BÙI ĐỨC HIỂN – Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp Luật
Nhằm tạo hành lang pháp
lý thuận lợi cho việc lấy, ghép mô; bộ phận cơ thể và tạo nguồn cung
cấp mô, tạng dồi dào phục vụ cho việc cứu chữa người bệnh và nghiên cứu
khoa học, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh về
việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người mà tiêu biểu là Luật Hiến,
lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006, trong đó có quy
định cụ thể về điều kiện hiến xác; bộ phận cơ thể khi còn sống cũng như
điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết.
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện việc hiến, lấy ghép
mô, bộ phận cơ thể cho thấy pháp luật về vấn đề này còn khá nhiều điểm
bất cập, đặc biệt là trong các quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ
thể sau khi chết. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện
các quy định pháp luật về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết
có cân nhắc, tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài là một nhu cầu cấp thiết.
1. Khái quát về điều
kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết trước khi có Luật Hiến, lấy,
ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006
1.1 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 và văn bản hướng dẫn
Theo số liệu của Bộ Y tế cho thấy, từ những năm đầu
của thập kỷ 50, nước ta đã có những ca ghép mô, bộ phận cơ thể người đầu
tiên như: ghép da, ghép giác mạc từ tử thi vô thừa nhận và đặc biệt vào
đầu những năm 70, việc ghép gan và tim đã được thực hiện trên lợn do
Giáo sư Tôn Thất Tùng và một số bác sĩ khác tiến hành (1). Tuy nhiên,
thời kỳ này chưa có một băn bản pháp lý nào của Nhà nước quy định về
điều kiện hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể người. Đến cuối thập niên 80
và những năm đầu thập niên 90 những ca lấy, ghép thử nghiệm thận, gan
đã cho những kết quả đáng mừng. Và do nhu cầu của nhân dân về chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe ngày càng tăng, đồng thời để tạo hành lang pháp lý cho
việc lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể có hiệu quả, năm 1989 Luật Bảo vệ sức
khỏe nhân dân (Luật BVSKND) được Quốc hội thông qua. Để chủ động bảo vệ
và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, trong Luật quy định rất nhiều vấn đề
về phòng ngừa bệnh, khám chữa bệnh, điều dưỡng và phục hồi chức năng…
trong đó lần đầu tiên có quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể
người: “1, Thầy thuốc chỉ tiến hành lấy mô hoặc bộ phận của cơ thể người
sống hay người chết dùng vào mục đích y tế sau khi đã được sự đồng ý
của người cho, của thân nhân người chết hoặc người chết có di chúc để
lại. 2, Việc ghép mô hoặc một bộ phận cho cơ thể người bệnh phải được sự
đồng ý của người bệnh hoặc thân nhân hay người giám hộ của người bệnh
chưa thành niên…” (2).
Phân tích quy định trên ta thấy, Luật này không
trực tiếp quy định về quyền và điều kiện đối với người hiến mô, bộ phận
cơ thể mà chỉ quy định trong những trường hợp nào “thầy thuốc” (ở đây mà
cụ thể là cơ sở y tế có thẩm quyền) được tiến hành lấy mô, bộ phận cơ
thể người khi còn sống hoặc sau khi chết. Và từ những quy định ở khoản 1
Điều 30, chúng ta có thể thấy Luật quy định về điều kiện hiến mô, bộ
phận cơ thể sau khi chết cần một trong hai điều kiện sau: thứ nhất, phải
có sự sự đồng ý của thân nhân người chết, trong trường hợp người chết
không có di chúc để lại; thứ hai, trường hợp người chết có di chúc để
lại (khoản 2 Điều 30 BVSKND. Bên cạnh đó, Luật này cũng có quy định về
điều kiện của việc ghép mô, bộ phận cơ thể (tức là điều kiện với người
nhận mô, bộ phận cơ thể để chữa bệnh) là phải được sự đồng ý của người
bệnh hoặc người giám hộ của người bệnh chưa thành niên (khoản 2, Điều
30).
Tuy nhiên, ở đây, Luật mới chỉ quy định rất chung về
điều kiện đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể nói chung cũng như điều
kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết nói riêng. Khoản 2 Điều 30 chủ
yếu nhấn mạnh đến tính tự nguyện của người hiến hoặc gia đình họ trong
việc hiến mô, bộ phận cơ thể (tức là chỉ quy định điều kiện về ý chí) mà
không có một quy định nào điều kiện về độ tuổi, về sức khoẻ đối với
người hiến, về năng lực nhận thức của họ… Theo chúng tôi, khoản 2 Điều
30 của Luật BVSKND chỉ là một quy định mang tính chất kỹ thuật để giúp
các cơ sở y tế tiến hành việc lấy ghép mô, bộ phận cơ thể được thuận lợi
hơn trong một số trường hợp cần thiết như đã nêu ở trên. Mặt khác,
chúng ta cũng thấy quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người thời kỳ này chưa
được thừa nhận nên chưa thể có được một quy định đầy đủ về điều kiện mô,
bộ phận cơ thể người khi còn sống cũng như điều kiện đối với người hiến
mô, bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết.
Để đảm bảo những quy định về lấy, ghép đối với người
hiến mô, bộ phận cơ thể trong Điều 30 Luật BVSKND đi vào thực tiễn cuộc
sống thì vấn đề này đã được cụ thể hóa trong Nghị định ban hành kèm theo
Điều lệ Khám chữa bệnh và phục hồi chức năng số 23-HĐBT ngày 24/1/1991
tại Điều 10: “Về lấy và ghép mô bộ phận cơ thể người
1- Việc lấy mô, bộ phận cơ thể người sống phải được người đó tự nguyện và viết thành văn bản.
2- Việc lấy mô hoặc một bộ phận của cơ thể người chết được tiến hành trong các trường hợp:
- Người chết có di chúc để lại đồng ý cho mô hoặc một bộ phận cơ thể của họ.
- Người chết không có di chúc nhưng được thân nhân người chết đồng ý cho bằng văn bản.
- Người chết vô thừa nhận.
…
4- Các thủ tục, tiến hành ghép mô hoặc một bộ phận cơ
thể con người được tiến hành như các trường hợp phẫu thuật ghi trong
Điều 8 của Điều lệ này
…”.
Trong Điều lệ này đã có những quy định cụ thể hơn về
cơ sở y tế khi tiến hành lấy mô, bộ phận cơ thể sau khi chết (khoản 1
Điều 10), ngoài hai trường hợp Luật đã quy định là trường hợp người chết
có di chúc để lại và trường hợp không có di chúc, nhưng được thân nhân
người chết đồng ý thì Điều lệ này có quy định cụ thể hơn, trong trường
hợp người chết không có di chúc để lại thì thân nhân người chết có quyền
đồng ý hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết, nhưng phải thể hiện bằng
văn bản (khoản 2 Điều 10). Mặt khác, Điều lệ cũng quy định cơ sở y tế có
thẩm quyền cũng được sử dụng xác, bộ phận cơ thể người chết vô thừa
nhận để phục vụ cho mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học mà thực
tế trong những năm vừa qua là việc sử dụng mô (giác mạc, kết mạc) để
chữa trị cho người bệnh; sử dụng bộ phận cơ thể, xác tử thi vô thừa nhận
phục vụ cho việc giảng dạy tại các Trường y. Tuy nhiên, cả Luật BVSKND
cũng như Điều lệ Khám chữa bệnh và phục hồi chức năng đều chưa có quy
định cụ thể về điều kiện đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi
chết như: chưa quy định về vấn đề hiến xác, liệu có cần quy định về độ
tuổi với người hiến để lại di chúc hay không? Điều kiện về sức khoẻ,
điều kiện về năng lực nhận thức hay liệu có bắt buộc cần phải có sự đồng
ý của gia đình trong trường hợp người hiến để lại di chúc sau khi chết,
nếu cần có sự đồng ý của gia đình thì sự đồng ý này chỉ cần đồng ý bằng
lời nói hay phải bằng văn bản, trong trường hợp người hiến xác, bộ phận
cơ thể cho giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học thì trình tự thủ tục thế
nào… Do đó, thực tế các cơ sở y tế vẫn còn nhiều khó khăn trong việc
nhận mô, bộ phận cơ thể người đối với trường hợp người hiến sau khi
chết. Mặt khác, các văn bản trên cũng mới chỉ quy định về việc hiến mô,
bộ phận cơ thể sau khi chết nhằm mục đích chữa bệnh, chứ chưa có một quy
định nào về hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết nhằm mục
đích nghiên cứu khoa học, nên vấn đề này thực tế xảy ra các cơ sở y tế
rất khó giải quyết. Ví dụ, một người làm đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ
thể của mình sau khi chết phục vụ cho mục đích cứu chữa người bệnh, tuy
nhiên lúc anh ta chết, cơ sở y tế có thẩm quyền mới phát hiện ra anh ta
bị HIV… thì cơ sở y tế có được nhận mô, bộ phận cơ thể đó cho mục đích
khoa học không?
1.2 Bộ luật Dân sự năm 2005
Phải nói rằng, việc thừa nhận và quy định quyền hiến
mô, bộ phận cơ thể, gắn liền với việc thừa nhận và quy định các điều
kiện hiến mô, bộ phận cơ thể. Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể được thừa
nhận là cơ sở cũng như căn cứ để các nhà làm luật quy định một cách cụ
thể và chặt chẽ về các điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người, trong đó
có các điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết. Mặt khác,
việc quy định chặt chẽ, cụ thể các điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể
người sẽ giúp mọi người thực hiện tốt hơn quyền được hiến của mình.
Điều 34 của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) quy
định: “Cá nhân có quyền hiến bộ phận cơ thể của mình hoặc hiến xác sau
khi chết vì mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học…”. Tuy nhiên,
quy định tại Điều 34 của BLDS 2005 về cá nhân được hiến trước khi có
Luật Hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác 2006, thì còn có
nhiều cách hiểu khác nhau. Có cách hiểu cho rằng, cá nhân ở đây có thể
là bất kỳ ai không phân biệt họ bao nhiêu tuổi, miễn là họ không bị
nhược điểm về thể chất, tâm thần và tự nguyện, quan điểm khác lại cho
rằng cá nhân hiến bộ phận cơ thể ở đây phải là người đã thành niên – mới
có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Sở dĩ có các cách
hiểu khác nhau như vậy bởi vì trong Bộ luật chưa quy định điều kiện cụ
thể với cá nhân ở đây là gì về độ tuổi, về năng nhận thức, về sức khoẻ…
Như vậy, chúng ta thấy Bộ luật quy định cũng rất chung chung về việc cá
nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể khi còn sống hoặc sau khi chết mà
không quy định cụ thể về độ tuổi, sức khoẻ đối với người hiến.
2. Điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết
2.1 Điều kiện về năng lực chủ thể
Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết là một
quyền nhân thân quan trọng, mặc dù là quyền nhưng không phải cá nhân nào
muốn thực hiện cũng được mà cá nhân đó phải đạt được những điều kiện
nhất định, trong đó một điều kiện không thể không nói đến đó là điều
kiện về độ tuổi và điều kiện về khả năng nhận thức cũng như điều khiển
hành vi.
Như chúng ta đã biết, điều kiện về độ tuổi là một dấu
hiệu định lượng quan trọng để xem xét cá nhân đó có đủ khả năng thực
hiện quyền hiến mô, bộ phận cơ thể hay không. Do nhiều nguyên nhân khác
nhau mà ở các nước trên thế giới có sự quy định khác nhau về độ tuổi đối
với người hiến bộ phận cơ thể khi còn sống, đặc biệt là hiến xác, bộ
phận cơ thể sau khi chết. ở Pháp, đủ 13 tuổi trở lên mới có quyền đăng
ký từ chối hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết (tức là sau khi một
người bị chết đi, cơ sở y tế có thẩm quyền sẽ kiểm tra xem người đó có
thẻ từ đăng ký từ chối hiến xác không, nếu không có thì cơ sở y tế có
thẩm quyền gián tiếp suy luận là người đó đã đồng ý hiến)(3). ở nước ta,
Điều 5 của Luật Hiến, lấy ghép mô bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác
năm 2006 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống,
sau khi chết và hiến xác”.
Phân tích quy định trên ta thấy, cá nhân phải từ đủ
18 tuổi trở lên mới có quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết.
Sở dĩ có quy định như vậy bởi các nhà làm luật nước ta quan niệm rằng ở
tuổi đó, người hiến mới phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý cũng như về
mặt pháp lý họ là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự có thể bằng
hành vi của mình tham gia xác lập các quyền và nghĩa vụ nhất định theo
quy định của pháp luật. Nếu độ tuổi là một dấu hiệu định lượng, là điều
kiện cần để hiến mô, bộ phận cơ thể thì khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi là dấu hiệu định tính để xác định xem cá nhân đã hoàn thiện về
mặt tâm lý, về khả năng nhận thức hay chưa.
Tuy nhiên, đối với trường hợp hiến, nhận tế bào mà cụ
thể là hiến nhận tinh trùng thì Luật lại quy định khác, tuỳ thuộc vào
người hiến là nam hay nữ mà Luật có quy định khác nhau, nếu chủ thể hiến
là nam giới phải đạt độ tuổi từ đủ 20 tuổi trở lên và phải không bị
nhược điểm về thể chất tinh thần có khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến, nhận tinh trùng, noãn, phôi
trong thụ tinh nhân tạo theo quy định của pháp luật” (4).
Qua khoản 1 Điều 6 của Luật, một câu hỏi đặt ra là:
tại sao người hiến mô, bộ phận cơ thể chỉ cần đủ 18 tuổi trở lên là được
quyền hiến còn đối với hiến tinh trùng nếu người hiến là nam giới bắt
buộc phải từ đủ 20 tuổi trở lên, trong khi đó nữ chỉ cần đủ 18 tuổi trở
lên đã có quyền nhận tinh trùng, hiến, nhận noãn, phôi, mà như chúng ta
đã biết, người từ đủ 18 tuổi trở lên là người đã có đầy đủ năng lực pháp
luật. Mặt khác, theo chúng tôi, việc Luật quy định có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ đã bao hàm trong đó cả yếu tố độ tuổi, một người được coi
là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ cũng đồng nghĩa với việc người đó
đã đủ 18 tuổi trở nên. Sở dĩ, Luật quy định như trên có nhiều lý do,
nhưng theo chúng tôi thì có một số lý do sau:
- Về mặt sinh học cũng như tâm lý học: ở nữ giới
thường phát triển sớm hơn nam giới, theo nghiên cứu của các nhà y học
cho thấy ở nữ giới thường phát triển nhanh hơn nam giới từ 2-4 tuổi và
cùng với sự phát triển nhanh chóng về mặt sinh học thì về tâm lý ở nữ
giới cũng hoàn thiện sớm hơn.
- Về mặt kỹ thuật lập pháp: việc quy định nam giới từ
đủ 20 tuổi trở nên mới được hiến tinh trùng là một động tác kỹ thuật
nhằm tạo nên sự thống nhất về vấn đề này trong Luật Hiến, lấy ghép mô;
bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006 với các Luật trước đó như những
quy định về điều kiện kết hôn, điều kiện nhận nuôi con nuôi trong pháp
luật hôn nhân gia đình.
- Mặt khác, căn cứ vào thể trạng của người Việt Nam,
đặc biệt là nam giới thì từ đủ 20 tuổi trở lên mới phát triển đầy đủ về
mặt sinh lý. Khi đó tinh trùng hiến mới đảm bảo cho việc thụ tinh có
hiệu quả và quy định như vậy cũng phù hợp với những quy định pháp luật
trước đó.
2.2 Điều kiện về trình tự
Những người có đủ điều kiện quy định tại Điều 5 của
Luật có quyền bày tỏ nguyện vọng hiến mô, bộ phận cơ thể của mình với cơ
sở y tế, khi nhận được thông tin của người hiến mô, bộ phận cơ thể, cơ
sở y tế có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm điều phối quốc gia về
ghép bộ phận cơ thể người. Sau khi nhận được thông báo về trường hợp
hiến xác, bộ phận cơ thể người, Trung tâm điều phối quốc gia về bộ phận
cơ thể có trách nhiệm thông báo cho cơ sở y tế (5) có đủ điều kiện về
trang thiết bị, về đội ngũ cán bộ y tế để tiến hành các thủ tục đăng ký
cho người hiến. Khi nhận được thông báo của Trung tâm điều phối quốc gia
về ghép bộ phận cơ thể người, cơ sở y tế quy định tại Điều 16 của Luật
này có trách nhiệm trực tiếp gặp người hiến để tư vấn thông tin có liên
quan đến hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể và hướng dẫn việc đăng ký hiến
theo mẫu đơn; thực hiện việc kiểm tra sức khoẻ cho người hiến (6). Đến
đây, người hiến mô, bộ phận cơ thể người để được hiến phải đảm bảo được
điều kiện về sức khoẻ. Còn trường hợp hiến xác sau khi chết thực hiện
theo quy định điều 19 của Luật.
Một vấn đề đặt ra là liệu điều kiện hiến xác, bộ phận
cơ thể người sau khi chết vào mục đích nghiên cứu khoa học có khác gì
với điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết vì mục đích chữa
bệnh không? ở đây, chúng ta có thể dễ dàng trả lời được là giữa chúng có
sự khác nhau bởi mục đích của chúng là khác nhau. Vì vậy, có thể thấy
có nhiều trường hợp không đủ điều kiện để hiến mô, bộ phận cơ thể vì mục
đích chữa bệnh, nhưng vẫn có thể hiến và được sử dụng và mục đích
nghiên cứu khoa học.
2.3 Điều kiện về sức khỏe
Việc hiến mô, bộ phận cơ thể nói chung cũng như việc
hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong việc mang lại hay kéo dài sự sống cho người bệnh. Thực tế
trên thế giới và ở Việt Nam cũng đã xảy ra những trường hợp việc lấy,
ghép nhầm mô, bộ phận cơ thể của người hiến bị bệnh (nan y) cho người
bệnh đã gây ra những cái chết rất thương tâm hoặc trường hợp bác sĩ lấy
nhầm bộ phận cơ thể của người hiến dẫn tới tính mạng của người hiến bị
đe dọa nghiêm trọng. Do đó, để bảo đảm tính mạng, sức khoẻ cũng như tinh
thần cho người hiến, Luật đã đưa ra những quy định về hiến xác, bộ phận
cơ thể sau khi chết phải được kiểm tra sức khoẻ, tuy nhiên lại chưa quy
định cụ thể người hiến cần phải đáp ứng được điều kiện gì về sức khoẻ.
Nhưng theo quy định tại Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc
thực hiện kỹ thuật cấy ghép thận, gan… cho người bệnh thì trong Quyết
định này có chỉ rõ là người hiến về sức khoẻ không bị mắc các bệnh nan y
như: viêm gan B, nhiễm HIV,…
Bên cạnh các quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận
cơ thể, hiến xác sau khi chết, cơ sở y tế có thẩm quyền để có thể lấy
được xác, bộ phận cơ thể người hiến sau khi chết, Luật cũng xác định
thêm một số điều kiện khác như: điều kiện xác định chết não, liệu có cần
sự đồng ý của gia đình người hiến không trong trường hợp người thân của
họ muốn hiến xác, bộ phân cơ thể? Trong Luật quy định người từ đủ 18
tuổi trở lên mà tự nguyện làm đơn hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi
chết thì không cần sự đồng ý của gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế xảy
ra trường hợp người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nhưng khi họ
chết rồi cơ sở y tế có thẩm quyền đến lấy thì gia đình người hiến không
đồng ý, trường hợp này cơ sở y tế có được quyền cưỡng chế lấy không? Vấn
đề này (7), ở Pháp đã áp dụng cơ chế suy đoán sự đồng ý, tức là khi
phát hiện một người bị chết, cơ sở y tế có thẩm quyền kiểm tra trên hệ
thống thông tin điện tử xem người đó có đăng ký từ chối hiến không, nếu
người đó không đăng ký thì suy đoán rằng người đó đã đồng ý hiến xác, bộ
phận cơ thể sau khi chết. Tuy nhiên, trong trường hợp này nếu gia đình
người hiến không đồng ý hiến thì cơ sở y tế cũng không lấy xác, bộ phận
cơ thể của người đó.
Điều 5 của Luật quy định người hiến mô, bộ phận cơ
thể khi còn sống cũng như sau khi chết đều là người phải từ đủ 18 tuổi
trở lên tự nguyện làm đơn đăng ký hiến. Tuy nhiên, Luật cũng quy định
trong trường hợp người chết không có đơn đăng ký hiến xác, bộ phận cơ
thể sau khi chết nhưng nếu gia đình người hiến đồng ý thì cơ sở y tế có
thẩm quyền vẫn đựợc nhận (8).
Một vấn đề đặt ra là, những người sau khi chết không
có thẻ đăng ký hiến xác, sau khi chết mà gia đình người đó đồng ý hiến
bằng văn bản thì có bắt buộc người chết đó phải từ đủ 18 tuổi trở lên
không? Trong trường hợp người chết 17 tuổi không có thẻ đăng ký hiến mà
gia đình họ đồng ý hiến cho y học bằng văn bản thì giải quyết vấn đề này
thế nào, Luật cũng chưa có quy định.
3. Một số kiến nghị
3.1 Về trình tự, thủ tục đối với người hiến xác, bộ phận cơ thế sau khi chết
- Cần phải sớm có quy định pháp luật về trình tự thủ
tục đối với việc hiến mô, bộ phận cơ thể người cho mục đích nghiên cứu
khoa học cũng như quy định về điều kiện đối với các tổ chức nhận xác, bộ
phận cơ thể người để nghiên cứu khoa học. Quy định này rất quan trọng
bởi, hiến xác, bộ phận cơ thể người vì mục đích chữa bệnh là biện pháp
ngăn chặn hậu quả, thì nghiên cứu khoa học lại giúp phát hiện và phòng
ngừa bệnh tật.
- Về thủ tục đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người
sống; thủ tục đăng ký hiến bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết,
theo chúng tôi, ở khoản 4 Điều 12 cũng như khoản 4, Điều 18 của Luật về
trách nhiệm của cơ sở y tế là trực tiếp gặp người hiến để tư vấn về các
thông tin có liên quan là không khả thi, vì người dân sẽ hiểu theo nghĩa
các cơ sở y tế phải có trách nhiệm cử cán bộ tới nhà gặp trực tiếp
người hiến để tư vấn, mà cơ sở y tế thì không đủ người để có thể làm
được điều đó. Vì vậy, chúng tôi đề nghị sửa đổi khoản 4, Điều 12, Điều
18 theo hướng sau: “Cơ sở y tế có trách nhiệm mời người hiến đến cơ sở y
tế để trực tiếp cung cấp đầy đủ các thông tin có liên quan cho người
hiến biết”.
3.2 Về năng lực chủ thể của người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết
- Về độ tuổi của người hiến mô, bộ phận cơ thể sau
khi chết theo Điều 22 của Luật, trường hợp người chết mà không có thẻ
đăng ký hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người sau khi chết, theo chúng
tôi, Luật không nên giới hạn độ tuổi là đủ 18 tuổi trở lên mà người dưới
18 tuổi cũng có thể được chấp nhận nếu được gia đình hoặc người giám hộ
hợp pháp của người đó đồng ý. Bởi vì:
Thứ nhất, Luật hiện hành cho phép cơ sở y tế có quyền
nhận mô, bộ phận cơ thể từ người chết trong trường hợp người đó không
có thẻ đăng ký hiến sau khi chết, nhưng gia đình, cụ thể là người thân
thích theo quy định của pháp luật của họ có đơn muốn hiến.
Thứ hai, trường hợp người đó hiến khi còn sống thì
điều kiện về năng lực chủ thể tức khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi còn đặt ra, còn trường hợp người đó đã chết thì theo quan điểm của
chúng tôi, nếu trên cơ sở quy định pháp luật đã được gia đình đồng ý thì
người hiến đó không cần thiết phải là đủ 18 tuổi trở lên theo quy định
của Luật mà có thể thấp hơn 18 tuổi.
Có ý kiến cho rằng, nên giới hạn độ tuổi người hiến
bộ phận cơ thể từ 18 tuổi đến 60 tuổi. Theo chúng tôi, điều này là không
cần thiết bởi nhiều người tuy tuổi cao, song về mặt sinh học, bộ phận
cơ thể của họ vẫn tốt mà họ tự nguyện hiến thì vẫn có thể lấy được. Mặt
khác, việc hiến bộ phận cơ thể ở người sống ngoài việc phục vụ chữa bệnh
còn nhằm mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy. Do đó, không nên
giới hạn độ tuổi hiến mô, bộ phận cơ thể người khi còn sống.
- Về năng lực chủ thể của người hiến là cần thiết
trong trường hợp người đó hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống
hoặc đăng ký hiến sau khi chết. Tuy nhiên, trường hợp mà người chết
không để lại di chúc mà gia đình họ làm đơn hiến mô, bộ phận cơ thể của
con mình nhằm mục đích cứu chữa người bệnh thì vấn đề năng lực nhận thức
của người đó – theo quan điểm của chúng tôi – lại không nên đặt ra, bởi
cho dù người đó có thể bị rơi vào trường hợp bị tâm thần hoặc mất năng
lực hành vi đi chăng nữa thì cũng không có nghĩa là bộ phận cơ thể nào
của họ cũng bị ảnh hưởng hoặc không sử dụng được để cứu chữa người bệnh.
Do đó, chúng ta không nên đặt ra vấn đề khả năng nhận thức cũng như
năng lực hành vi của người hiến trong những trường hợp như trên.
3.3 Về sức khỏe đối với người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết
Sức khỏe là điều kiện vô cùng quan trọng đối với
người hiến trong quá trình hiến mô, bộ phận cơ thể người nhằm cứu chữa
người bệnh. Do vậy có thể dễ dàng nhận thấy sức khỏe là điều kiện tiên
quyết và quan trọng đối với mục đích cứu chữa bệnh, bởi nó không chỉ ảnh
hưởng đến sức khỏe của người hiến mà nó còn ảnh hưởng đến sức khỏe của
người nhận ghép. Tuy vậy, nếu sử dụng xác, bộ phận cơ thể vào mục đích
nghiên cứu khoa học thì không nhất thiết phải bắt buộc điều kiện về sức
khỏe của người hiến, bởi vì đích cuối cùng của nghiên cứu khoa học là
nhằm tìm nguyên nhân và cách thức phòng ngừa bệnh tật để cứu chữa người
bệnh. Vì vậy, dù là người có bệnh hay không có bệnh mà hiến xác, bộ phận
cơ thể sau khi chết nhằm mục đích giảng dạy và nghiên cứu khoa học thì
đều có thể nhận được.
3.4 Một số kiến nghị liên quan khác
Bên cạnh những kiến nghị trên để hoàn thiện pháp luật
về điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết, chúng ta cần
phải quan tâm đến những vấn đề sau:
- Nên nghiên cứu quy định về điều kiện và trình tự,
thủ tục cho phép người bị tuyên tử hình có quyền hiến xác, bộ phận cơ
thể của mình sau khi chết, đây là một việc làm rất nhân văn và mang tính
nhân đạo sâu sắc. Vì thế nên có quy định về điều kiện hiến xác, bộ phận
cơ thể đối với tử tù trong trường hợp họ muốn hiến, ngoài những điều
kiện chung về độ tuổi, năng lực nhận thức, sức khỏe… thì cần phải có
những quy định đầy đủ hơn nữa về vấn đề này. Ví dụ, cần phải bãi bỏ quy
định là không cho mang xác tù nhân ra khỏi pháp trường (tức là xác phải
chôn trong pháp trường)(9) … đây là một vấn đề nhạy cảm nên cần phải có
sự cân nhắc thận trọng giữa việc đảm bảo an ninh, an toàn và vấn đề nhân
đạo, sức khỏe nhân dân.
- Luật cũng nên quy định về điều kiện hiến, nhận, sử
dụng mô, bộ phận cơ thể sau khi chết để nghiên cứu khoa học một cách
chặt chẽ bởi: thứ nhất, hiến xác, bộ phận cơ thể là một trong hai mục
đích quan trọng được ghi nhận trong BLDS 2005 (đó là mục đích chữa bệnh
và nghiên cứu khoa học); thứ hai, quy định đầy đủ về vấn đề này nhằm
tránh việc các tổ chức, cá nhân lợi dụng để bí mật bán mô, tạng vì mục
đích thương mại. Đồng thời theo chúng tôi, cũng nên quy định những
trường hợp mà người hiến xác, bộ phận cơ thể người vì mục đích chữa
bệnh, nghiên cứu khoa học nhưng mục đích đó không được thực hiện, thì
gia đình người hiến có thể được lấy lại xác để mai táng theo nghi lễ
truyền thống hoặc hoả thiêu. Các văn bản dưới Luật cũng cần phải quy
định rõ vấn đề này.
—————–
(1) Xem Toạ đàm về Pháp lệnh hiến, lấy, ghép mô,
bộ phận cơ thể và khám nghiệm tử thi 2004. Nhà Pháp luật Việt – Pháp, Hà
Nội 2004.
(2) Điều 30 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989.
(3) Theo bà Annbel Dunbavand, bác sĩ Trung tâm
cấy, ghép Quốc gia Cộng hoà Pháp: Đối với trẻ em dưới 13 tuổi bố mẹ là
người quyết định về việc cho mô, bộ phận cơ thể tức là phải có sự đồng ý
bằng văn bản của bố mẹ người đó. Còn đối với người từ đủ 13 tuổi trở
lên thì người đó có thể tự mình đưa ra ý kiến và tự quyết định về việc
cho hay không cho bộ phận cơ thể người, đồng thời pháp luật Cộng hoà
Pháp cũng quy định người từ đủ 13 tuổi trở lên có quyền đăng ký từ chối
việc hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết. Xem Toạ đàm về Pháp
lệnh hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể và khám nghiệm tử thi 2004 . Nhà
Pháp luật Việt – Pháp, Hà Nội 2004.
(4) Khoản 1, Điều 6 Luật Hiến, lấy, ghép mô bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006.
(5) Xem Điều 16 Luật Hiến, lấy, ghép mô bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006.
(6) Xem Điều 18 Luật Hiến, lấy, ghép mô bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006.
(7) Toạ đàm dư thảo Pháp lệnh hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và khám nghiệm tử thi 2004.
(8) Điểm C, Điều 21 của Luật Hiến, lấy, ghép mô
bộ phận cơ thể người hiến, lấy xác năm 2006 quy định: Trường hợp không
có thẻ hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết thì việc lấy phải được
sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó hoặc
vợ, chồng hoặc đại diện các con đã thành niên của người đó.
(9) Theo Chỉ thị số 138/KC1 năm 1974 của Bộ Nội
vụ thì xác tử tội phải chôn ở pháp trường, thân nhân không được đem về
an táng. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không có quy định nào về việc
cho phép thân nhân nhận lại xác; đến nay, Chỉ thị trên vẫn còn hiệu lực
và cản trở quyền được hiến xác của tử tù.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆNT Ử
0 comments:
Post a Comment