I. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI LUẬT QUỐC TỊCH VIIỆT NAM NĂM 1998
Luật quốc tịch Việt Nam hiện hành được Quốc hội khoá X
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20/5/1998 tại kỳ
họp thứ 3 (sau đây gọi là Luật quốc tịch 1998) là bước tiến quan trọng
trong việc hoàn thiện pháp luật về quốc tịch của Nhà nước ta. Luật quốc
tịch 1998 đã điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ xã hội trong
lĩnh vực quốc tịch như: quyền của cá nhân đối với quốc tịch, nguyên tắc
một quốc tịch, hạn chế tình trạng không quốc tịch, quốc tịch của vợ và
chồng, các căn cứ xác định người có quốc tịch Việt Nam, mất quốc tịch
Việt Nam, thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi;
thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về quốc tịch. Sau hơn 9 năm
thực hiện, Luật quốc tịch 1998 đã thực sự đi vào cuộc sống, phát huy vai
trò là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định người có quốc tịch
Việt Nam, cho nhập, cho thôi, cho trở lại quốc tịch Việt Nam, thực hiện
chính sách bảo hộ của Nhà nước ta đối với công dân Việt Nam ở nước
ngoài… Luật quốc tịch 1998 đã góp phần quan trọng vào việc hình thành
mối quan hệ gắn bó giữa công dân Việt Nam với Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên, Luật quốc tịch 1998 cũng đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập sau đây:
Một là, nguyên tắc một
quốc tịch quy định tại Điều 3 là cứng nhắc, bất cập so với yêu cầu hội
nhập quốc tế, chưa thật phù hợp với nguyện vọng của kiều bào ta ở nước
ngoài và thực sự khó khăn trong triển khai thực hiện trên thực tế.
Nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại Điều 3 Luật quốc tịch 1998: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”.
Tuy nhiên, do thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc này (cơ chế
đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam khi đương sự chọn hoặc nhập quốc tịch
nước ngoài) nên trên thực tế đã nảy sinh hệ quả là công dân Việt Nam
định cư ở một số nước mà ở đó khi nhập quốc tịch pháp luật của nước sở
tại không bắt buộc phải thôi quốc tịch Việt Nam dẫn đến một số lượng khá
đông người Việt Nam định cư ở nước ngoài rơi vào tình trạng vừa có quốc
tịch nước sở tại, vừa có quốc tịch Việt Nam. Thêm vào đó, trong khi
Việt Nam quy định nguyên tắc xác định quốc tịch theo huyết thống thì
luật quốc tịch một số nước lại xác định quốc tịch theo nơi sinh, sự xung
đột pháp lý này cũng là lý do làm tăng thêm số người Việt Nam định cư ở
nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch. Vì vậy, sự cứng nhắc của nguyên
tắc một quốc tịch trong Luật quốc tịch 1998 đã làm cho các cơ quan nhà
nước Việt Nam gặp nhiều khó khăn, lúng túng, thậm chí bị bó tay khi giải
quyết các vụ việc cụ thể có liên quan đến quốc tịch.
Hơn nữa, nguyên tắc một quốc tịch theo Luật quốc tịch
1998 thực sự chưa phản ánh đúng nguyện vọng của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài. Đại đa số kiều bào ta dù phải rời Tổ quốc do các hoàn cảnh
khác nhau, nhưng vẫn có nguyện vọng thiết tha được gắn bó với quê hương
nên không muốn bị mất quốc tịch Việt Nam khi nhập quốc tịch nước sở tại.
Từ những vấn đề đã nêu ở trên, yêu cầu bức xúc đặt ra
là cần phải cân nhắc sửa đổi nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại
Điều 3 Luật quốc tịch 1998 cho phù hợp với tình hình thực tế.
Hai là, Luật quốc tịch
1998 chưa có cơ chế hữu hiệu, khả thi để thực hiện một chủ trương quan
trọng là hạn chế tình trạng không quốc tịch ở nước ta.
Thực tế hiện nay số công dân nước ngoài, người không
quốc tịch, người không rõ quốc tịch cư trú trên lãnh thổ nước ta là
tương đối nhiều, việc giải quyết quốc tịch cho họ gặp rất nhiều khó khăn
và trong nhiều trường hợp không thể giải quyết được. Ngoài ra, việc
hoạch định lại biên giới giữa Việt Nam và các nước láng giềng trong
những năm qua cũng dẫn đến hệ quả là một bộ phận khá lớn dân cư dọc biên
giới tuy đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam nhưng chưa được nhập
quốc tịch Việt Nam. Lý do là, phần lớn trong số họ không có giấy tờ tuỳ
thân để xác định tình trạng quốc tịch, trình độ văn hoá rất thấp thậm
chí không biết chữ, điều kiện kinh tế lại khó khăn, do đó nếu cứ buộc họ
làm thủ tục nhập quốc tịch theo đúng quy định của Luật quốc tịch 1998
là không khả thi. Thực trạng này không những làm cho cuộc sống của họ
gặp nhiều khó khăn, mà còn làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trong
việc quản lý dân cư dọc biên giới.
Để giải quyết vấn đề tồn đọng nêu trên về quốc tịch, cần phải quy định một thủ tục sát với yêu cầu thực tế hơn.
Ba là, cơ chế quản lý nhà nước về quốc tịch còn bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao.
Theo quy định của Luật quốc tịch 1998, có nhiều cơ
quan khác nhau có thẩm quyền tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề
quốc tịch, nhưng việc phân định trách nhiệm và quyền hạn có nhiều điểm
chưa cụ thể, thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ dẫn đến tình trạng chậm trễ
trong giải quyết các việc về quốc tịch, chia cắt về thông tin, yếu kém
về thống kê quốc tịch. Đến nay chưa lập được cơ sở giữ liệu quốc gia về
quốc tịch là một thiếu sót lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý
nhà nước về quốc tịch. Mặt khác, đối với những người Việt Nam định cư ở
nước ngoài do thiếu cơ chế đăng ký quốc tịch nên thực sự chúng ta chưa
nắm được tình trạng quốc tịch của hơn 3 triệu người Việt Nam định cư ở
nước ngoài để có chính sách quản lý và bảo hộ.
Hơn nữa, so với bối cảnh tại thời điểm ban hành Luật
quốc tịch 1998, hiện nay đất nước ta đã có nhiều thay đổi lớn, quan
trọng trong phát triển kinh tế – xã hội; uy tín và vị thế quốc tế của
nước ta ngày càng nâng cao trong quan hệ đối ngoại. Nước ta đã hội nhập
sâu hơn vào đời sống kinh tế quốc tế (là thành viên thứ 150 của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), thành viên không thường trực của Hội đồng bảo
an Liên hợp quốc). Thành tựu về phát triển kinh tế – xã hội trong hơn
20 năm đổi mới đã đưa nước ta tới ngưỡng cửa thoát nghèo, trở nên khá
giả hơn và do đó có thêm điều kiện để bảo đảm tốt hơn cho công dân được
hưởng đầy đủ các quyền do pháp luật quy định, trong đó quyền có quốc
tịch là một trong những quyền cơ bản của công dân. Đồng thời, phải nói
rằng với sự phát triển của khoa học pháp lý, tư duy pháp lý cũng có
nhiều đổi mới, tiếp cận gần hơn với các giá trị phổ biến của thế giới.
Trong bối cảnh như vậy, Bộ Chính trị đã có sự đánh giá đúng đắn về các
chính sách của nhà nước ta đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài: “các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chưa được
quán triệt sâu sắc và thực hiện đầy đủ, công tác bảo hộ quyền lợi chính
đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài chưa được quan tâm đúng
mức; các chính sách, văn bản pháp luật chưa đồng bộ, chưa thể hiện đầy
đủ tinh thần đại đoàn kết dân tộc, chưa khuyến khích mạnh mẽ người Việt
Nam định cư ở nước ngoài hướng về quê hương, đóng góp cho công cuộc phát
triển đất nước” (trích Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 về
công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài). Do đó, việc xây dựng và
ban hành Luật quốc tịch (sửa đổi) là cần thiết, góp phần quan trọng vào
việc thể chế hoá và bảo đảm thực hiện quan điểm nhất quán của Đảng và
Nhà nước ta coi người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không
tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan
trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với
các nước.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM NĂM 2008
Việc xây dựng Luật Quốc tịch 2008 được thực hiện trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo sau đây:
1. Quán triệt và thể chế hoá đầy đủ chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về quốc tịch Việt Nam, đặc biệt là Nghị
quyết số 36 – NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với
người Việt Nam ở nước ngoài; Nghị quyết số 48 – NQ/TW ngày 24/5/2005 về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020.
2. Bảo đảm quyền có quốc tịch của mỗi cá nhân, hạn
chế tình trạng không quốc tịch; tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về quốc tịch, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho việc bảo hộ có
hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân Việt Nam ở
nước ngoài.
3. Kế thừa và phát triển những giá trị của pháp luật
quốc tịch Việt Nam đã được thực tiễn kiểm nghiệm, đồng thời áp dụng có
nghiên cứu, chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài trong việc điều
chỉnh vấn đề quốc tịch trong những năm gần đây.
4. Bảo đảm sự phù hợp với các quy định của Hiến pháp
năm 1992, sự đồng bộ với các văn bản pháp luật có liên quan và cả sự
đồng bộ của bản thân các quy định của Luật về quốc tịch Việt Nam, nhất
là tính khả thi của một số quy định có tính nguyên tắc của Luật.
III. BỐ CỤC CỦA LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM NĂM 2008
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 gồm 6 chương, 44 điều, cụ thể là:
- Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 12).
Chương này quy định các vấn đề chung về quốc tịch
Việt Nam; quyền đối với quốc tịch; nguyên tắc quốc tịch; quan hệ giữa
Nhà nước và công dân; bảo hộ đối với công dân; chính sách đối với người
gốc Việt Nam; hạn chế tình trạng không quốc tịch; giữ quốc tịch khi kết
hôn, ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật; giữ quốc tịch khi quốc
tịch của vợ hoặc chồng thay đổi; giấy tờ chứng minh quốc tịch và giải
quyết vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc
tịch nước ngoài.
- Chương II: Có quốc tịch Việt Nam (từ Điều 13 đến Điều 25)
Chương này quy định về người có quốc tịch Việt Nam;
căn cứ xác định quốc tịch; quốc tịch của trẻ em; các điều kiện, trình
tự, thủ tục, hồ sơ nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam; trình tự, thủ tục
và hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam của người không quốc tịch cư trú ổn
định trên lãnh thổ Việt Nam.
- Chương III: Mất quốc tịch Việt Nam (từ Điều 26 đến Điều 34)
Chương này quy định về căn cứ mất quốc tịch Việt Nam;
các điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam,
tước, huỷ bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
- Chương IV: Thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi (từ Điều 35 đến Điều 37)
Chương này quy định về quốc tịch của con chưa thành
niên khi cha mẹ được nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam hoặc bị
tước, huỷ bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam.
- Chương V: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về quốc tịch (từ Điều 38 đến Điều 41)
Chương này quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ
tịch nước, Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; Vấn đề thông báo và đăng
tải kết quả giải quyết các việc về quốc tịch.
- Chương VI: Điều khoản thi hành (từ Điều 42 đến Điều 44)
Chương này quy định về điều khoản chuyển tiếp đối với
việc giải quyết hồ sơ các việc về quốc tịch được tiếp nhận trước ngày
Luật này có hiệu lực. Hiệu lực thi hành của Luật; việc quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành.
IV. NHỮNG NỘI DUNG MỚI QUAN TRỌNG CỦA LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT NAM NĂM 2008
So với Luật năm 1998, Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 có những nội dung mới quan trọng sau đây:
1. Về nguyên tắc quốc tịch (Điều 4)
Để đảm bảo tính xuyên suốt, truyền thống của nguyên
tắc một quốc tịch, đồng thời khắc phục được mâu thuẫn trong Luật hiện
hành, giải quyết được những vướng mắc trong thực tiễn, Luật tiếp tục
khẳng định nguyên tắc một quốc tịch nhưng có một số trường hợp ngoại lệ:
“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt
Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có
quy định khác”.
So sánh với “Nguyên tắc một quốc tịch” của Luật quốc
tịch năm 1998, có thể thấy “Nguyên tắc quốc tịch” trong Luật quốc tịch
năm 2008 có sự mềm dẻo hơn. Nếu như ở Luật năm 1998 có ghi rõ là “Nguyên
tắc một quốc tịch” thì đến Luật năm 2008 đã bỏ từ “một”, chỉ còn là
“Nguyên tắc quốc tịch”. Về mặt nội dung, ngoài nội dung đã quy định
trong Luật năm 1998 “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công
nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”, Luật năm
2008 còn bổ sung thêm “trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Như
vậy, Luật năm 1998 không quy định về các trường hợp ngoại lệ có thể có
hai quốc tịch (mặc dù trên thực tế vẫn có nhiều trường hợp được mang hai
quốc tịch) thì đến Luật năm 2008 đã quy định rõ các trường hợp này.
Việc khẳng định một số ngoại lệ có thể có hai quốc tịch không có nghĩa
là từ bỏ nguyên tắc một quốc tịch mà chỉ là sửa đổi nguyên tắc này cho
mềm dẻo hơn, phù hợp với chính sách của Nhà nước ta về hội nhập quốc tế,
đại đoàn kết dân tộc và chính sách đối với người Việt Nam định cư ở
nước ngoài. Những trường hợp ngoại lệ có thể có hai quốc tịch là những
trường hợp được Chủ tịch nước cho phép giữ quốc tịch nước ngoài khi được
nhập quốc tịch Việt Nam (khoản 3 Điều 19), được trở lại quốc tịch Việt
Nam (khoản 5 Điều 23); trường hợp quốc tịch của trẻ em là con nuôi (Điều
37) và trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhập quốc tịch
nước ngoài nhưng vẫn có nguyện vọng giữ quốc tịch Việt Nam (khoản 2
Điều 13).
2. Việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam (Điều 13)
Đây là một quy định mới hoàn toàn so với Luật quốc
tịch năm 1998. Luật năm 2008 quy định rõ “người Việt Nam định cư ở nước
ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt
Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam và
trong thời hạn năm năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng ký
với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước nơi người đó định cư để giữ quốc
tịch Việt Nam” (khoản 2 Điều 13).
Nghị quyết số 36 – NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra
chủ trương tăng cường bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế. Tuy
vậy, thực tế những năm qua cho thấy, do không xác định được chính xác
những ai trong số hơn 3 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang
còn giữ quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam nên công tác quản lý
quốc tịch, quản lý công dân cũng như thực hiện nhiệm vụ bảo hộ công dân
của Nhà nước ta ở nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, để sớm
chấm dứt tình trạng này, tạo điều kiện để làm tốt công tác quản lý về
quốc tịch, thực hiện nhiệm vụ bảo hộ công dân cũng như các chính sách
ngày càng mở rộng của Đảng và Nhà nước đối với công dân Việt Nam định cư
ở nước ngoài, cần thiết phải quy định việc đăng ký giữ quốc tịch Việt
Nam trong Luật năm 2008.
Luật quy định trong vòng 5 năm kể từ ngày Luật có
hiệu lực, những người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn giữ quốc tịch
Việt Nam thì phải đến đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước nơi
người đó định cư. Nếu hết thời hạn 5 năm mà không làm thủ tục đăng ký
giữ quốc tịch Việt Nam thì người đó đương nhiên bị mất quốc tịch Việt
Nam theo căn cứ mất quốc tịch Việt Nam được quy định tại khoản 3 Điều
26.
3. Giải quyết vấn đề nhập quốc tịch Việt Nam đối với người không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam.
Để giải quyết vấn đề quốc tịch cho những người không
quốc tịch đã cư trú ổn định, lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam, Luật quy
định “Người không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân
nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ hai mươi năm trở lên
tính đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành và tuân thủ Hiến pháp, pháp
luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và
hồ sơ do Chính phủ quy định” (Điều 22).
Đối tượng để được áp dụng quy định này là người không
quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân nhưng phải đáp
ứng hai điều kiện: đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ hai mươi
năm trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành và tuân thủ Hiến
pháp, pháp luật Việt nam.
Tình trạng người không quốc tịch, người không rõ quốc
tịch nước nào đang thường trú trên lãnh thổ nước ta tương đối nhiều.
Trải qua nhiều năm cư trú, làm ăn, sinh sống ổn định trên lãnh thổ nước
ta, đến nay họ đã thực sự hoà nhập vào cộng đồng người Việt về mọi mặt
đời sống. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, những người này cũng như con cháu
của họ chưa được hưởng quy chế công dân Việt Nam, vì chưa được xác định
có quốc tịch Việt Nam. Hầu hết họ là những người lao động, trình độ văn
hoá thấp, không còn một giấy tờ tuỳ thân nào nên việc nhập quốc tịch cho
họ theo thủ tục thông thường không thể thực hiện được. Nếu không giải
quyết nhập quốc tịch cho họ thì không chỉ gây khó khăn cho cuộc sống của
họ mà còn rất phức tạp trong công tác quản lý của địa phương. Quy định
tại Điều 22 là giải pháp để tháo gỡ vướng mắc này trong thực tế.
4. Về trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch (các Điều 21, 25, 29, 32 và 34)
So với Luật năm 1998, Luật năm 2008 đã bổ sung các
quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch như:
trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam; xin thôi
quốc tịch Việt Nam; xin trở lại quốc tịch Việt Nam; tước quốc tịch Việt
Nam; huỷ bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam. Đối với từng việc
về quốc tịch, Luật quy định cụ thể hồ sơ gồm những giấy tờ gì (các Điều
20, Điều 24, Điều 28) và quy trình giải quyết hồ sơ từ cấp tỉnh đến cấp
Trung ương. Theo đó, đối với những người muốn nhập, trở lại hoặc thôi
quốc tịch Việt Nam nộp hồ sơ tại Sở Tư pháp nơi cư trú (đối với người
xin thôi quốc tịch Việt Nam hiện đang ở nước ngoài có thể nộp hồ sơ tại
Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài), sau đó Sở Tư pháp sẽ có văn bản
đề nghị cơ quan Công an cấp tỉnh xác minh về nhân thân của người xin
nhập, trở lại, xin thôi quốc tịch Việt Nam. Sau khi nhận được kết quả
xác minh của cơ quan Công an, Sở Tư pháp có trách nhiệm hoàn tất hồ sơ
trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh xem xét, kết luận và đề xuất ý kiến gửi Bộ Tư pháp. Riêng trường
hợp người xin thôi quốc tịch Việt Nam gửi hồ sơ tại cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài thì cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có
trách nhiệm thẩm tra và chuyển hồ sơ về Bộ Ngoại giao để chuyển đến Bộ
Tư pháp. Sau khi nhận được hồ sơ do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cơ
quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài chuyển đến, Bộ Tư pháp có trách
nhiệm xử lý hồ sơ, làm các thủ tục cần thiết và báo cáo Thủ tướng Chính
phủ trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định.
Luật năm 1998 chưa đưa quy trình giải quyết các việc
về quốc tịch vào Luật, mà các quy trình này được quy định tại Nghị định
số 104/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 1998 của Chính phủ. Luật năm 2008 đã
luật hoá các quy trình với trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết hồ sơ
tại từng cơ quan một cách rõ ràng.
Đối với mỗi quy trình giải quyết về quốc tịch, Luật
năm 2008 đều quy định cụ thể thời hạn giải quyết hồ sơ tại từng cơ quan.
Theo Luật năm 2008, tổng thời gian giải quyết tại các cơ quan từ cấp
tỉnh đến cấp Trung ương đối với việc nhập quốc tịch là 115 ngày (không
kể thời gian bổ sung hồ sơ của người xin nhập quốc tịch), đối với việc
xin trở lại quốc tịch Việt Nam là 85 ngày (trường hợp nộp hồ sơ ở trong
nước) hoặc 70 ngày (trường hợp nộp hồ sơ ở cơ quan đại diện Việt Nam ở
nước ngoài), đối với việc xin thôi quốc tịch Việt Nam là 80 ngày (trường
hợp nộp hồ sơ ở Sở Tư pháp) hoặc 65 ngày (trường hợp nộp hồ sơ tại Cơ
quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài). Các thời hạn trên là thời gian
giải quyết hồ sơ thực tế tại các cơ quan có thẩm quyền, không tính thời
gian trung chuyển hồ sơ. Luật năm 1998 không quy định trình tự giải
quyết từng việc cụ thể nhưng có quy định thời hạn giải quyết đơn yêu cầu
về quốc tịch tại Điều 38, theo đó, thời hạn giải quyết đơn xin nhập
quốc tịch Việt Nam là không quá 12 tháng, đơn xin thôi quốc tịch Việt
Nam, xin trở lại quốc tịch Việt Nam không quá 6 tháng kể từ ngày nhận đủ
hồ sơ hợp lệ. Như vậy, so với thời hạn được quy định trong Luật năm
1998, thời hạn giải quyết các việc về quốc tịch quy định trong Luật năm
2008 đã được rút ngắn đáng kể. Đây có thể coi là bước đột phá trong việc
giải quyết hồ sơ quốc tịch, góp phần thực hiện công khai, minh bạch hoá
các thủ tục hành chính và cải cách hành chính theo tinh thần chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ. Việc quy định thời gian giải quyết hồ sơ ở từng
công đoạn trong quy trình tạo điều kiện cho người dân có cơ sở pháp lý
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời, đúng pháp
luật các việc về quốc tịch.
5. Một số điểm mới khác.
5.1. Quy định về “Quốc tịch Việt Nam”
Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp đến nay, Luật
quốc tịch đã đưa ra khái niệm về “Quốc tịch Việt Nam”. Điều 1 Luật năm
2008 đã quy định “Quốc tịch Việt Nam”: “Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối
quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà
nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đối với công dân Việt Nam”. Đây thực ra không phải là một quy định
hoàn toàn mới mà đã được nhắc đến trong Lời nói đầu của Luật năm 1998,
nhưng Luật năm 2008 đã đưa xuống thành Điều 1 càng nhấn mạnh hơn nữa ý
nghĩa của khái niệm quốc tịch Việt Nam. Quốc tịch Việt Nam là cơ sở pháp
lý đầu tiên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối
với Nhà nước Việt Nam và ngược lại.
5. 2. Về giải thích từ ngữ (Điều 3)
Ngoài việc lược bỏ một số thuật ngữ đã được giải
thích trong các luật chuyên ngành khác, Luật năm 2008 đã bổ sung giải
thích cụm từ “Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài”. Đây là một cụm
từ được sử dụng nhiều trong Luật quốc tịch nhưng các Luật quốc tịch
trước đây chưa có sự giải thích rõ ràng, gây nhiều khó khăn trong việc
áp dụng Luật. Theo giải thích tại Điều 3 Luật năm 2008, “Người gốc Việt
Nam định cư ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam
mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết
thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.
5.3. Giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam (Điều 11)
Các giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam đã được quy
định tại Điều 11 Luật năm 1998, Luật năm 2008 đã quy định lại cụ thể
hơn và theo trình tự logic hợp lý. Ngoài các giấy tờ chứng minh quốc
tịch Việt Nam đã được quy định trong Luật năm 1998, Luật năm 2008 còn bổ
sung thêm “Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi đối với trẻ em là
người nước ngoài; Quyết định cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam
làm con nuôi”.
5.4. Giải quyết vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài (Điều 12)
Quy định này là sự kết hợp Điều 13 và Điều 41 của
Luật năm 1998 và có bổ sung thêm. Điều 13 Luật năm 1998 chỉ quy định đơn
thuần về “Áp dụng điều ước quốc tế về quốc tịch”, còn Điều 12 Luật năm
2008 đã quy định cụ thể “vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt
Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài được giải quyết theo điều ước quốc
tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, trường hợp chưa
có điều ước quốc tế thì được giải quyết theo tập quán và thông lệ quốc
tế”. Quy định này xuất phát từ quy định tại Điều 4 cho phép một số
trường hợp ngoại lệ có thể có hai quốc tịch. Khi một công dân được nhập
quốc tịch Việt Nam mà được Chủ tịch nước cho phép giữ quốc tịch nước
ngoài thì sẽ có nhiều vấn đề xung đột giữa pháp luật Việt Nam và pháp
luật của nước mà người đó đồng thời mang quốc tịch. Để giải quyết vấn đề
này, Luật năm 2008 đã đưa ra hướng giải quyết như quy định tại Điều 12.
5.5. Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam (Điều 16)
Khoản 2 Điều 17 Luật năm 1998 đã quy định về quốc
tịch của trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, theo đó
“Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, còn người kia
là công dân nước ngoài, thì có quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thoả thuận
bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm đăng ký khai sinh cho con”. Tuy
nhiên, trên thực tế nảy sinh vấn đề, nếu tại thời điểm đăng ký khai sinh
cho con mà cha mẹ không thoả thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con
thì đứa trẻ sẽ mang quốc tịch của cha hay mẹ ? Nhằm tháo gỡ vướng mắc
này, Luật năm 2008 đã bổ sung quy định “Trường hợp trẻ em được sinh ra
trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ không thoả thuận được việc lựa chọn
quốc tịch cho con thì trẻ em đó có quốc tịch Việt Nam”. Quy định này
nhằm bảo vệ quyền lợi cho trẻ em, hạn chế việc để trẻ em sinh ra trên
lãnh thổ Việt Nam rơi vào tình trạng không quốc tịch.
5.6. Trở lại quốc tịch Việt Nam (Điều 23)
So với các điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam
quy định tại Điều 21 Luật năm 1998, Luật năm 2008 đã quy định mở rộng
thêm một số trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam, đó là: thực hiện
đầu tư tại Việt nam hoặc đã thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch
nước ngoài, nhưng không được nhập quốc tịch nước ngoài. Quy định này
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho những người gốc Việt Nam quay trở lại
đầu tư về Việt Nam và muốn hưởng những ưu đãi đầu tư như đối với công
dân Việt Nam. Đồng thời, cũng giải quyết được vướng mắc hiện nay là
nhiều trường hợp đã xin thôi quốc tịch Việt Nam nhưng lại không được
nhập quốc tịch nước ngoài.
Luật năm 2008 cũng bổ sung điều kiện được trở lại
quốc tịch Việt Nam đối với người bị tước quốc tịch Việt Nam, bổ sung quy
định về tên gọi Việt Nam của người xin trở lại quốc tịch Việt Nam và
các trường hợp có thể được Chủ tịch nước cho phép giữ quốc tịch nước
ngoài.
5. 7. Bỏ quy định về cấp Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam, Giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam.
Luật năm 1998 có quy định về cấp Giấy chứng nhận có
quốc tịch Việt Nam và Giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam. Thực tế,
những năm qua cho thấy, nhu cầu cấp các loại giấy tờ này cũng không lớn,
phần lớn là theo yêu cầu của người dân. Để công nhận một người có hay
mất quốc tịch Việt Nam đều đã có Quyết định của Chủ tịch nước. Ngoài ra,
công dân Việt Nam còn có thể sử dụng hộ chiếu để chứng minh quốc tịch
của mình. Vì vậy, để hướng tới một nền hành chính chuyên nghiệp, đơn
giản hoá các thủ tục, giấy tờ theo hướng thuận tiện cho người dân, Luật
năm 2008 đã bỏ quy định về cấp các loại giấy tờ này.
5.8. Mất quốc tịch Việt Nam (Điều 26)
Do bổ sung quy định về đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam
tại khoản 2 Điều 13, nên Luật năm 2008 cũng bổ sung một căn cứ mất quốc
tịch Việt Nam, đó là “Không đăng ký giữ quốc tịch Việt nam theo quy
định tại khoản 2 Điều 13 của Luật này”.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Để Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 được thi hành có
hiệu quả và thực sự đi vào cuộc sống, cần phải nhanh chóng ban hành các
văn bản hướng dẫn thi hành Luật; tuyên truyền, phổ biến Luật quốc tịch;
tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ; chỉ đạo việc giải quyết nhập quốc tịch
cho những người không quốc tịch đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam
từ 20 năm trở lên tính đến ngày Luật quốc tịch có hiệu lực; chỉ đạo
đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam cho những công dân Việt Nam định cư ở
nước ngoài; xây dựng phần mềm quản lý quốc tịch; kiện toàn đội ngũ cán
bộ làm công tác quốc tịch; kiểm tra việc thực hiện và sơ kết 2 năm thực
hiện Luật quốc tịch.
1. Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật quốc tịch:
Để triển khai thực hiện Luật Quốc tịch năm
2008, Bộ Tư pháp dự kiến xây dựng 01 Nghị định, 02 Thông tư liên tịch và
01 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, cụ thể là:
- Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Bộ Tư pháp sẽ phối hợp cùng Văn phòng Chủ tịch nước,
Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo
thành lập Ban soạn thảo, tổ biên tập Nghị định để xây dựng Dự thảo Nghị
định trình Chính phủ trong tháng 3 năm 2009.
- Thông tư liên tịch của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Bộ Công an hướng dẫn chi tiết trình
tự, thủ tục và hồ sơ đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam đối với người Việt
Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam.
Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công an
thành lập Tổ biên tập soạn thảo Thông tư. Dự kiến trong tháng 5 năm 2009
sẽ hoàn thiện và trình lãnh đạo Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an
ký ban hành Thông tư liên tịch.
- Thông tư liên tịch của Bộ Tài
chính, Bộ Tư pháp và Bộ Ngoại giao hướng dẫn mức thu nộp, quản lý và sử
dụng lệ phí giải quyết các việc về quốc tịch.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp , Bộ
Ngoại giao thành lập Tổ biên tập xây dựng Dự thảo Thông tư để trình Lãnh
đạo Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và Bộ Ngoại giaoký ban hành Thông tư liên tịch.
Trên cơ sở rà soát Thông tư liên tịch số
08/TTLT-BTC-BTP-BNG ngày 31/12/1998 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ
Ngoại giao; Thông tư số 134/2004/TT-BTC ngày 31/12/2004 của Bộ Tài
chính, 3 Bộ sẽ thống nhất quy định mức thu mới đối với các việc về quốc
tịch cho phù hợp với điều kiện và tình hình hiện nay, đồng thời thống
nhất quy định việc quản lý, sử dụng lệ phí quốc tịch ở trong nước và
ngoài nước.
- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành mẫu giấy tờ về quốc tịch Việt Nam
Vụ Hành chính tư pháp (Bộ Tư pháp) phối hợp với Cục
Lãnh sự, Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài (Bộ Ngoại giao); Cục A-18
(Bộ Công an) rà soát, thiết kế, xây dựng các loại Mẫu giấy tờ về quốc tịch Việt Nam cho phù hợp với quy định của Luật năm 2008.
Các mẫu giấy tờ về quốc tịch bao gồm 5 nhóm như: Mẫu
giấy tờ về nhập quốc tịch; Mẫu giấy tờ về thôi quốc tịch; Mẫu giấy tờ về
trở lại quốc tịch; Mẫu giấy tờ về đăng ký giữ quốc tịch; Mẫu giấy tờ về
thống kê quốc tịch.
2. Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật quốc tịch
- Tuyên truyền, phổ biến
Luật quốc tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành cho các đối tượng là
người Việt Nam, người nước ngoài đang cư trú trên lãnh thổ Việt Nam và
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
- Mở chuyên mục giới thiệu Luật quốc tịch và thủ tục giải quyết các việc về quốc tịch trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp
- Chỉnh lý giáo trình Luật
Quốc tếđang được sử dụng làm tài liệu giảng dạy trong Trường Đại học
Luật Hà Nộicho phù hợp với những quy định của Luật quốc tịch năm 2008 và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
3. Công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ
3.1. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho
cán bộ, chuyên viên làm công tác quốc tịch ở trong nước và cán bộ làm
công tác quốc tịch tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.
Nội dung của công tác tập huấn là giới thiệu những
nội dung cơ bản của Luật quốc tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành; kỹ
năng, nghiệp vụ giải quyết yêu cầu về nhập quốc tịch Việt Nam đối với
người không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam từ 20 năm trở lên
tính đến ngày 01/7/2009 (đối với cán bộ làm công tác quốc tịch ở trong
nước) và kỹ năng, nghiệp vụ giải quyết yêu cầu về đăng ký giữ quốc tịch
Việt Nam tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài (đối với cán bộ làm
công tác quốc tịch ở nước ngoài).
3. 2. Xây dựng Sổ tay nghiệp vụ về công tác quốc tịch dùng cho các cán bộ, chuyên viên làm công tác quản lý, giải quyết các vấn đề về quốc tịch ở trong nước và nước ngoài.
4. Công tác chỉ đạo giải quyết nhập quốc tịch
cho những người không quốc tịch đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt
Nam từ 20 năm trở lên tính đến ngày Luật quốc tịch có hiệu lực
Sau khi có Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Luật quốc tịch, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với
Bộ Công an xây dựng chương trình chi tiết và chỉ đạo các địa phương tiến
hành rà soát, lập hồ sơ theo quy định của Nghị định để giải quyết việc
nhập quốc tịch cho những người không quốc tịch đã cư trú ổn định trên
lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên tính đến ngày Luật quốc tịch có hiệu
lực (Dự kiến sẽ thực hiện trong 3 năm, bắt đầu từ Quý III năm 2009 đến
hết Quý II năm 2012).
5. Công tác đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam cho những công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài
Sau khi có Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Luật quốc tịch, Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp
với Bộ Tư pháp và Bộ Công an xây dựng chương trình chi tiết và chỉ đạo
việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam cho những người Việt Nam định cư ở
nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật
Việt Nam trước ngày 01/7/2009 (thực hiện từ 01/7/2009 đến hết
31/6/2014).
6. Xây dựng phần mềm quản lý quốc tịch
Cục Công nghệ thông tin (Bộ Tư pháp) chủ trì, phối
hợp với Vụ Hành chính tư pháp, Vụ Kế hoạch – Tài chính, Văn phòng Bộ xây
dựng phần mềm quản lý quốc tịch, bao gồm các nghiệp vụ: Quản lý xin
nhập quốc tịch Việt Nam; Quản lý xin trở lại quốc tịch Việt Nam; Quản lý
xin thôi quốc tịch Việt Nam; Quản lý tước quốc tịch Việt Nam; Đăng ký
giữ quốc tịch.
7. Tổ chức bộ máy làm công tác quốc tịch
Vụ Hành chính tư pháp phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ
tiến hành kiện toàn tổ chức bộ máy của Vụ Hành chính tư pháp, đề xuất
chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của các Phòng chuyên môn trong đó có
Phòng quốc tịch.
Tại các Sở Tư pháp và các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài bố trí đủ cán bộ làm công tác quốc tịch.
8. Kiểm tra việc thực hiện và sơ kết 2 năm thực hiện Luật quốc tịch
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ
Công an, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ tiến hành kiểm tra
việc thực hiện và sơ kết 2 năm thực hiện Luật quốc tịch.
SOURCE: VỤ HÀNH CHÍNH TƯ PHÁP – VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT BỘ TƯ PHÁP
0 comments:
Post a Comment