THS. BÀNH QUỐC TUẤN – Khoa Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Ngày nay, với sự phát
triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc tế thì các vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài xảy ra ngày càng tăng, kéo theo đó là các tranh chấp
dân sự có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều. Khi một tranh chấp dân sự
có yếu tố nước ngoài được khởi kiện tại Tòa án của một quốc gia, vấn đề
đầu tiên là Tòa án phải xác định xem mình có thẩm quyền thụ lý giải
quyết hay không?
Ở Việt Nam, thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài của Tòa án trước hết được xác định theo các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên; trong trường hợp không có điều ước
quốc tế điều chỉnh thì xác định theo các quy định của Bộ luật Dân sự;
Chương XXXI, XXXV của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS). Đặc
biệt, Khoản 2, Điều 410 của BLTTDS đã có những quy định chung về thẩm
quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài.
1. Quy định của pháp luật
Khoản 2, Điều 410 của BLTTDS đã liệt kê những trường
hợp mà Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết đối với các vụ việc dân
sự có yếu tố nước ngoài, bao gồm các trường hợp:
- a) Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ
sở chính tại Việt Nam hoặc bị đơn có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn
phòng đại diện tại Việt Nam.
Ở đây, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết quan
hệ dân sự có cơ quan, tổ chức nước ngoài tham gia khi cơ quan, tổ chức
nước ngoài là bị đơn và phải có trụ sở chính hoặc cơ quan quản lý tại
Việt Nam. Quy định này là cần thiết trong điều kiện hiện nay khi có
nhiều cơ quan, tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và phát sinh
tranh chấp trong quá trình tham gia các quan hệ pháp luật tại Việt Nam.
Theo Khoản 20, Điều 4 của Luật Doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp có
quốc tịch Việt Nam khi thành lập, đăng ký kinh doanh tại Việt Nam. Như
vậy, trong trường hợp doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ở nước ngoài (có
quốc tịch nước ngoài) nhưng có trụ sở chính hoặc cơ quan quản lý ở Việt
Nam thì, các đối tác của doanh nghiệp vẫn có quyền khởi kiện doanh
nghiệp tại Tòa án Việt Nam.
Quy định trên cũng cho thấy, Tòa án Việt Nam chỉ
có thẩm quyền giải quyết trong trường hợp này khi phía khởi kiện là bên
Việt Nam; còn nếu cơ quan, tổ chức nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại
diện ở Việt Nam của cơ quan, tổ chức nước ngoài khởi kiện, Tòa án Việt
Nam không có thẩm quyền giải quyết. Tòa án Việt Nam cũng có quyền giải
quyết vụ việc khi bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có chi nhánh,
văn phòng đại diện ở Việt Nam.
Tuy nhiên, luật không nói rõ là Tòa án Việt Nam có
thẩm quyền giải quyết đối với tất cả các vụ việc phát sinh có liên quan
đến chi nhánh, văn phòng đại diện ở Việt Nam của cơ quan, tổ chức nước
ngoài hay chỉ trong một số trường hợp cụ thể. Cách quy định của điều
luật cho ta hiểu rằng, Tòa án Việt Nam có quyền giải quyết tất cả các vụ
việc mà bị đơn là tổ chức nước ngoài có chi nhánh, văn phòng đại diện ở
Việt Nam. Theo chúng tôi, quy định như vậy là chưa phù hợp với thực tế
và thiếu tính khả thi bởi nhiều trường hợp không có một mối liên hệ nào
giữa tư cách bị đơn của cơ quan, tổ chức nước ngoài với các chi nhánh,
văn phòng đại diện của cơ quan, tổ chức nước ngoài đó tại Việt Nam.
Ví dụ: Một công ty Hàn Quốc có chi nhánh tại Việt
Nam. Trong quá trình hoạt động, công ty Hàn Quốc có thuê nhà tại Hàn
Quốc của công dân Hàn Quốc làm trụ sở của Công ty và trong quá trình
thực hiện hợp đồng đã phát sinh tranh chấp. Công dân Hàn Quốc khởi kiện
công ty Hàn Quốc. Vụ việc này Tòa án Việt Nam không thể có thẩm quyền
giải quyết dù công ty Hàn Quốc có chi nhánh tại Việt Nam và là bị đơn
trong vụ việc.
- b) Bị đơn là công dân nước ngoài, người không
quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam hoặc có tài sản
trên lãnh thổ Việt Nam.
Trường hợp thứ nhất, bị đơn người nước ngoài có nơi cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam:
Khoản 2 Điều 9 của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình
về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài quy định: “Người
nước ngoài thường trú tại Việt Nam là công dân nước ngoài và người không
quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam”. Như
vậy, người nước ngoài có nơi cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt
Nam được xem là người nước ngoài thường trú tại Việt Nam. Và theo quy
định trên, khi bị đơn nước ngoài chỉ có nơi tạm trú tại Việt
Nam mà không có tài sản trên lãnh thỗ Việt Nam, Tòa án Việt Nam không có
thẩm quyền giải quyết. Quy định này trái với một số điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên. Ví dụ: Khoản 1, Điều 18 của Hiệp định Tương trợ
tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: “Tòa án của một trong
hai bên ký kết ra quyết định sẽ được coi là có thẩm quyền đối với vụ
việc, nếu bị đơn có nơi thường trú hoặc tạm trú trên lãnh thổ của bên ký
kết đó tại thời điểm bắt đầu tiến hành trình tư tố tụng”. Trong trường
hợp này, quy định của điều ước quốc tế được ưu tiên áp dụng nên sẽ có
những trường hợp Tòa án Việt Nam có thẩm quyền xét xử dù bị đơn nước
ngoài chỉ có nơi tạm trú tại Việt Nam.
Trường hợp thứ hai, người nước ngoài không
thường trú tại Việt Nam thì phải có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam. Với
việc hội nhập ngày càng mạnh mẽ vào hoạt động kinh tế quốc tế, việc mở
rộng phạm vi các quan hệ người nước ngoài được tham gia tại Việt Nam,
việc phát sinh ngày càng nhiều tài sản của người nước ngoài trên lãnh
thổ Việt Nam là điều tất yếu. Trong trường hợp này, khi người nước ngoài
là bị đơn trong vụ tranh chấp mà có tài sản tại Việt Nam, vụ việc sẽ
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam. Nếu người nước ngoài là
bị đơn mà tài sản không nằm trên lãnh thổ Việt Nam và cũng không có nơi
thường trú ở Việt Nam, Tòa án Việt Nam không có cơ sở và cũng không thể
thực hiện được quyền tài phán của mình. Tài sản của người nước ngoài
trên lãnh thổ Việt Nam theo điều luật không phân biệt là động sản hay
bất động sản. Quy định này khác biệt so với nguyên tắc xác định Tòa án
theo lãnh thổ tại điểm c, khoản 1, Điều 35 của BLTTDS: Tòa án nơi có bất
động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản; nếu
tài sản liên quan đến tranh chấp không phải là bất động sản, thẩm quyền
sẽ thuộc Tòa án nơi cư trú của bị đơn mà không cần biết tài sản đó đang
ở đâu.
- c) Nguyên đơn là công dân nước ngoài, người
không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam đối với
vụ việc dân sự về yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng, xác định cha mẹ.
Khi bên nước ngoài là nguyên đơn, Tòa án Việt Nam có
thẩm quyền giải quyết vụ việc trong các trường hợp cụ thể là yêu cầu đòi
tiền cấp dưỡng, xác định cha mẹ và người nước ngoài phải cư trú, làm
ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam. Quy định trên là hợp lý vì những vụ
việc này liên quan đến nhân thân của các đương sự trong vụ việc cũng như
những chủ thể khác có liên quan nên khi vụ việc xảy ra, các chủ thể
hiện đang có mặt tại Việt Nam, bên người nước ngoài có quyền khởi kiện
tại Tòa án Việt Nam để yêu cầu giải quyết. Điều đó tạo điều kiện thuận
lợi để bên nước ngoài bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, Tòa án Việt Nam
có thể xác minh vụ việc, điều tra, thu thập chứng cứ cũng như áp dụng
các biện pháp ngăn chặn cần thiết trong quá trình giải quyết vụ việc.
- d) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ
để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật Việt Nam hoặc
xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng có ít nhất một trong các đương sự
là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài. Trường hợp này được chia thành:
Quan hệ theo pháp luật Việt Nam: trong
trường hợp này, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết khi bên nước
ngoài không có trụ sở chính, cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại
diện tại Việt Nam (đối với cơ quan, tổ chức) hoặc không có nơi thường
trú ở Việt Nam (đối với cá nhân) nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó theo pháp luật Việt Nam. Quy định này là hợp lý vì nếu
trong trường hợp cơ quan, tổ chức có trụ sở chính, cơ quan quản lý, chi
nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài hoặc cá nhân có nơi thường trú ở
nước ngoài mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó không
theo pháp luật Việt Nam, Tòa án Việt Nam sẽ không có cơ sở để giải quyết
và cũng không có điều kiện để giải quyết.
Trong trường hợp này, trước khi xác định thẩm quyền
xét xử, Tòa án Việt Nam cần phải xác định luật áp dụng cho quan hệ này
có là pháp luật Việt Nam hay không, bởi nếu căn cứ xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ không theo pháp luật Việt Nam, Tòa án Việt Nam không có
thẩm quyền giải quyết. Một số quan điểm cho rằng, khi áp dụng quy định
trên dường như chúng ta đã đi ngược lại nguyên tắc giải quyết xung đột
pháp luật và giải quyết xung đột thẩm quyền xét xử. Ở đây, Tòa án phải
biết luật nội dung áp dụng cho quan hệ có phải là luật Việt Nam hay
không rồi mới xác định thẩm quyền xét xử. Nếu luật nội dung áp dụng là
luật Việt Nam, Tòa án Việt Nam mới có thẩm quyền xét xử1.
Quan hệ xảy ra ở Việt Nam: cũng tương tự như
trường hợp trên, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết khi bên nước
ngoài không có trụ sở chính, cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại
diện tại Việt Nam (đối với cơ quan, tổ chức) hoặc không có nơi thường
trú ở Việt Nam (đối với cá nhân) nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ phải xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam.
Ví dụ: Công ty du lịch M tổ chức chương trình du lịch
cho một số công dân của Thái Lan (gồm A, B, C, D) tại Việt Nam theo
hình thức đi du thuyền trên sông Cửu Long. Chẳng may, du thuyền bị đắm,
ông B là công dân Thái Lan bị chết đuối. Ông E là con ông B hiện đang
làm việc tại Việt Nam muốn kiện công ty M ra Tòa án Việt Nam để được bồi
thường thiệt hại về tinh thần. Trong trường hợp này, sự việc đã xảy ra ở
Việt Nam và có ít nhất một bên đương sự (ông E) là người nước ngoài nên
Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết.
Quy định này là một bước tiến bộ của pháp luật Việt
Nam về thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam đối với các vụ việc dân sự
có yếu tố nước ngoài trong điều kiện Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ
với các quốc gia, tổ chức quốc tế, những quan hệ dân sự mà một bên hoặc
cả hai bên tham gia đều là nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam diễn
ra ngày càng phổ biến.
- đ) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ
để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc
xảy ra ở nước ngoài, nhưng các đương sự đều là công dân, cơ quan, tổ
chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị đơn cư trú tại Việt Nam.
Trong trường hợp này, căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo pháp luật nước ngoài
hoặc xảy ra ở nước ngoài nhưng các chủ thể tham gia đều là chủ thể Việt
Nam và có ít nhất một bên cư trú tại Việt Nam. Ví dụ: A là công dân Việt
Nam, cư trú tại Việt Nam, sang nước T du lịch. B cũng là công dân Việt
Nam nhưng cư trú, làm ăn ở nước T. Trong một lần lưu thông tại nước T,
xe của B va vào xe xủa A gây ra thiệt hại. Sự việc này xảy ra ở nước
ngoài, cả hai đương sự đều là công dân Việt Nam và một bên cư trú tại
Việt Nam nên Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết.
Tuy nhiên, trong quy định trên, chủ thể Việt Nam tham
gia có thể là cá nhân hoặc tổ chức nhưng Luật lại sử dụng thuật ngữ “cư
trú”. Đối với trường hợp nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc cả hai đều cư trú ở
Việt Nam, vấn đề không có gì phải bàn cãi. Nhưng nơi cư trú chỉ dành
cho cá nhân chứ không dành cho tổ chức. Do đó, đối với trường hợp vụ
việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt
quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài, nhưng các
đương sự đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc
bị đơn (hoặc cả hai) lại là cơ quan, tổ chức có trụ sở tại Việt Nam thì,
Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết hay không? Về vấn đề này, có
hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, chiếu theo điều
luật, Tòa án Việt Nam không có thẩm quyền giải quyết. Theo chúng tôi,
điều đó là không hợp lý và không có tính khoa học, bởi không có cơ sở
nào để phủ nhận thẩm quyền của Tòa án Việt Nam đối với việc giải quyết
các vụ việc dân sự mà một trong các bên đương sự (nguyên đơn hoặc bị
đơn) hoặc cả nguyên đơn, bị đơn là cơ quan, tổ chức Việt Nam và có trụ
sở trên lãnh thổ Việt Nam. Nếu Tòa án Việt Nam không có thẩm quyền giải
quyết, Tòa án nước nào có thẩm quyền giải quyết? Việc xác định thẩm
quyền trong trường hợp này sẽ theo nguyên tắc nào?
Quan điểm thứ hai cho rằng, trong trường hợp
này, Tòa án Việt Nam vẫn có thẩm quyền giải quyết. Quan điểm này hợp lý
hơn nhưng lại không chính xác với ngôn từ được quy định tại điểm đ,
khoản 2, Điều 410 của BLTTDS vì cơ quan, tổ chức không có nơi cư trú mà
chỉ có nơi đặt trụ sở chính, nơi đặt trụ sở của chi nhánh, văn phòng đại
diện.
Ngoài các trường hợp nêu trên, điểm e, g, Khoản 2,
Điều 410 của BLTTDS còn đưa ra các trường hợp Tòa án Việt Nam giải quyết
các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp: Tranh chấp
phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện toàn bộ hoặc một phần hợp đồng
xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam; vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn
là công dân Việt Nam.
2. Hướng hoàn thiện pháp luật
Có thể nói, về cơ bản, khoản 2, Điều 410 của BLTTDS
đã liệt kê tương đối cụ thể các trường hợp Tòa án Việt Nam có thẩm quyền
chung giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Những quy
định này tương đối phù hợp với các chuẩn mực chung của pháp luật quốc
tế, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để Tòa án Việt Nam tham gia vào
toàn bộ cơ chế điều chỉnh của pháp luật Việt Nam đối với các quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài.
Tuy nhiên, như đã phân tích, để điều luật được áp
dụng có hiệu quả trong việc điều chỉnh các mối quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài thì, một số điểm trong Khoản 2, Điều 410 của BLTTDS cần được
sửa đổi như sau:
- Thứ nhất, điểm a) Tòa án Việt Nam giải
quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp “Bị đơn
là cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc bị đơn
có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam”.
Như trên đã phân tích, Tòa án Việt Nam chỉ nên giải
quyết những vụ việc có liên quan đến hoạt động ở Việt Nam của chi nhánh,
văn phòng đại diện ở Việt Nam của cơ quan, tổ chức nước ngoài; còn
những trường hợp khác, Tòa án Việt Nam không có thẩm quyền. Chỉ có trong
quá trình hoạt động, các quyền và nghĩa vụ liên quan đến chức năng của
cơ quan, tổ chức mới phát sinh và cũng chỉ khi tiến hành các hoạt động
tại Việt Nam hoặc có liên quan đến Việt Nam mới có cơ sở và điều kiện để
Tòa án Việt Nam giải quyết các tranh chấp có liên quan.
Ví dụ: đối với công ty Hàn Quốc trên, trong quá trình
hoạt động, chi nhánh của công ty Hàn Quốc tại Việt Nam thuê nhà tại
Việt Nam của công dân Việt Nam làm trụ sở của công ty. Nếu có phát sinh
tranh chấp về hợp đồng thuê nhà này, Tòa án Việt Nam mới có thẩm quyền
giải quyết khi các công dân Việt Nam khởi kiện chi nhánh công ty Hàn
Quốc tại Việt Nam. Còn các vụ việc chỉ liên quan đến công ty mẹ tại Hàn
Quốc, Tòa án Việt Nam không có thẩm quyền giải quyết.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị sửa đổi điểm a, Khoản 2,
Điều 410 của BLTTDS thành: Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự
có yếu tố nước ngoài trong trường hợp “Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước
ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc vụ việc liên quan đến hoạt động
của cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam của bị
đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài”.
- Thứ hai, quy định của điểm b, Khoản 2: Tòa
án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong
trường hợp “Bị đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch cư trú,
làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ
Việt Nam”.
Như đã phân tích, điều này trái với quy định của một
số điều ước quốc tế trong lĩnh vực này mà Việt Nam là thành viên. Trong
điều kiện toàn cầu hóa như hiện nay, bất kỳ quốc gia nào khi xây dựng hệ
thống pháp luật của quốc gia đều phải xem xét đến các chuẩn mực pháp lý
chung của thế giới sao hoặc các điều ước quốc tế mà quốc gia đã ký kết
hoặc tham gia.
Một phần quan trọng các quy phạm pháp luật của tư
pháp quốc tế chứa đựng trong các điều ước quốc tế song phương hoặc đa
phương được ký kết giữa các quốc gia. Nếu có sự khác biệt giữa điều ước
quốc tế và pháp luật quốc gia thì, quy định của điều ước quốc tế luôn
được ưu tiên áp dụng. Chính vì vậy, việc ban hành các quy định pháp luật
quốc nội tương thích, phù hợp với nội dung của các điều ước quốc tế mà
quốc gia đó ký kết hoặc tham gia là một yêu cầu quan trọng trong quá
trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, đặc biệt là đối với Việt
Nam khi hệ thống pháp luật cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường
đang trong giai đoạn hình thành và phát triển.
Do đó, để góp phần hạn chế sự khác biệt giữa hệ thống pháp luật Việt Nam với các cam kết quốc tế của Việt Nam thể hiện trong các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, điểm b, Khoản 2, Điều 410
của BLTTDS cần được điều chỉnh theo hướng Tòa án Việt Nam giải quyết các
vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp “Bị đơn là công
dân nước ngoài, người không quốc tịch có nơi thường trú, tạm trú tại
Việt Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam”.
- Thứ ba, để quy định tại điểm đ, Khoản 2,
Điều 410 của BLTTDS được hiểu và áp dụng chính xác, thống nhất và tạo
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn pháp luật áp
dụng, điều luật cần được sửa đổi thành: Tòa án Việt Nam giải quyết các
vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp “Vụ việc dân sự về
quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài, nhưng các đương sự đều là
công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị đơn là cơ
quan, tổ chức Việt Nam có trụ sở chính tại Việt Nam, công dân Việt Nam
có nơi cư trú tại Việt Nam”.
Xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án là một nội
dung quan trọng của quá trình giải quyết xung đột pháp luật trong Tư
pháp quốc tế. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy
định của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với
các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là yêu cầu cần thiết trong quá
trình hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tư pháp quốc tế nói riêng và toàn
bộ hệ thống pháp luật nói chung.
Chú thích:
(1) TS. Đỗ Văn Đại, TS. Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2006, tr. 51.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
Trích dẫn từ:
0 comments:
Post a Comment