kỳ văn kiện nào do một tổ chức hợp tác khu vực lưu
chiểu sẽ không được tính đến.
4. Các tổ chức hợp tác khu vực, trong pham vi quyền
hạn của mình, có thể thực hiện quyền bỏ phiếu tại Hội nghị các Quốc gia
thành viên của Công ước này với số phiếu ngang bằng với số lượng Quốc
gia thành viên của tổ chức hợp tác khu vực đó mà đã tham gia Công ước
này. Các tổ chức hợp tác khu vực như vậy không được thực hiện quyền bỏ
phiếu nếu bất kỳ Quốc gia thành viên nào của tổ chức hợp tác khu vực đó
thực hiện quyền bỏ phiếu đó và ngược lại.
ĐIỀU 45 – HIỆU LỰC
1. Công ước này sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau khi lưu chiểu văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập thứ 20.
2. Đối với một Quốc gia thành viên hay tổ chức hợp
tác khu vực phê chuẩn, chính thức khẳng định hoặc gia nhập Công ước sau
khi lưu chiểu văn kiện phê chuẩn, chính thức khẳng định hoặc gia nhập
thứ 20, thì Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau khi lưu chiểu
văn kiện phê chuẩn, chính thức khẳng định hoặc gia nhập đó.
ĐIỀU 46 – BẢO LƯU Ý KIẾN
1. Ý kiến bảo lưu không phù hợp với mục đích và mục tiêu của Công ước sẽ không được chấp nhận.
2. Ý kiến bảo lưu có thể được hủy bỏ vào bất kỳ thời điểm nào.
ĐIỀU 47 – SỬA ĐỎI
1. Bất cứ Quốc gia thành viên nào của Công ước này có
thể đề nghị sửa đổi Công ước và gửi đề nghị sửa đổi đó lên Tổng thư ký
Liên Hợp Quốc. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuyển mọi đề nghị sửa đổi
cho các Quốc gia thành viên nào của Công ước cùng với một yêu cầu đề
nghị các Quốc gia thành viên cho biết liệu họ có muốn triệu tập một hội
nghị các Quốc gia thành viên nhằm xem xét và hay thông qua các đề nghị
sửa đổi đó hay không. Trong vòng 4 tháng kể từ ngày thông báo, nếu có ít
nhất một phần ba số nước tuyên bố tán thành việc tổ chức hội nghị nói
trên thì Tổng thư ký sẽ triệu tập hội nghị dưới sự bảo trợ của Liên Hợp
Quốc. Văn kiện sửa đổi được hai phần ba (2/3) trong tổng số các Quốc gia
thành viên tham dự Hội nghị và bỏ phiếu thông qua thì sẽ được Tổng thư
ký trình lên Đại hội đồng Liên hợp quốc chuẩn y và sau đó gửi tới tất cả
các Quốc gia thành viên của Công ước chấp nhận.
2. Văn kiện sửa đổi được thông qua và chuẩn y nêu ở
khoản 1 Điều 47 sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau khi có hai phần ba
(2/3) trong tổng số các Quốc gia thành viên của Công ước gửi văn kiện
chấp nhận sửa đổi và các văn kiện chấp nhận này được lưu chiểu kể từ
ngày thông qua sửa đổi. Sau đó, văn kiện sửa đổi sẽ có hiệu lực tại các
Quốc gia thành viên của Công ước vào ngày thứ 30 kể từ ngày Quốc gia
thành viên đó lưu chiểu văn kiện chấp nhận sửa đổi của chính Quốc gia
đó. Văn kiện sửa đổi sẽ chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với những Quốc gia
thành viên đã chấp thuận sửa đổi.
3. Nếu được Hội nghị các Quốc gia thành viên của Công
ước quyết định với sự thống nhất cao, văn kiện sửa đổi được thông qua
và chuẩn y nêu ở khoản 1 Điều 47 mà đặc biệt có liên quan đến các Điều
34, 38, 39, 40 sẽ có hiệu lực đối với tất cả các Quốc gia thành viên
của Công ước vào ngày thứ 30 sau khi có hai phần ba (2/3) trong tổng số
các Quốc gia thành viên của Công ước gửi văn kiện chấp nhận sửa đổi và
các văn kiện chấp nhận sửa đổi này được lưu chiểu kể từ ngày thông qua
sửa đổi.
ĐIỀU 48 – RÚT KHỎI CÔNG ƯỚC
Một Quốc gia thành viên của Công ước muốn rút khỏi
Công nước phải thông báo bằng văn bản cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.
Việc rút khỏi Công ước sẽ có hiệu lực sau 1 năm kể từ ngày Tổng thư ký
nhận được thông báo.
ĐIỀU 49 – DẠNG THỨC TIÊP CẬN CỦA CÔNG ƯỚC
Nội dung của Công ước sẽ được trình bày dưới các dạng thức tiếp cận khác nhau.
ĐIỀU 50 – NGÔN NGỮ
Nguyên văn Công ước này được viết bằng tiếng Ả-rập,
tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha
và đều có giá trị như nhau.
Để làm bằng chứng những đại biểu được Chính phủ nước họ trao toàn quyền ký tên dưới đây, đã ký vào bản Công ước này.
PHỤ LỤC II
NGHỊ ĐỊNH THƯ KHÔNG BẮT BUỘC CỦA CÔNG ƯỚC VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
Các Quốc gia thành viên tham gia Nghị định thư không bắt buộc này cam kết các điều sau đây:
ĐIỀU 1
1. Một Quốc gia thành viên tham gia Nghị định thư này
(Sau đây gọi tắt là "Quốc gia thành viên”) công nhận thẩm quyền của Ủy
ban về Quyền của Người Khuyết Tật (Sau đây gọi tắt là "Ủy ban”) để tiếp
nhận và xem xét các thông tin tố cáo từ hoặc nhân danh một cá nhân hoặc
một nhóm cá nhân được Nghị định thư này bảo hộ tố cáo rằng họ bị Quốc
gia thành viên đó xâm hại, vi phạm các điều khoản của Công ước về Quyền
của người khuyết tật.
2. Không một thông tin tố cáo nào được Ủy ban tiếp
nhận nếu thông tin tố cáo đó liên quan đến một Quốc gia thành viên tham
gia Công ước về Quyền của người khuyết tật nhưng lại không là thành viên
của Nghị định thư không bắt buộc này.
ĐIỀU 2
Ủy ban sẽ coi các thông tin tố cáo là không được chấp nhận khi :
(a) Là thông tin tố cáo nặc danh;
(b) Thông tin tố cáo lợi dụng quyền được gửi thông
tin tố cáo hoặc thông tin tố cáo không phù hợp với các điều khoản của
Công ước về Quyền của người khuyết tật;
(c) Những thông tin như vậy sẽ được Ủy ban kiểm tra
trong khuôn khổ các quy định khác về giải quyết tranh chấp hay điều tra
quốc tế;
(d) Tất cả các giải pháp sẵn có trong nội bộ Quốc gia
thành viên đó sẽ không được xem xét đến. Điều này sẽ không được phép
xảy ra ở một Quốc gia thành viên mà việc áp dụng các giải pháp cho các
thông tin tố cáo kéo dài một cách không hợp lý hoặc có thể không mang
lại những giải pháp có hiệu quả;
(e) Thông tin tố cáo đó rõ ràng là không có căn cứ hoặc là không chứng minh được một cách đầy đủ; hoặc khi
(f) Các vụ việc thực tế của thông tin tố cáo xảy ra
trước khi Nghị định thư này có hiệu lực tại Quốc gia thành viên có liên
quan trừ phi những vụ việc đó tiếp diễn đến sau ngày Nghị định thư có
hiệu lực.
ĐIỀU 3
Như đã nêu trong các khoản của Điều 2 của Nghị định
thư này, Ủy ban sẽ bí mật chuyển các thông tin tố cáo tới Quốc gia thành
viên bị cáo buộc để giải quyết.. Trong vòng sáu tháng, Quốc gia thành
viên bị cáo buộc đó phải có báo cáo giải trình với Ủy ban về các vụ việc
đó và đề xuất các giải pháp nếu có mà Quốc gia thành viên đó đã tiến
hành để giải quyết các vụ việc.
ĐIỀU 4
1. Vào thời điểm bất kỳ sau khi nhận được thông tin
tố cáo và trước khi đưa ra hướng giải quyết vụ việc, Ủy ban có thể yêu
cầu Quốc gia thành viên có liên quan đó phải xem xét một cách khẩn
trương và đưa ranhững biện pháp tạm thời cần thiết để tránh những thiệt
hại không thể bù đắp được có thể xảy ra cho nạn nhân hoặc các nạn nhân
đã bị xâm hại.
2. Khi Ủy ban thực hiện thẩm quyền của mình được ghi
trong khoản 1 Điều 4 của Nghị định thư này, thì điều này không có nghĩa
là đây là một phán quyết về việc gia nhập Nghị định thư hay về việc giải
quyết vụ việc bị tố cáo đó.
ĐIỀU 5
Ủy ban sẽ phải tổ chức các cuộc họp kín khi điều tra
các vụ việc bị tố cáo trong khuôn khổ Nghị định thư này. Sau khi điều
tra xong vụ việc, Ủy ban sẽ chuyển các giải pháp và khuyến nghị của
mình, nếu có, tới Quốc gia thành viên có liên quan và tới người gửi đơn
thư tố cáo.
ĐIỀU 6
1. Nếu Ủy ban nhận được thông tin tin cậy chứng minh
rằng một Quốc gia thành viên vi phạm nghiêm trong hoặc vi phạm một cách
có hệ thống các quyền của người khuyết tật ghi trong Công ước về Quyền
của người khuyết tật thì Ủy ban sẽ yêu cầu Quốc gia thành viên đó hợp
tác kiểm tra thông tin và sau đó sẽ đưa ra báo cáo kết quả kiểm tra liên
quan đế vụ việc có liên quan.
2. Xem xét cả báo cáo do Quốc gia thành viên có liên
quan đệ trình cũng như các nguồn thông tin tin cậy sẵn có khác của mình,
Ủy ban có thể sẽ cử một hay một số Ủy viên của Ủy ban tiến hành thẩm
vấn và báo cáo khẩn cấp cho Ủy ban. Khi được đảm bảo và có sự chấp thuận
của Quốc gia thành viên đó, trong quá trình điều tra có thể sẽ bao gồm
cả một chuyến điều tra thực địa tới Quốc gia thành viên có liên
quan.
3. Sau khi thẩm tra kết quả của cuộc điều tra, Ủy ban
sẽ chuyển báo cáo điều tra tới Quốc gia thành viên có liên quan cùng
với các nhận xét và khuyến nghị của Ủy ban.
4. Trong vòng 06 tháng kể từ khi nhận được báo cáo
điều tra cùng với các nhận xét và khuyến nghị của Ủy ban, Quốc gia thành
viên có liên quan phải trình báo cáo điều tra của mình cho Ủy ban.
5. Một cuộc điều tra như vậy phải được tiến hành bí
mật và phải đảm bảo có sự hợp tác của Quốc gia thành viên có liên quan ở
tất các các giai đoạn của trình tự thủ tục điểu tra.
ĐIỀU 7
1. Ủy ban có thể yêu cầu Quốc gia thành viên có liên
quan đó phải trình bày chi tiết các giải pháp trong báo cáo điều tra của
mình theo quy định tại Điều 35 của Công ước về Quyền của người khuyết
tật trong suốt quá trình điều tra được thực hiện theo quy định tại Điều 6
của Nghị định thư này.
2. Ủy ban có thể yêu cầu Quốc gia thành viên có liên
quan thông báo các giải pháp đã được thực hiện trong suốt quá trình điều
tra sau khi kết thúc thời hạn 06 tháng theo quy định tại khoản 1 Điều
6, nếu thấy cần thiết.
ĐIỀU 8
Mỗi Quốc gia thành viên có thể tuyên bố rằng Quốc gia
thành viên đó không công nhận thẩm quyền của Ủy ban được nêu trong Điều
6 và 7, vào thời điểm ký kết hay phê chuẩn Nghị định thư này hoặc gia
nhập sau đó.
ĐIỀU 9
Tổng thư lý Liên hợp quốc sẽ lưu chiểu Nghị định thư này.
ĐIỀU 10
Nghị định thư này sẽ để ngỏ cho các Quốc gia thành
viên các tổ chức hợp tác khu vực đã tham gia ký kết việc gia nhập Công
ước về Quyền của người khuyết tật tham gia ký kết bắt đầu từ ngày 30
tháng 3 năm 2007 tại trụ sở chính của Liên hợp quốc ở New York.
ĐIỀU 11
Nghị định thư này sẽ tùy thuộc vào việc phê chuẩn của
các Quốc gia thành viên đã tham gia ký kết Nghị định thư này mà đã phê
chuẩn hay gia nhập Công ước về Quyền của người khuyết tật. Nghị định thư
này sẽ tùy thuộc vào sự khẳng định chính thức của các tổ chức hợp tác
khu vực đã tham gia ký kết Nghị định thư này mà đã chính thức khẳng định
hay gia nhập Công ước về Quyền của người khuyết tật. Nghị định thư này
sẽ để ngỏ cho bất kỳ Quốc gia thành viên hay tổ chức hợp tác khu vực nào
mà đã phê chuẩn, khẳng định chính thức hay gia nhập Công ước về Quyền
của người khuyết tật nhưng chưa ký kết Nghị định thư gia nhập Nghị định
thư.
ĐIỀU 12
1. “Tổ chức hợp tác khu vực” có nghĩa là một tổ chức
do các Quốc gia có chủ quyền ở một khu vực nào đó thành lập và các Quốc
gia thành viên trao quyền cho Tổ chức hợp tác khu vực đó trong phạm vi
các vấn đề được đề cập trong Công ước và Nghị định thư. Những tổ chức
hợp tác khu vực như vậy sẽ tuyên bố trong văn kiện khằng định hoặc gia
nhập chính thức của mình, phạm vi thẩm quyền của mình đối với các vấn đề
được để cập trong Công ước và Nghị định thư. Sau đó các tổ chức này sẽ
thông báo việc lưu chiểu bất kỳ phần sửa đổi đáng kể nào trong phạm vi
quyền hạn của mình
2. Khi nói đền “các Quốc gia thành viên” trong bản
Nghị định thư này có nghĩa là bao gồm cả các tổ chức hợp tác khu vực như
vậy trong phạm vi giới hạn thẩm quyền của họ.
3. Để phù hợp với khoản 1, Điều 13, và khoản 2 Điều
15, bất kỳ một văn kiện nào được các tổ chức hợp tác khu vực như vậy lưu
chiểu sẽ không được tính đến.
4. Tổ chức hợp tác khu vực, trong phạm vi quyền hạn
của mình, có thể thực hiện quyền bỏ phiếu tại các phiên họp của các Quốc
gia thành viên của Nghị định thư này, với số phiếu ngang bằng với số
lượng các Quốc gia thành viên của tổ chức hợp tác khu vực đó mà là thành
viên của Nghị định thư này. Tổ chức hợp tác khu vựcsẽ không có quyền bỏ
phiếu nếu các Quốc gia thành viên của tổ chức đó bỏ phiếu và ngược lại.
ĐIỀU 13
1. Khi Công ước có hiệu lực thì Nghị định thư này sẽ
có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau khi lưu chiểu văn kiện phê chuẩn hay gia
nhập thứ 10.
2. Đối với từng Quốc gia thành viên hoặc tổ chức hợp
tác khu vực phê chuẩn, khẳng định chính thức hay gia nhập Nghị định thư
sau khi lưu chiểu văn kiện phê chuẩn, khẳng định chính thức hay gia nhập
Nghị định thư thứ 10, thì Nghị định thư sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30
sau khi lưu chiếu văn kiện Nghị định thư phê chuẩn, khẳng định chính
thức hay gia nhập đó.
ĐIỀU 14
1. Ý kiến bảo lưu mà không phù hợp với đối tượng và mục đích của Nghị định thư này sẽ không được chấp nhận.
2. Ý kiến bảo lưu có thể được hủy bỏ vào bất kỳ thời điểm nào.
ĐIỀU 15
1. Bất kỳ Quốc gia thành viên nào cũng có thể đề xuất
sửa đổi Nghị định thư và trình đề xuất sửa đổi lên Tổng thư ký Liên hợp
quốc. Tổng thư ký sẽ chuyển đề xuất sửa đổi cho các Quốc gia thành
viên với một yêu cầu đề nghị họ cho biết liệu có cần triệu tập một cuộc
họp các Quốc gia thành viên về việc xem xét và thông qua đề xuất sửa đổi
đó. Trong vòng 4 tháng tính từ ngày thông báo, nếu có ít nhất một phần
ba tổng số các Quốc gia thành viên của Nghị định thư tuyên bố tán thành
tồ chức cuộc họp xem xét dự thảo sửa đổi, thì Tổng thư ký sẽ triệu tập
cuộc họp dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc. Mọi sửa đổi nào được hai
phần ba (2/3) trong tổng số các Quốc gia thành viên tham dự phiên họp
thông qua sẽ được Tổng thư ký đệ trình lên Đại hội đồng Liên hợp quốc để
phê chuẩn và sau đó các Quốc gia thành viên chấp thuận.
2. Văn kiện sửa đổi được thông qua và phê chuẩn tại
khoản 1 Điều 15 sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau khi có hai phần ba
(2/3) trong tổng số các Quốc gia thành viên của Nghị định thư gửi văn
kiện chấp nhận sửa đổi và các văn kiện chấp nhận này được lưu chiểu kể
từ ngày thông qua sửa đổi. Sau đó văn kiện sửa đổi sẽ có hiệu lực tại
các Quốc gia thành viên tham gia vào ngày thứ 30 sau khi lưu chiểu văn
kiện chấp thuận sửa đổi của chính các Quốc gia thành viên đó.Văn kiện
sửa đổi chỉ có hiệu lực ràng buộc tại các Quốc gia thành viên đã chấp
thuận sửa đổi.
ĐIỀU 16
Một Quốc gia thành viên muốn rút khỏi Nghị định thư
này phải thông báo bằng văn bản cho Tổng thư ký Liên hợp quốc. Việc rút
khỏi Nghị định thư này sẽ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày Tổng thư ký
Liên hợp quốc nhận được thông báo rút khỏi Nghị định thư.
ĐIỀU 17
Nội dung của bản Nghị định thư này sẽ trình bày dưới các dạng thức tiếp cận khác nhau.
ĐIỀU 18
Nguyên văn Nghị định thư này được viết bằng tiếng
Ả-rập, tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây
Ban Nha và đều có giá trị như nhau.
Để làm bằng chứng những đại biểu được Chính phủ của nước họ trao toàn quyền ký tên dưới đây, đã ký vào bản Nghị định thư này.
SOURCE: http://vnsocialwork.net
0 comments:
Post a Comment